Vô h́nh chung, nhân vật Trí Quang trở thành đối đầu cùng lúc với cả Mỹ lẫn CSVN. Và khi Mỹ đă bật đèn xanh với túi đô la lè kè bên cạnh th́ dẫu cho họ có muốn sông cạn núi ṃn trong chớp mắt cũng chẳng có ǵ là khó. Đă có quá nhiều tài liệu công bố nói rằng, Mỹ đă cho nhân vật Trí Quang một trong ba sự chọn lựa là: Im lặng bó tay vào chùa dịch kinh niệm Phật, lưu vong sang Hoa Kỳ hay về thăm… cụ Diệm.
|
Sau hơn 30 năm ra nước ngoài im hơi lặng
tiếng, gần đây ông Liên Thành, cựu thiếu tá
trưởng ty cảnh sát Thừa Thiên Huế (xin viết
tắt là LT), viết hồi kư nói lên những ǵ ông
biết về t́nh h́nh chiến tranh, chính trị và
xă hội tại Miền Trung Việt Nam trong khoảng
thời gian từ 1963 đến 1975.
Được tin LT sẽ ra mắt sách tại Sacramento,
thành phố thủ phủ tiểu bang California vào
đầu tháng 11 năm 2009. Đang là một cư dân
tại thành phố nầy, tôi xin gởi lời chào LT,
một đồng hương xứ Huế và cũng người đồng
trang lứa với tôi. Trước cùng lớn lên và đă
sống hơn nửa đời trong khung trời Huế và nay
trong cảnh “tha hương ngộ cố tri!.
Tập sách “Biến Động Miền Trung” (viết tắt
BĐMT) và những bài viết của LT về một số
nhân vật thành danh xứ Huế đă tạo nhiều dư
luận xôn xao trong cộng đồng người Việt hải
ngoại. Xôn xao, bởi v́ về mặt tâm lư, khát
vọng lư giải hậu quả bi thảm của cuộc chiến
Việt Nam đă trở thành một nỗi ám ảnh thường
trực và chung thân đối với tập thể người
Việt tỵ nạn ở nước ngoài. Sự phân định, xác
quyết, chỉ danh điểm mặt hai tuyến nhân vật
thiện–ác, chánh–tà trong cuộc tương tranh ba
mươi năm đầy máu lệ là một nhu cầu t́nh cảm,
tâm lư và tri thức của cả một thế hệ đang
lần bước đến tuổi già, đang từng tháng, từng
ngày thay phiên nhau về đất.
Trong một tiến tŕnh truy t́m bằng chứng,
phân tích, lư giải để t́m câu trả lời cho
một vấn đề, nếu chỉ đứng về mặt phương pháp
luận th́ Đông – Tây rất khác nhau. Người
phương Tây thiên về lư, phương Đông ta thiên
về t́nh; phương Tây thường lư luận và chứng
minh bằng dữ kiện khách quan độc lập, phương
Đông ta thường suy diễn bằng cảm nhận và
kinh nghiệm chủ quan tập thể. Xác định điều
nầy để nói lên sự dè dặt và cẩn trọng cần
thiết về tính khả tín – mức độ đáng tin cậy
– khi đọc và t́m hiểu một bản tin thời sự
hay một tác phẩm liên quan đến t́nh h́nh
thời cuộc như LT và BĐMT.
Qua những điều LT đă viết và đă nói trên đài
phát thanh, trong các buổi hội luận th́ chi
tiết nầy kia có chỗ khác nhau, nhưng nội
dung và chủ đích chỉ có 3 điều nổi rơ hơn
cả:
Thứ nhất, LT đă cố gắng tạo ra một
bối cảnh xuất thân đầy sôi động về vai tṛ
và quyền lực cá nhân trong vị thế trưởng ty
cảnh sát Thừa Thiên Huế quá nhỏ bé và giới
hạn của bản thân ḿnh trong bối cảnh chung
của toàn đất nước bằng một thế giới thiên
h́nh vạn trạng của lĩnh vực “t́nh báo”. Đó
là một thế giới của mê hồn trận mà trong
lịch sử chiến tranh và chính trị kim cổ, cho
đến nay, con người vẫn c̣n hoang mang trong
vấn nạn nhiều hơn là giải đáp v́ nó dày đặc
huyền thoại nhiều hơn là dữ kiện.
Thứ hai, LT đă cố ư cột buộc và đồng
hóa phong trào đấu tranh Phật giáo 1963 và
các hoạt động của Phật giáo trở về sau đều
là cộng sản. Theo ông, các nhà sư Phật giáo
trong hàng giáo phẩm lănh đạo phong trào là
đảng viên cộng sản. Từ đó, LT suy luận và
diễn giải rằng, các sinh hoạt Phật giáo có
liên quan gián tiếp hay trực tiếp với một
t́nh h́nh xă hội miền Nam thời chiến đầy
biến động là do Cộng sản Việt Nam (CSVN)
điều khiển, giật giây. Tự phong cho ḿnh vai
tṛ phán quan của một kiểu ṭa án mặt trận
thời chiến pha trộn với h́nh thức ngôn ngữ
của các cuộc đấu tố, LT cho ḿnh quyền tự do
mạ lỵ không tiếc lời các đối tượng mà ông đă
“phán” là cộng sản.
Thứ ba, LT đă tự ḿnh, cùng lúc, đứng
ra làm thủ lănh, chứng nhân, nạn nhân, quần
chúng… của một thế giới ma để ông tha hồ gắn
lên môi, lên mép, lên nhân dáng tưởng tượng
của những người đă nằm im trong ḷng đất
những lời nói, ư tưởng, động thái, chứng
tích không thể kiểm chứng và không c̣n ai
đối chất. Từ đó, LT đă đơn giản yên trí
rằng, ông đă “đả thông tư tưởng”, thuyết
phục được độc giả và người nghe đứng về phía
ông để cho đấy là “sử liệu sống” của thời
nay.
T́m hiểu phản ứng của một số người giới hạn
có dùng internet và đọc sách báo tiếng Việt
thuộc mọi thành phần xă hội, tôn giáo, có
biết đến LT và BĐMT th́ được biết thái độ
của họ đă thể hiện trong nhiều cách thế khác
nhau:
• Những người tin những điều ông nói là đúng
sự thật và lên tiếng th́ đứng khắp mọi phía
bên nầy, bên kia; đằng nầy, đằng nọ nên kết
luận phía nầy lắm lúc trở thành câu hỏi của
phía khác.
• Những người cho LT là dối trá th́ phản ứng
lạnh nhạt. Họ cho rằng đây chẳng qua là một
cuộc đánh trống khua chiêng của LT tự quảng
cáo ḿnh một cách dễ dăi phù hợp với bản
chất cố hữu của ông từ trước tới nay với sự
hỗ trợ mạnh mẽ của nhóm “Phù Ngô phục hận”
đầy bản lĩnh đang đứng ở hậu trường (?!)
• Những người có quan tâm mà im lặng thường
không phải là họ không biết, nhưng chỉ v́
vấn đề và hoàn cảnh chẳng đáng quan tâm nên
không đáng nói mà thôi.
Trong giới hạn của một bài viết ngắn dưới
h́nh thức “đôi điều góp ư”, thay cho lời
chào hỏi xă giao khách phương xa đến viếng
vùng ḿnh, người viết không có tham vọng và
có lư do đứng ở một vị trí nào đó để làm
công việc biện minh không cần thiết và phán
xét chưa đủ căn cứ cho các nhân vật và hoàn
cảnh đă được nêu lên trong BĐMT. Những nhân
vật lịch sử và những ván bài thời cuộc xin
trả về cho lịch sử sẽ phán xét công bằng và
chung quyết. Đây chỉ là đôi lời dấy lên như
một phản ứng “qua đường thấy việc bất bằng
chẳng tha” mà thôi. Xin đi vào nội dung:
Điệp báo và nói láo:
Đó là nhan đề cuốn sách “Of Spies and Lies”
của John F. Sullivan viết về mặt trận t́nh
báo trong chiến tranh Việt Nam. Nội dung
cuốn sách đă trực tiếp hay gián tiếp nhắc
đến nhiều trường hợp các nhân sự Việt Nam
trong giới thường dân, công chức, cảnh sát,
quân đội… làm cộng tác viên, điểm chỉ viên
với các đơn vị t́nh báo của Mỹ đă bị các đơn
vị đặc nhiệm phản t́nh báo của CSVN đánh
tráo tin tức. Sự đánh lừa trong nhiều trường
hợp đă tạo ra những nguồn tin sai lạc nhằm
gây mâu thuẫn, phân hóa, chia rẽ, hạ bệ và
bôi đen phẩm cách của những nhân vật “bị”
nổi tiếng mà xét ra không có lợi cho ư đồ
lâu dài trong sách lược chiếm trọn miền Nam
của họ. Giới t́nh báo hành chánh bị lừa ngồi
trong công sở và bàn giấy chỉ việc rung đùi
nghe báo cáo từ các cộng tác viên, yên chí
lớn là đă “nắm vững tin tức t́nh báo” để
phản ứng. Thái độ chấp nhận vấn đề – dối trá
hóa thật – mà cứ mang ảo tưởng là nắm vững
và giải quyết được vấn đề đă góp phần tạo
nên những tai họa cho địa phương và cả miền
Nam sau nầy.
Đọc phần nói về vai tṛ t́nh báo bao quát
trong mọi lĩnh vực, thấu suốt mọi vấn đề,
nắm vững mọi hoàn cảnh, thấy được mọi ngơ
ngách bao gồm luôn cả ta, địch và đồng minh
của LT trong BĐMT, người đọc có cảm tưởng
như đang coi chuyện vơ hiệp kỳ t́nh. Trong
đó, chưởng môn LT ngồi trong trướng vơ đàn
mà thấy hết hoàn toàn thiên hạ sự. V́ vậy,
có thể tạm gọi BĐMT là một tập “hồi ức tạp
ghi”… nghĩ chi nói nấy của tác giả LT; c̣n
rất xa mới đủ tính khả tín của chứng tích và
sử liệu.
Được biết LT lên tiếng là chỉ chấp nhận
tranh luận “sự nghiệp t́nh báo” của ông với
những người ở trong lĩnh vực t́nh báo mà
thôi (?!). Riêng kẻ viết những ḍng nầy
chẳng thuộc ṇi hổ báo, t́nh báo ǵ cả;
nhưng chưa hẳn là kẻ “ngoại đạo” trong lĩnh
vực nầy. Không biết nên chăng cần hé chút
tâm sự riêng rằng, tôi đă từng dịch những hồ
sơ “classified” cho Peter Downs, giám đốc cơ
quan xă hội Tin Lành Việt Nam (VNCS:
Vietnamese Christian Social Services) suốt
mấy năm liền song song với nghề dạy học. Sau
nầy mới biết ông ta là cục phó CIA đặc trách
miền Trung. V́ chỉ “dịch nhi bất tác” nên
sau 1975, tôi chỉ bị đuổi dạy, lái xe lam mà
khỏi đi tù.
Tôi có hai người anh ruột. Ông anh cả là chỉ
huy trưởng lực lượng Biệt Kích Dù lần lượt ở
các trại Biệt Kích trọng điểm như Thượng
Đức, Khâm Đức và Khe Sanh, gắn liền số phận
sinh tử với các tổ nhảy toán t́nh báo vào
đất địch. Anh đă tử trận ở Khe Sanh năm 1967
– “Biệt Kích Dù vị quốc vong thân!” Ông anh
thứ hai cũng ở trong lĩnh vực t́nh báo của
quân lực Việt Nam Cộng hoà (VNCH), làm ở
pḥng an ninh Không đoàn 41. Thời gian làm
việc với P. Downs và hoàn cảnh anh em chia
sẻ, thông tin thường xuyên cho nhau đă giúp
tôi học hỏi, làm quen và có được cái nh́n
không ảo tưởng về một thế giới mà người khí
tiết, kẻ gian tà, nhóm trung thành, phường
phản bội biến hiện, quần thảo nhau như bóng
với h́nh thường khó ḷng phân biệt. Đó là
thế giới t́nh báo hay nhân danh t́nh báo.
Và, thêm vào đó, bản thân tôi cũng là chuyên
viên điều tra ṭa án (court investigator) về
các hồ sơ tội phạm ngược đăi thanh thiếu
niên thuộc chương tŕnh CPS của chính phủ
Hoa Kỳ trong suốt 18 năm công tác liên tục
tại Sacramento.
Học hỏi và kinh ngiệm đă chỉ cho tôi biết
rằng, đánh giá kết quả t́nh báo, điều tra là
nh́n vào thành quả chứ không thể căn cứ vào
hiện tượng chiến thuật và sách lược biểu
hiện đầy vẻ “dung dăng, dung dẻ” biến hiện
không lường trên bề mặt nổi. Kiểu cách dùng
lời lẽ đại ngôn để vẽ hươu, vẽ vượn cốt làm
hoa mắt thiên hạ về những điều vừa mâu
thuẫn, vừa không thể nào chứng minh được là
một lối diễn xuất phường tuồng, chẳng dính
dáng ǵ đến tổ chức t́nh báo và tác dụng của
t́nh báo đích thực cả.
Hoàn cảnh thực tế của Thừa Thiên Huế trong
thời kỳ LT làm trưởng ty cảnh sát chỉ c̣n
cái lơi thành phố là tương đối c̣n an ninh
trong phập phồng lo sợ. Có thể nói đây là
thời kỳ tệ hại nhất về mặt an ninh của xứ
nầy. Chiều chiều, từng đoàn người dân quê
trong độ tuổi lao động từ các vùng nông thôn
phải đạp xe đạp lên thành phố ngủ trọ qua
đêm. Bốn phía đều trở thành những vùng xôi
đậu, ngày Quốc gia, đêm Việt cộng. Đi xe đạp
rời khỏi cột cờ Phu Văn Lâu chừng 10 phút ra
khỏi giới hạn An Ḥa, Bao Vinh, Chợ Dinh, Dạ
Lê, Thủy Xuân, Phường Đúc… sau chạng vạng
tối là đă nơm nớp lo sợ du kích cộng sản bắt
cóc hay bắn sẻ bất cứ lúc nào.
Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968
của CSVN trên toàn miền Nam th́ Huế bị rơi
vào t́nh trạng thê thảm nhất. Trên 5000
người dân vô tội bị thảm sát. Theo các nguồn
thông tin đáng tin cậy th́ thủ phạm điểm chỉ
bắt người và giết người là những giao liên
du kích cộng sản nội thành mà phần đông
trước đó, đă quen đường thuộc lối, lên núi
và về đồng bằng; vào thành phố Huế dễ dàng
như đi chợ. Nếu LT có một mạng lưới t́nh báo
“cái ǵ cũng biết” như ông nói th́ thực tế
đau thương của Huế tự nó đă phản bác nghiêm
khắc lời tự phong vu vơ, hoàn toàn thiếu căn
cứ của ông. Theo tác giả chuyên nghiệp t́nh
báo về cuộc chiến Việt Nam, James J. Wirtz,
viết trong sách “Tổng công kích Tết: Sự thất
bại của t́nh báo trong chiến tranh” (The Tet
Offensive: Intelligence Failure in War) th́
t́nh báo Mỹ đă biết trước cuộc tổng công
kích nầy từ tháng 11 năm 1967, nhưng chưa
xác định được ngày giờ đích xác. Sự thất bại
của t́nh báo Mỹ bắt nguồn từ sự thất bại của
t́nh báo Việt Nam, mặc dầu đă biết trước sự
cố từ hơn 3 tháng trước.
Sự đại ngôn thái quá của LT trong lĩnh vực
t́nh báo đă gây tác dụng ngược cho các chi
tiết về những nhân vật và hoàn cảnh mà ông
đă đưa ra với dụng ư chứng minh, phân loại
và phê phán theo quan điểm tố cộng cực đoan
và bất nhất riêng của ḿnh. Mức độ đáng tin
cậy về tính chất thiện, ác; chánh, tà của
người và việc trong BĐMT cũng theo sự thổi
phồng sai sự thật đó mà rơi xuống mức độ
thấp nhất, hay trong nhiều trường hợp đă bị
hiểu ngược lại. Chào mừng LT đến Sacramento,
tôi chỉ muốn nhắc với người anh em đồng
hương, đồng tuổi, thuộc ḍng dơi quư tộc
triều Nguyễn rằng, bản chất của t́nh báo là
sự thông minh (intelligence) chứ chẳng phải
là ngược lại.
Trả lời và câu hỏi
Như đă xác định theo tiêu đề của bài viết,
đây chỉ là đôi điều góp ư ngắn gọn. Muốn
phân tích và chia sẻ cho thấu t́nh đạt lư về
vấn đề BĐMT với LT th́ ít nhất cũng cần vài
ba trăm trang như có người đă viết, v́ nó
liên quan đến quá nhiều nhân vật, nhiều sự
cố đă thành cố sự. Do đó, tôi chỉ đi thẳng
vào trọng tâm của vài ba vấn đề tiêu biểu.
Trước hết là vấn đề Phật giáo với cộng sản.
Phật giáo Việt Nam (PGVN) – nói chung chứ
không phải là giáo hội PGVN thân chính quyền
đang hiện diện trong nước – cơ bản theo tinh
thần Đại Thừa. Đạo Phật đi vào cuộc đời hiện
thực nên có sự tương tác tùy duyên giữa đạo
và đời; đời và đạo. Tinh thần nhập thế của
đạo Phật Việt Nam đă được thể hiện hài ḥa
từ thời Lư Trần. Vua Trần Nhân Tông là một
thiền sư. Nhưng khi cần, vua cũng cầm quân
ra trận đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên.
Khi thanh b́nh trở lại, vua treo kiếm, coi
chuyện công danh như đôi dép bỏ, lên Trúc
Lâm Yên Tử tu hành giác ngộ. Đạo Phật Việt
Nam uyển chuyển như một ḍng sông; đi song
song với ḍng lịch sử dân tộc nên phải chảy
qua những chặng đường quanh co, khúc khuỷu
theo vận nước thăng trầm. Nh́n đạo Phật mà
chỉ nh́n vào một giai đoạn, một bộ phái, một
tổ chức hay một phong trào riêng lẻ nằm
trong toàn thể sinh hoạt Phật giáo, rồi vội
vàng kết luận đạo Phật như thế này, như thế
kia… là nh́n biển qua sóng, nh́n sông qua
bèo; nên có nh́n mà không thấy!
Khi Việt Minh (tiền thân CSVN) dấy lên phong
trào toàn quốc chống Pháp vào mùa Thu năm
1945, những người Việt Nam yêu nước không
phân biệt khuynh hướng, thành phần, giai cấp
xă hội đều lên đường tham gia kháng chiến.
Lịch sử c̣n ghi lại những h́nh ảnh cảm động
của xóm đạo Tha La. Tuy đạo Thiên Chúa chịu
nhiền ân nghĩa với Pháp, nhưng năm 1946,
thanh niên xứ đạo Tha La bỏ ruộng vườn, xóm
đạo lại đằng sau; Linh mục Nguyễn Bá Kính
cũng cởi áo lên đường cứu nước. PGVN với
lịch sử gắn liền với vận nước nên nhiều nhà
sư từ Bắc chí Nam cũng đă tham gia những
phong trào cứu quốc nên đă bị Pháp gọi là
“Giặc Thầy Chùa”!
Sau thời kỳ Việt Minh trở thành CSVN th́ sự
hệ lụy giữa tôn giáo và chính trị kéo dài
khi nỗi, khi ch́m; nhưng chưa bao giờ đạo
Phật quay lưng với đất nước và dân tộc.
Trong BĐMT, LT đă nh́n thấy cộng sản khắp
nơi. Điều nầy đúng. Khắp miền Nam, từ phủ
tổng thống đến các nha, sở, bộ; trường học,
chùa chiền, tu viện; thậm chí tư thất, tư
dinh đều có cộng sản len lỏi vào. LT chọn
bối cảnh cho “biến động miền Trung” bằng
cách cắt một mảnh cuối cùng trong cuộc chiến
Việt Nam từ 1963 đến 1975. Nghĩa là từ khi
có phong trào tranh đấu Phật giáo và Ngô
triều bị sụp đổ cho đến khi CSVN chiếm hết
miền Nam.
Nội dung và chủ đích chính của LT và cái
“Think Tank” (bồn trí tuệ) sau lưng ông là
trang hoàng, sơn phết, làm đầy cho một cái
khung định kiến đă đúc sẵn. Cái khung khép
lại chỉ đơn giản như thế nầy:
Phật giáo + Cộng sản = Đảo chánh nhà Ngô
+ Mất miền Nam.
Đó là… cứu cánh của cách đặt vấn đề trong
BĐMT. Mọi phương tiện dầu đúng, dầu sai, dầu
hay, dầu dở đều là phương kế khả thi nếu nó
phục vụ cho cứu cánh đă đặt định. Điều khó
hiểu nhất đối với một người đọc trung b́nh
là có chăng trăm ngh́n sự kiện mâu thuẫn và
cách hành xử nghịch lư như những điều LT đă
diễn tả trong BĐMT đă thực sự diễn ra tại
miền Nam? Những thắc mắc chính đáng của độc
giả đă thể hiện qua những câu hỏi cụ thể,
đại khái như: Tại sao một trưởng ty cảnh sát
nhỏ bé như LT lại có quyền lực khắp nơi,
khắp chốn như vậy? Tại sao một nhân viên cấp
tỉnh như LT lại có uy quyền trên cả hàng
tổng, bộ trưởng? Tại sao một hệ thống quân
giai có kỷ cương như quân lực VNCH lại để
cho một viên thiếu tá địa phương như LT có
quyền hành xử tùy tiện và bất chấp như thế?
Chỉ có một trong hai bên đúng: Hoặc là giới
lănh đạo quân đội và dân sự miền Nam hoàn
toàn vắng bóng; hoặc là LT nói sai sự thật.
Nói cường điệu quá đà toàn những chuyện
không thật th́ người Huế gọi đó là nói
“phách tấu !” Mà lẽ nào người Hoàng phái như
LT lại đi nói điều phách tấu?!
Có thể nói những tiết mục hấp dẫn nhất trong
BĐMT là những màn “t́nh báo nổi”. Trong kỹ
thuật t́nh báo kinh điển có nói đến phần
nhận diện nhân dáng và quan sát tang vật
hiện trường như một nghệ thuật “warm up”
(hâm nóng) ban đầu để đo lường phản ứng của
nhân vật; chuẩn bị tinh thần cho một tiến
tŕnh tra vấn tiếp theo. Nhưng không biết LT
đă tốt nghiệp ở trường t́nh báo nào mà
thường khi lẫn lộn giữa kỹ thuật nhận diện
với tiểu xảo coi tướng của các ông thầy bói
xem gị gà xứ Huế theo kiểu xếp bộ “mắt
trắng môi thâm”, “tai dơi mặt chuột”… để sơ
kết bản chất của những nhân vật mà ông sắp
sửa kết án (nhưng chưa chắc đă thấy bao
giờ). Cũng theo nguyên tắc t́nh báo quốc tế
th́ sự lẫn lộn giữa định kiến, cảm tính và
lư tính sẽ “nullification” (vô hiệu) kết quả
điều tra.
Trong số nhiều khuôn mặt được ông đưa ra tố
cộng trong BĐMT, có hai nhân vật Phật giáo
được LT chiếu cố tận t́nh nhất là thầy Trí
Quang và thầy Đôn Hậu.
Gần nửa thế kỷ trôi qua, nhưng nhân vật
Thích Trí Quang vẫn c̣n là một đối tượng
tham khảo và phân tích của các học viện
chính trị, nhân chủng và xă hội quốc tế,
nhất là ở Mỹ. Mọi sự suy diễn đơn giản và
phiến diện về nhân vật nầy là một trường hợp
“nullification” dữ kiện đáng tiếc mà tôi đă
có dịp nói ở trên.
Gần 30 năm trước, lúc mới chân ướt chân ráo
đến Mỹ th́ tôi đă đọc một bài viết xuất phát
từ vùng Tiểu Sài G̣n nói rằng, thầy Trí
Quang là trung tá Việt cộng. Ngày CSVN chiếm
Sài G̣n, thầy mang lon đội mũ trung tá cầm
cờ chạy rông ngoài đường phố hoan hô quân
miền Bắc. Tin tức kiểu tiếu lâm AVT đó, nay
mới nghe lại LT lập lại trong BĐMT! Không có
ǵ thú vị và “xả hơi” hơn khi đọc về nhân
vật Thích Trí Quang qua màn t́nh báo LT.
Nguồn tin t́nh báo LT cho rằng, thầy Trí
Quang là đảng viên cộng sản.
Rằng, thầy là cộng sản gộc, nhận chỉ thị
trung ương Đảng đứng ra sách động phong trào
đấu tranh Phật giáo. Đi xa hơn nữa, LT c̣n
viết là thầy Trí Quang có người yêu già nhân
ngăi non vợ chồng là một cô bé làm thị giả
13 tuổi. Có lư nào LT là cháu của danh tăng
Thích Tịnh Khiết lại hiểu tổ chức Phật giáo
Huế có tiếng về giới luật khắt khe, nghiêm
ngặt một cách quá nông nổi và sai lạc đến
như thế. Trong tổ chức Phật giáo làm sao lại
có chuyện tréo cẳng ngỗng “thị giả” nữ 13
tuổi bên cạnh một thượng tọa là thế nào?
Chưa hết, LT c̣n kể là ông đă căi lệnh tướng
tư lệnh cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan, vào lục
soát pḥng riêng của thầy Trí Quang và t́m
thấy một bằng chứng hùng hồn cho sự nghiệp
t́nh báo của ông là một cái x́ líp đàn bà.
Tưởng tượng vượt quá giới hạn đạo lư sẽ trở
thành vô luân.
Thầy Trí Quang là một tu sĩ nổi bật trong
cuộc đấu tranh Phật giáo 1963. Thầy được
(hay bị?) báo chí Âu Mỹ và Việt Nam khai
thác triệt để; h́nh thầy xuất hiện trên
trang đầu của những tờ báo lớn như Time, FP
với những lời b́nh luận nóng hổi. Đa số
những bài viết đều có một điểm chung khá
tương tự về khuynh hướng Dân Tộc của thấy
Trí Quang: Không lệch theo con đường duy vật
vô thần của khối Cộng sản; mà cũng chẳng
nghiêng về con đường duy linh nhất thần của
khối Tư bản. Thầy đứng giữa “hai lằn đạn”.
Bên tả cho thầy là CIA, bên hữu cho thầy là
Cộng sản.
Biến động 1966 phát xuất từ nguồn gốc là
người Mỹ đă chuyển hướng biến Miền Nam thành
kho súng đạn sau khi xoa tay bức tử triều
đại Ngô Đ́nh. Mỹ không muốn mất thời gian
tái tổ chức một xă hội miền Nam theo mẩu mă
dân sự ổn định như Hoa Kỳ mà nóng ḷng muốn
dứt điểm cuộc chiến Việt Nam để ôm Trung
Quốc bằng cách quân đội hóa toàn miền Nam.
Mỹ là chuyên viên dựng lên những chính quyền
quân sự ở các nước chậm tiến và bất ổn như
một sự dằn mặt giới lănh đạo đương quyền do
Mỹ hỗ trợ rằng, hăy khôn hồn, đảo chánh và
lật đổ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tại sao
một miền Nam đang đối đầu với một đối thủ có
bộ máy chính trị quá chặt chẽ như miền Bắc
mà đồng minh Hoa Kỳ lại áp dụng một sách
lược “ăn xổi ở th́” như vậy? Những chính
khách miền Nam chống cộng không nằm trong
guồng máy hành chánh quân sự đều có chung
mối quan ngại như thế.
Thầy Trí Quang và một số các nhà sư Phật
giáo đă đứng lên đ̣i hỏi một hiến pháp và
một sách lược mới thích hợp cho chính thể
VNCH ổn định và có thực lực tại miền Nam
trong thời điểm 1966 là đi ngược lại sách
lược của Mỹ đang triển khai tại vùng châu Á
Thái B́nh Dương. Đồng thời, CSVNcũng thấy
được nguy cơ của một miền Nam ổn định. Trong
lúc đó, Kissinger đang đi đêm thương thuyết
với Bắc Kinh và thuyết phục nội các Johnson
bỏ rơi miền Nam. Vô h́nh chung, nhân vật Trí
Quang trở thành đối đầu cùng lúc với cả Mỹ
lẫn CSVN. Và khi Mỹ đă bật đèn xanh với túi
đô la lè kè bên cạnh th́ dẫu cho họ có muốn
sông cạn núi ṃn trong chớp mắt cũng chẳng
có ǵ là khó. Đă có quá nhiều tài liệu công
bố nói rằng, Mỹ đă cho nhân vật Trí Quang
một trong ba sự chọn lựa là: Im lặng bó tay
vào chùa dịch kinh niệm Phật, lưu vong sang
Hoa Kỳ hay về thăm… cụ Diệm (?!)
Trong suốt 40 năm qua, thầy Trí Quang sống
yên lặng trong chùa, “thủ khẩu như b́nh, thủ
ư như thành”. Tất cả về thầy Trí Quang sau
1975 mà tôi được biết là hai tác phẩm dịch
thuật. Một là bản dịch kinh Kim Cương, 263
trang, do Mai Lan Lệ Ấn hải ngoại ấn hành
năm 1987. Hai là bản dịch kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, 1162 trang, cùng nhà xuất bản năm
1996.
Nhân vật thứ hai được LT mang ra tŕnh làng
là thầy Đôn Hậu. Hành tung và sự nghiệp của
thầy được LT mô tả trong BĐMT thảy đều là
“Việt cộng toàn ṛn”. Rốt lại c̣n “dễ sợ”
hơn là thầy Trí Quang!
Ông Đỗ Trung Hiếu, bí danh Mười Anh, người
Quảng trị, đảng viên cộng sản thâm niên,
được Đảng giao làm công tác Tôn giáo vận,
một thời là kiến trúc sư Phật giáo Nhà nước
đă khách quan nhận định rằng, thầy Đôn Hậu
bị phe Cách mạng cưỡng ép đưa lên núi sau vụ
Tết Mậu Thân ở Huế và đem ra Hà Nội trong
thời gian chiến tranh, gán cho chức Ủy viên
Cố vấn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa
miền Nam; năm 1976 là đại biểu Quốc hội khóa
6 và Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc. Nhưng một thời gian sau,
để phản đối việc chính quyền cộng sản đàn áp
Phật giáo ở miền Nam, thầy Đôn Hậu đă công
khai bằng văn thư từ bỏ hết mọi danh vị và
chức tước bị gán nói trên. Thầy cực lực
chống đối việc thống nhất Phật giáo thành
Phật Giáo Việt Nam (thường gọi là Phật giáo
Nhà Nước hay Phật giáo Quốc doanh) để làm
công cụ chính trị cho đảng Cộng sản. Thầy
giữ vững lập trường này cho đến ngày viên
tịch (23.4.92). Ư hướng của thầy đă biến
thành hành động cụ thể. Cuối đời, thầy Đôn
Hậu đă phó thác ấn tín lănh đạo Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) lại cho thầy
Huyền Quang.
Trong truyền thống Phật giáo, truyền y bát
cho nhân vật lănh đạo kế thừa đồng nghĩa với
sự phó thác tâm phúc nhất niềm tin và lư
tưởng vào sự nghiệp hành đạo độ sanh của
người kế vị. Với ư nghĩa đó, tưởng cũng nên
khách quan t́m lại những nét tiêu biểu nhất
về chí hướng của nhân vật thừa kế thầy Đôn
Hậu trong PGVNTN. Trong cao trào kháng chiến
chống Pháp năm 1945, như tôi đă lược tŕnh ở
trên, thầy Huyền Quang tham gia Phật Giáo
Cứu Quốc Liên Khu 5 trong những ngày đầu của
cao trào yêu nước chống ngoại xâm. Năm 1951,
thầy bị Việt Minh lúc bấy giờ đă biến tướng
thành CSVN bắt giam lỏng 4 năm v́ phản kháng
quyết định độc đoán biến Phật giáo thành hội
đoàn của cộng sản.
Năm 1963, thầy Huyền Quang là tổng thư kư
của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, làm
việc trực tiếp với Uỷ Ban Liên Bộ của chính
phủ tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Năm 1977, thầy
Huyền Quang bị CSVN bắt biệt giam cùng với
các thầy Thiện Minh và thầy Quảng Độ. Năm
1992, sau khi được sự phó thác của thầy Đôn
Hậu trở thành người lănh đạo kế nhiệm của
PGVNTN, thầy Huyền Quang đă viết yêu sách 9
điểm, nêu lên những sai lầm của nhà cầm
quyền và yêu cầu nhà nước CSVN phải tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng. Kết quả là
thầy đă bị CSVN quản chế cho đến ngày viên
tịch (5-7-2008). Ngoài ra, những tu sĩ Phật
giáo ở vị thế lănh đạo khác trong phong trào
đấu tranh Phật giáo mà LT cho là do cộng sản
dựng lên cũng đă bị CSVN ngược đăi, giam cầm
như: Thầy Thiện Minh (chết bí mật năm 1978
sau thời gian bị giam cầm). Thầy Quảng Độ,
thầy Đức Nhuận cũng bị tù tội triền miên.
Một nhà văn nào đó đă kêu lên: “Trong cảnh
tranh tối tranh sáng nầy, anh em nh́n rơ mặt
nhau thật khó!” Nh́n rơ nhau đă khó, phán
xét đúng càng khó hơn.
Đôi điều với Liên Thành
Sau 35 năm im lặng, khi LT lên tiếng để xác
nhận sự hiện diện của ḿnh nơi đất khách th́
tiếng nói của ông cũng đă lạc hậu mất 30
năm! Những ngày đầu sau 1975, người dân miền
Nam hầu hết đều ngỡ ngàng trước thực tế. Câu
hỏi lớn nhất vẫn là tại sao quân lực VNCH
với phương tiện thủy, lục, không quân c̣n
nguyên vẹn lại phải bị bức tử bỏ cuộc?
Khi ra nước ngoài, những thư viện lưu trữ
tài liệu về chiến tranh Việt Nam phần lớn
nghiêm túc và đáng tin cậy trong các trường
đại học Mỹ mà tôi đă theo học và giảng dạy;
kết hợp với phương tiện truyền thông đại
chúng tại các nước tự do Âu Mỹ về Việt Nam
phong phú đă giúp tôi t́m hiểu sự thật nên
xin được bày tỏ sự bất đồng hoàn toàn với
những điều mang tính “hồi ức” và suy diễn
theo cảm tính bốc đồng của LT trong BĐMT. Sự
kiện lịch sử đă nói lên quá rơ rằng, đồng
minh Hoa Kỳ đă bỏ miền Nam v́ quyền lợi của
chính đất nước họ với đối tác mới Mỹ-Trung;
cũng như trước đó, họ đă quyết định thay
ngựa giữa ḍng với chính quyền tổng thống
Ngô Đ́nh Diệm. Mỹ đă thực hiện rốt ráo
nguyên tắc chi phối chính trị của họ trên
toàn thế giới: Ai làm chủ túi tiền, người đó
là vua. Chiến tranh và chính trị cũng chỉ là
một h́nh thức “thương vụ” quốc tế. Có lời
th́ tiếp tục kinh doanh mà thua lỗ th́ dẹp
tiệm. Khi Mỹ đă quyết định th́ họ đóng vai
nguyên nhân, tất cả c̣n lại chỉ là nguyên
cớ.
Trước khi phong trào tranh đấu Phật giáo
phát khởi tại Huế th́ Mỹ đă quyết định thay
chính quyền tổng thống Ngô Đ́nh Diệm v́ tâm
huyết sâu sắc, ḷng yêu nước đậm cốt cách
liêm khiết Nho phong và cách dùng người nhân
hậu của Cụ đă bị nịnh thần và phản thần
chuyên quyền lợi dụng. Nhất là ở miền Trung,
tham vọng quyền lực và vật chất của thế lực
gian thần ngày càng tác oai tác quái đă làm
mờ đi chính nghĩa của cụ Ngô. Niềm tin khô
cạn, nhân tâm lư tán. Thực trạng nầy làm
chậm bước tiến chinh phục ảnh hưởng toàn
vùng châu Á Thái B́nh Dương của Hoa Kỳ nên
sự thay thế lănh đạo là điều không tránh
khỏi. Khi đèn xanh đèn đỏ của phú ông chi
tiền đă chớp th́ nếu không có phong trào
Phật giáo nầy, cũng sẽ có vô số những phong
trào tương tự khác, mang biển hiệu và màu
sắc khác rộ lên.
Ngày 29-3-1973, cả miền Nam có bóng dáng ông
sư bà vải nào lên tiếng đâu, thế mà Mỹ vẫn
đơn phương hoàn toàn rút quân ra khỏi Việt
Nam. Nguyên nhân ở tận Washington DC và Bắc
Kinh chứ không phải ở Huế, Sài G̣n hay nằm
trong đống hồ sơ vụn vặt của một ông trưởng
ty tỉnh lẻ như Liên Thành. Trâu ḅ đại
khánh, ruồi muỗi đánh nhau. Thảm trạng của
thân phận nhược tiểu xưa nay là thế.
Hoặc v́ không đầu tư học hỏi nghiêm túc,
không chịu tham khảo tới nơi tới chốn; hoặc
v́ một động cơ khó hiểu hay dễ dăi nào khác
đă khiến LT đang đứng ở ngă tư thế giới
nhưng vẫn tưởng như c̣n đang đứng ở Ngă Ba
Bánh Bèo xứ Huế “mô rứa răng ri, thích chi
noái nấy” qua 400 trang của BĐMT! V́ không
dụng công, LT đă nh́n Phật giáo qua nhăn
quan một chiều, qua sự hiểu biết giới hạn và
qua nhận thức đóng khung của một viên cảnh
sát trưởng địa phương. LT đă mang định kiến
xào trộn với mớ hồ sơ vi cảnh và cái gọi là
“t́nh báo” đầy hoang tưởng để cột buộc Phật
giáo với cộng sản.
Hồi kư của những nhân vật trùm cuộc chiến
Việt Nam, có đủ kiến văn, dữ liệu và thẩm
quyền để nói như McNamara (viết trong In
Retrospect), Kissinger (trong Diplomacy),
Rusk (trong As I saw It), Nolting (trong
From Trust to Tragedy)… Hay gần gũi với thế
giới người Việt hơn là các hồi kư của hơn 20
nhân vật người Việt đă từng ở vị thế lănh
đạo trong cuộc chiến và thời kỳ cận đại, từ
cựu hoàng Bảo Đại (Con Rồng Việt Nam) viết
về thời kỳ 1913-1987; đến tiến sĩ Nguyễn
Tiến Hưng, cố vấn cho tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, (Khi Đồng Minh Tháo Chạy) viết về
giai đoạn Mỹ tham chiến ở Việt Nam cho đến
năm 1975 là những tư liệu lịch sử và chính
trị đáng tham khảo. Thế nhưng khi viết về
những sự kiện có liên quan đến thời kỳ biến
động trong cuộc chiến và phong trào Phật
giáo thời 1963 vẫn c̣n nhiều dè dặt và giới
hạn. Tác giả cũng như độc giả khi được phỏng
vấn, đều có chung sự suy nghĩ rằng, những
h́nh ảnh và chứng liệu cụ thể nặng tính dữ
kiện và sử liệu khoa học vẫn c̣n chưa đủ tầm
cỡ để nhận định và đánh giá chân xác, khách
quan về bối cảnh và nhân vật liên quan đến
những cuộc biến động miền Trung. Mớ tài liệu
nhếch nhác chạy giặc mang theo, tầm hiểu
biết hạn chế, vị trí nhỏ bé và hồi ức tuổi
già của LT đă đưa ông đến chỗ can đảm một
cách thảm hại không đúng thời, đúng chỗ,
đúng đối tượng đă làm cho độc giả, ngay cả
những chiến hữu một thời thân cận nhất của
LT, thất vọng.
Đây chưa phải là bài điểm sách và cũng chẳng
phải là bài phản hồi nghiêm túc tương xứng
với vấn đề đặt ra mà chỉ là đôi điều góp ư.
Cũng xuất thân là một người con trai đàn ông
Huế như Liên Thành, điều góp ư gần gũi nhất
là những ǵ liên quan đến quê hương xứ sở
ḿnh. Huế nghèo nhưng thanh bạch.
Thanh bạch trong cách sống và trong lời nói.
Người bốn phương yêu Huế v́ cái phong cách
Huế mà đặc biệt là sự tao nhă, tính văn hóa
và dáng vẻ khiêm cung trong ngôn ngữ. Rất
tiếc là LT rời Huế quá sớm nên không chứng
kiến được sự dị ứng và trăn trở của Huế sau
ngày miiền Bắc thắng trận. Đó là khi một
thiểu số thành phần xuất thân giữ trâu, giữ
ḅ vô học trở thành người chiến thắng, có
chút thế lực trong tay ngông nghênh dùng lời
lẽ hạ cấp bất xứng với người thất thế. Những
người này đă gọi là “thằng”, là “hắn” là
“lũ” là tên nầy tên nọ tuốt luốt như: “Thằng
Thiệu, thằng Kỳ, thằng Mỹ, thằng Ngụy…” với
những người đáng tuổi cha ông của ḿnh ở
miền Nam bị liệt vào thành phần Mỹ, Ngụy;
ngược lại th́ cũng tương tự như những người
mà LT liệt vào thành phần cộng sản trong
BĐMT.
Loại ngôn ngữ hằn học, thô lỗ, thiếu văn hóa
đó đă bị không những Huế mà tất cả người
miền Nam khinh bỉ và lên án. Dẫu có ngoan cố
bào chữa cách nào cũng không ai chấp nhận
nên cuối cùng họ phải bỏ đi. Tôi hơi ngỡ
ngàng khi bắt gặp loại ngôn ngữ thô bạo này
trong BĐMT mà LT đă dành cho bất cứ ai, kể
cả thầy dạy học cũ của ḿnh, các vị tu sĩ
Phật giáo cao niên, những nhân vật lớn nhỏ
mà ông đă quy kết là cộng sản, theo cộng,
hay thân cộng. Xuất thân là một sĩ quan, một
sinh viên đại học Huế, một người Hoàng phái
danh gia tử đệ mà vô t́nh ông Liên Thành đă
dẫm lên vết chân của những người thuộc thành
phần thấp kém từ Bắc mới vô Nam năm 1975 th́
quả là điều xót xa và đáng tiếc! Qua Mỹ đă
hơn 30 năm và đă từng làm trong nghề an ninh
trật tự xă hội, ông LT cũng hiểu ít nhiều về
nguyên tắc luật lệ và trật tự của một xă hội
có văn hóa và văn minh: Dẫu là người phạm
tội rành rành nhưng chưa có phán quyết của
ṭa án th́ vẫn c̣n là nghi can. Nhưng cho
dẫu là tội phạm chăng nữa th́ cũng phải đối
xử công bằng và nhân bản. Lẽ nào LT không
biết hay quên?!
Được hân hạnh đón LT về thăm vùng đất tỵ nạn
của ḿnh đă sống trong hơn hai chục năm qua,
tôi chỉ ước mong những người cùng thế hệ,
cùng chịu chung nỗi vinh nhục của quê hương
gặp nhau, nh́n nhau và thấy được nhau.
Là một Phật tử độc lập, tôi chỉ biết theo
giáo lư nhà Phật để tự giáo hóa chính ḿnh
t́m sự an lạc như phần đông các Phật tử xuất
gia và tại gia khác. Có thêm được chỗ dựa
tinh thần và năng lực hóa độ của tăng ni đạo
cao đức trọng vẫn là ân đức mong t́m của
người Phật tử. Cho nên tôi vẫn thường lập đi
lập lại hoài như một lời tâm niệm về h́nh
ảnh đạo Phật là một biển thái ḥa an lạc.
Nước của trăm nguồn đổ về biển cả, dẫu cho
trong sạch hay dơ bẩn đến mức độ nào th́
cuối cùng cũng được hóa giải. Trên đường t́m
cầu học hỏi, chúng tôi không ngây thơ cho
rằng, tất cả tăng ni qua h́nh tướng đầu tṛn
áo vuông đều là thánh tăng hay chân tăng.
Nhất là trong thời đại “kinh tế thị trường”
vàng thau lẫn lộn nầy th́ nh́n rơ chân tướng
của nhau thật khó. Ai không an trú trong
giới luật, sẽ thọ lănh nghiệp quả của ḿnh.
Tiền thân của đức Phật là bồ tát Thường Bất
Khinh. Gặp bất cứ ai, ngài cũng cất một lời
khiêm tốn: “Thưa ngài, tôi không dám coi nhẹ
ngài v́ ngài là một đức Phật tương lai!”
Nhân danh là những nguời Phật tử, chúng ta
có thể nói với nhau một lời đơn giản mà sâu
dày như thế được chăng.
Sacramento, cuối Thu 2009
Trần Kiêm Đ̣an
http://toandanlentieng.blogspot.com/2009/11/oi-ieu-voi-lien-thanh-ve-bien-ong-mien.html
------------------------------------------
Đọc thêm:
Thông tư của Viện Hoá Đạo về các bài viết trên Mạng vu cáo hàng lănh đạo Giáo hội PGVNTN
Nghị Quyết 36 CSVN Và Tôn Giáo Vận
Liên Thành & Mắm Tôm 1 đến 28 - 29 30
Vơ Văn Ái: Những âm mưu đánh phá Phật Giáo trong giai đoạn hiện tại
Vài Sự Kiện nhắc nhở thêm với TT Liên Thành
Hội Luận với Bảo Quốc Kiếm trên Paltalk, tác giả "Liên Thành và Mắm Tôm"