Việc hồi hương 20 vạn hài cốt quân Tàu ở g̣ Đống Đa.
Trần Nhu
(Trích dẫn một chương trong sách “Thăng Long Xưa – Hà Nội Nay” sắp xuất bản.)
Trước hết, mời bạn đọc t́m hiểu qua về địa lư nước ta và khu vực thủ đô Thăng Long.
Thư tịch cổ về địa lư học của Việt Nam từ đời Lư nước ta đă có sách “Nam Bắc phiên giới địa đồ, ghi h́nh thể núi sông phong vật” đời Lư Anh Tông. Tiếc là từ lâu đă thất truyền. Vị trí mở đầu các tác phẩm “địa lư học Việt Nam Thực Lục mở đầu từ Địa Dư Chí” của Nguyễn Trăi.
Đời Lê Thánh Tông có hai đợt phân định địa giới, sửa đổi địa danh: năm Quang Thuận thứ 10 (1469), chia cả nước làm 12 thừa tuyên, năm Hồng Đức thứ 21 (1490), đổi chia làm 13 xứ thừa tuyên.
Đến năm Đinh hợi, nhằm niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767) trong tập Quốc Sử Quan Hàn Lâm Viện, Học Sĩ Lê Quí Đôn tham gia biên soạn, th́ địa đồ nước ta: “Phía đông nam đến tận biển, phía đông đến Châu Khâm Châu Liêm, phía bắc tiếp liền với Quảng tây, phía tây tiếp liền với Vân Nam, phía tây bắc vượt đến ranh giới Vân Nam, Quảng đông và Quảng tây, phía Tây Nam kế tiếp nước Ai Lao, phía nam cắt phân nửa nước Chiêm Thành. H́nh thể tiếp liền sông biển, nắm lấy núi sông, đáng gọi là một nước rào dậu vững vàng ở bốn bên”
“Dẫn sách Vân Đài Loại Ngũ quyển 3 của Lê Quí Đôn” trang 221.
Riêng về Thăng Long ta c̣n một tư liệu khá quan trọng cho chúng ta ngày nay hiểu thêm được về thành Thăng Long là bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức. Bản đồ thời đó tuy chỉ là những họa đồ có tính ước lệ phần trắc đạc không được chính xác như bây giờ nhưng dù sao qua đó chúng ta có thể h́nh dung được vị trí một thời của kinh thành.
Nh́n trên bản đồ thành Thăng Long xưa được xây hai lớp, Hoàng Thành và Cấm Thành. Ṿng Hoàng Thành uốn lượn theo địa h́nh, thành có ba cửa: Đông Môn (ước đoán khu vực cửa Đông ngày nay), Nam Môn (ước đoán khu vực phố Cao Bá Quát ngày nay), cửa Bảo Khánh (ước đoán khu vực nhà triển lăm Giảng Vơ, Ngọc Khánh ngày nay). Từ góc ngă ba sông Tô Lịch và Thiên Phù chỗ đầu chợ Bưởi ngày nay sang Cầu Giấy, ṿng theo đường La Thành xuống Giảng Vơ, ngoặt về phía Đông đến phố Kim Mă sang Sơn Tây, vườn hoa Lê Trực đến phố Hà Trung ngược lên hướng Bắc thẳng theo phố Phùng Hưng đến vườn hoa Hàng Đậu, rẽ về phía Tây ṿng theo sông Tô Lịch, phố Quan Thánh, đường Hoàng Hoa Thám ngày nay đến chợ Bưởi là hết một ṿng Hoàng Thành.
Thăng Long, từ Lư, Trần đến nay, là một khoảng không gian có thể tính từ chợ Bưởi đến Ô Cầu Dền, từ sông Hồng đến Cầu Giấy trên sông Tô Lịch. Bao gồm 3 ṭa thành trong 13 trại và 6 phường, rồi 36 phố phường, từ bờ Hồ Tây chạy dài đến Hồ Gươm. Phía Bắc có sông Hồng bao bên trong thành có Hồ Tây, tiếp đến Hồ Trúc Bạch, rồi Cổ Ngư, đi nữa đến Hàng Than, lại thêm một nhánh khác của sông Hồng và sông Tô Lịch, đi từ chợ Gạo đến chùa Cầu Đông, Hàng Đường, chếch lên mạn Bắc ở cổng chéo Hàng Lược đi theo Phố Phan Đ́nh Phùng qua Thụy Khuê, Thụy Chương đến Hồ Khẩu là cửa thoát nước từ Hồ ra sông Hồng rồi đến chợ Bưởi, sau khi gặp con sông Thiên Phù từ Quán La xuống sông Tô Lịch, quẹo về phía Nam sông Tô trở thành cái hào tự nhiên, che mặt Bắc và cả mặt Tây, đến Ô Cầu Giấy, Sông Tô Lịch lại có một nhánh nối liền với sông Kim Ngưu, làm hào lũy cho mặt Nam cửa thành, rồi chạy qua Ô Chợ Dừa, đổ vào Đầm Sét. Mặt Đông của thành Thăng Long có sông Hồng (c̣n có tên gọi là sông Cái, sông Nhị Hà) phía Nam Tây Hồ. Từ Đông sang Tây, có núi Nùng, núi Khám, núi Xưa, núi Bát Mẫn, núi Voi (Thái Ḥa), núi Cột Cờ, núi Cung, núi Trúc và núi Vạn Bảo.
Núi đây là những núi nhân tạo, người ta đắp lên từ đời Lư, Trần. Núi Cung và núi Xưa hiện c̣n cao khoảng 18 mét. Phía Nam lác đác có những g̣ lớn tựa như những quả núi. Từ Đống Đa đến g̣ Chinh Chiến xă Phương Liệt, chạy măi đến bờ sông có nhiều g̣ lớn như núi, G̣ Đống Đa ở về phía Tây Nam Hà Nội thuộc khu vực phố Tây Sơn, nay cái tên phố lịch sử đó Cộng Sản đổi thành đường Nguyễn Lương Bằng (UVBCTĐCS, Chủ Tịch nhà nước CSVN).
G̣ Đống Đa là một bằng chứng về sự thất bại thảm hại, nhục nhă nhất của bọn xâm lược Trung Quốc. Hai chục vạn quân xâm lược Tầu đă bị vùi lấp ở nơi đây (Mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789). Trên cả thẩy 12 cái núi xương gọi là g̣, thời bấy giờ gọi là Ḱnh Quán, sau những trận đánh, người Việt Nam thường chôn xác giặc thành G̣ gọi là Ḱnh Nghê, Ḱnh Quán. Ḱnh Nghê là hai loài cá dữ, chỉ bọn giặc Tầu, Ḱnh Quán là g̣ lớn. Trong bài thơ “Loa sơn điếu” (viếng núi Ốc của thi sĩ Ngô Ngọc Du, sống cùng thời vua Quang Trung), có hai câu thơ đầy ḷng tự hào:
Thành nam thập nhị ḱnh nghê quán
Chiếu diệu anh hùng đại vơ công.
Nghĩa là:
Mười hai ḱnh quán phía Nam thành
C̣n rọi sáng công lớn của vị anh hùng.
Về núi Ốc ngày trước tên chữ là Loa Sơn. Nay núi này không c̣n, nhưng trên bản đồ Hà Nội năm 1873 c̣n thấy ở khu vực Nam Đồng, Khương Thượng có vẽ nhiều G̣ Đống, trong số này có núi Ốc, giờ đây nằm trên con đường đi từ phố Tây Sơn vào chùa Bộc gần hết địa phận nơi đây Cộng Sản xây dựng trường Công Đoàn có một chỗ nhô cao chỗ đó chính là vết tích của núi Ốc ngày xưa.
Ngoài ra, suốt cả khu vực rộng lớn đó có nhiều g̣ đống lớn chôn xác giặc Tầu ấy vốn có tên là “xứ Đống Đa”. Thời Pháp thuộc, vào những năm cuối thế kỷ thứ XX thực dân Pháp đem khu vực xứ Đống Đa ấy thưởng cho tên Việt gian Hoàng Cao Khải làm Thái Ấp, Khải bắt dân san bằng g̣ đống, chỉ giữ lại cái g̣ thứ 12. Năm 1851 khi xây dựng chợ Nam Đồng, phải làm đường, san đất dân phu đào thấy nhiều đống hài cốt của quân Tầu khắp cả khu vực rộng lớn đó, đào đâu cũng thấy xương quân Tầu. Viên Tổng Đốc hạ lệnh cho dân đem chôn ở một cái g̣ nữa thuộc đất làng Nam Đồng thành ra cái ḱnh quán thứ 13 (13 cái g̣). Rơ ràng đây chẳng phải là những g̣ thiên nhiên, mà chính là những đống thây quân Trung Quốc xâm lược. Sau trận Khương Thượng, xác giặc Tầu chôn không xuể, nhiều quá! Vượt tất cả kỷ lục Đông Tây kim cổ của thế giới, phải đào xuống rồi xếp thành đống cao, đổ đất lên trên 13 cái g̣ là những núi xương trở thành một dăy đài kỷ niệm, mà đáng nhẽ ra những nhà lănh đạo Bắc Kinh như Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo… mỗi lần qua Hà Nội phải đến đây để mặc niệm các chiến sĩ xâm lăng mà suy tư…
Nhưng Giang Trạch Dân, cũng như Hồ Cẩm Đào đă không tới g̣ Đống Đa, mà chúng nghênh ngang đến Hội An tắm biển không cần lính bảo vệ.
Này hai chú khách kia: Vùng biển Hội An, đâu phải ao nhà của nước Tầu. Các chú muốn tuyên bố ǵ với thế giới đây? Mục tiêu của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, qua việc đến biển Hội An tắm, chúng ta có thể xác quyết rằng họ có ư đồ xâm chiếm nước ta. Với nhiều bằng chứng cụ thể từ nhiều năm nay… Họ làm cái ǵ mà không có hậu ư, không theo một sứ mạng (“mission”) nào đó. Ta nh́n thấu tim đen của các chú, nếu không phải cái nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa VN này, kể từ nay, đă trở lại quy chế (AN NAM ĐÔ HỘ Phủ) của Thiên Triều trên thực tế.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Loài nào giống ấy chẳng sai”, ca dao Việt Nam lại dậy rằng:
“Ḷng vả cũng như ḷng sung
Một trăm ḷng vả ḷng sung một ḷng”
Nghĩa là người Tầu đời nào cũng có máu xâm lăng như nhau cả:
“Loài đỉa Hán vốn say máu Việt
Nước độc rừng thiêng, một đi là một chết
Vạn người đi không một bóng trở về”
(Thơ của Phạm Lê Phan)
C̣n bọn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh kia, vờ không hiểu, và có khi không hiểu thật, ư nghĩa của tṛ ám chỉ đểu cáng, xấc láo của hai gă kia! Th́ bọn chúng đă bôi tro trát trấu vào mặt Tổ Tiên và chối bỏ quốc tịch Việt Nam rồi đó. Bọn chúng không lo mất nước, chỉ sợ mất quyền lợi địa vị.
Tổ quốc Việt Nam chưa bao giờ lâm nguy như bây giờ, bởi v́ ngay từ đầu Hồ Chí Minh đă tạo mọi điều kiện cho giặc can thiệp vào nội t́nh nước ta cho đến nay đă hội đủ mọi điều kiện để trở thành một tỉnh của Trung Cộng : lănh đạo đồng lơa, trí thức nhu nhược, dân trí thấp kém với một chủ trương cấm cố qua bao thế hệ bằng đủ mọi thứ biện pháp bưng bít, hậu quả là tất nhiên.
Ư thức nhục nhă, ư thức nguy hiểm. Song với ư muốn giải ảo toàn diện mọi ảnh hưởng của cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” và cả cái thứ Chủ Nghĩa Cộng Sản mà y mang vào một cách dứt khoát. Đất nước ta mới có khả năng hồi sinh, hầu đương đầu với t́nh huống bi đát hiện tại.
Tất cả ai là công dân Việt Nam hăy ư thức trách nhiệm, hăy cảnh giác Bắc Triều. Đừng bao giờ quên cái họa 1000 năm. Và đừng bao giờ quên Việt Nam luôn luôn là giấc mơ không giấu giếm của bọn bành trướng phương Bắc, dù là bạn bè đồng chí cũng không có ngoại lệ. Đừng bao giờ quên bài học nước Tây Tạng đă bị Trung Cộng ngang nhiên thôn tính trước sự bó tay của cộng đồng quốc tế.
Có lẽ tôi đă đi ra ngoài đề tài vụ hài cốt người Tầu ở g̣ Đống Đa, tôi muốn nhắc nhở họ mang hài cốt ông cha họ về Bắc Kinh an táng và lập đền thờ mà đâu có phải chỉ có ở khu vực g̣ Đống Đa, nội thành Thăng Long và khu vực ngoại thành, đâu đâu cũng có thây xác người Tầu từ lớp này đến lớp khác… Đó là chưa kể ở các ḍng sông, như sông Như Nguyệt (thời nhà Lư 1077). Sông Bạch Đằng với Ngô Quyền, Lê Đại Hành, thời nhà Trần sau ba phen lửa đạn (1257-1285-1288). Tuy là cuộc chiến với Thành Cát Tư Hăn với các tướng Mông Cổ đấy, nhưng trên 50 chục vạn lính toàn là người Hán, chết nhiều lắm, đến thời nhà Lê, mười năm đánh quân Minh (1418-1427)… Biết là mấy triệu tử sĩ!
Những tử sĩ người Tầu đó chẳng phải là máu mủ, huyết thống của Giang Trạch Dân, chủ tịch Hồ Cẩm Đào hay sao? Nếu cần, các ông có thể nhờ Trung Tâm giảo nghiệm của Hoa Kỳ ở Hạ Uy Di khám nghiệm xem có đúng huyết thống của các ông không? Nơi đây đáng tin cậy lắm. Các ông không quư nhau, mà Trung Quốc là một nước có lễ nghĩa, con cháu của Hoàng Đế và Thần Nông, Đại Hán mà những người tướng lănh và người lính Tầu hy sinh v́ lư tưởng xâm lược Việt Nam lẽ nào lại là kẻ ngoại tộc?
Thế mà các triều đ́nh nước Tầu không có ông vua nào muốn gánh vác trách nhiệm giải quyết vấn đề đó. Nay may ra có Đảng Cộng Sản Trung Quốc vĩ đại làm được việc đó chăng?
Văn hóa truyền thống 5000 năm đấy nhé. Đế quốc Mỹ chỉ có hơn hai trăm năm mà họ coi hài cốt lính Mỹ c̣n quư hơn cả vàng, chẳng thế mà đường xa vạn dặm, cách trở ngàn trùng, tốn bạc tỷ cũng thuê Việt Cộng t́m cho bằng được. Vậy mong tiên sinh họ Đào và Ban lănh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhớ giải quyết vụ hài cốt này cho đẹp ḷng người chết, an ḷng kẻ sống. Cũng xin quư vị lưu ư, cái vong người Tầu ở khu vực g̣ Đống Đa, đói rét kinh khủng, họ khổ sở không thể kể xiết…
V́ Tổ quốc của họ không một ai ngó tới! Nên trước đây các chùa Việt Nam ở Hà Nội và nhiều nơi khác hàng năm vào dịp Rằm tháng Bảy có cúng vong. Nhân đây tôi xin kể một câu chuyện xẩy ra gần 50 năm qua mà tôi luôn nghĩ tới. Đó là hồi tôi ở tù khoảng năm 1959, có sống chung với mấy vị sư, tôi có hỏi về việc cúng vong ngày Rằm tháng Bảy. Các thầy đều nói vào những ngày đó, các vong người Tầu đến đông như kiến cỏ. Tôi hỏi: Tại sao các thầy biết là vong người Tầu? Các thầy bảo: Th́ họ nói toàn tiếng Tầu mà hàng ngàn vạn vong như một thân h́nh tiều tụy kêu khóc thảm thiết rằng: Không có ai thừa nhận họ! Không có nơi trở về sống vất vưởng ở đây nhiều thế kỷ rồi! Họ chỉ mong được đầu thai làm con chó nước Mỹ. Hỏi tại sao lại không muốn làm người Trung Quốc? Họ nói nếu được làm kiếp con chó nước Mỹ th́ c̣n hạnh phúc gấp vạn lần làm người Trung Quốc! Sống được đối xử tử tế… chết có nghĩa trang riêng. C̣n ở Trung Quốc, muôn thuở các vua chúa coi người như cỏ rác. Nhiều triều đại tắm máu nhân dân để lên ngôi thống trị, bao nhiêu cuộc xâm lăng các vị tướng “công thành” nhờ “vạn cốt khô” nhưng chết không ai ngó tới. Bây giờ chúng con chỉ c̣n biết trông cậy vào nhà chùa, một năm được ăn của bố thí vài lần, có năm chẳng được ǵ v́ đông quá! Tôi hỏi các thầy có ai ở khu vực đó không?
Một vị nói: Tôi trụ tŕ chùa Đồng Quang, đối diện với g̣ Đống Đa, qua trục đường Sơn Tây, ông có nhớ không? Dạ nhớ! Sư kể: Không phải chỉ có ngày Rằm tháng 7 mới có cúng vong mà hàng năm thời Pháp thuộc cứ vào mồng 5 Tết Nguyên Đán có Hội Đống Đa là hội lớn ở Thủ Đô. Từ tinh mơ, cửa đ́nh làng Khương Thượng đă mở rộng. Khói hương thơm ngát tỏa lan cả bầu trời. Lá cờ đại cao ngất trước sân đ́nh chào mừng ngày hội vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cả Thủ Đô náo nức, cờ Ngũ Hành cắm la liệt quanh sân đ́nh, các tụ điểm lịch sử như chùa Bộc, chùa Đồng Quang mà trung tâm là G̣ Đống Đa, nơi cử hành quốc lễ.
Sáng rơ mặt người tất cả các đoàn rước kiệu vùng ngoại ô Hà Nội, các bô lăo và các vị chức sắc trong các làng đă tề tựu đầy đủ. Chiêng trống gọi hồi gióng uy nghiêm. Sau tuần trầu nước, vừa trọn một tuần hương cuộc đại lễ bắt đầu.
Khoảng giờ Ngọ (12 giờ), đám rước thần mừng chiến thắng được diễn ra từ đ́nh làng Khương Thượng đến G̣ Đống Đa: Cờ, biểu, tàn, tán, lọng, kiệu… Đă sửa soạn xong. Quân chấp kích, Đô tùy, quan viên, người nào việc ấy, cũng đă gọn gàng trong trang phục lễ hội, chờ lệnh:
Ba hồi chín tiếng trống chiêng nổi lên báo hiệu tất cả dân làng ngoại ô Hà Nội đốt một bánh pháo như nghi thức pháo lệnh của vị thống soái.
Tiếng pháo dứt, đám rước lên đường uy nghi hùng tráng làm sống dậy hào hùng của trận tấn công mùa xuân Kỷ Dậu (1789) của Hoàng Đế Quang Trung, người anh hùng áo vải Tây Sơn lănh đạo.
Hàng vạn thanh niên, nam nữ vui vẻ hồn nhiên đua nhau bện con cùi (núm) bằng rơm thật to, nối dài măi, rồi lấy mo cau, giấy bồi vẽ thành h́nh rồng lớn (con rồng lửa) múa theo nhịp sênh tiền, nhiều tốp thanh niên mặc vơ phục đi quanh đám rước rồng lửa, biểu diễn côn quyền, múa kiếm… Họ dùng rơm bện núm dài tẩm dầu nổi lửa, như mở trận hỏa công uy hiếp kẻ thù. Đám lửa cháy theo đường dài và ṿng tṛn, tựa như con rồng đang rực lửa căm thù lao vào thiêu cháy quân giặc.
Từ đó (rồng lửa Thăng Long) trở thành biểu tượng chiến thắng của nhân dân ta, một tṛ lễ hội độc đáo của lễ hội chiến thắng Đống Đa.
Trước đây, nhà nước đứng ra trụ tŕ cuộc lễ hội. Quốc kỳ và cờ phất phới trên sân đền trên băi, chân G̣ Đống Đa. Đó là nhà nước c̣n các chùa Đồng Quang và các chùa ở Hà Nội, cũng cầu kinh, cầu hồn, cúng cháo thí cho cô hồn quân giặc, những kẻ chiến bại như một hành động nhân nghĩa truyền thống của dân tộc ta ông ạ!... Nhưng rồi đến thời Hồ th́ chùa chiền bị dẹp! Chẳng ai cúng vong. Vả lại cũng như Trung Quốc Thời Mao, nhà nước Cộng Sản quản lư lương thực hết sức gắt gao, và chặt chẽ, đồng bào ai cũng đói. C̣n sư tăng đi tù cả lấy đâu cúng vong. Giả sử Nghiêu Thuấn, đến đức Khổng Tử, Lăo Tử… mà các vị đó sống trong thời Cộng Sản quản lư lương thực, chắc cũng khó ḷng nhường nhau mẩu sắn, huống hồ là người dân!
Nên mong rằng các ông và dân Trung Quốc cũng cảm thông… chứ đồng bào tôi thực ḷng không hẹp ḥi ǵ. Nhân đây xin có một vài lời cùng ban lănh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc vĩ đại.
Cốt nhục, phân ly, các bậc tổ tiên, tướng lănh Hán tộc quá cố trận vong trăm đời, ngàn đời, cùng với thân nhân quyến thuộc Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, thủ tướng chính phủ Ôn Gia Bảo, Ngô Bang Quốc chủ tịch quốc hội. Các ông quyền thế, danh vọng tột đỉnh vinh hoa phú quư nhất nước Trung Hoa hiện nay. Phải nghĩ đến tiền nhân của các ông. Ít nhất là nên xây dựng một đài kỷ niệm ở g̣ Đống Đa Hà Nội. Tiếc thay Ban Lănh Đạo Đảng Cộng Sản TQ lại không làm việc nghĩa đó, mà họ lại đi xây dựng “Nhà Hữu Nghị Việt-Trung”. Theo báo chí VN th́ vào trung tuần tháng 10 năm 2007 chính phủ Trung Quốc đă cho khởi công xây dựng “Nhà Hữu Nghị Việt-Trung”, ở Từ Liêm, Hà Nội. Kinh phí lên đến 26 triệu Mỹ Kim. Đối với nhân dân VN, đây không phải là điều tốt lành trên thực tế trong tâm khảm muôn đời của người Việt là:
Ngậm mối thù truyền kiếp mấy ngàn năm
Con cháu mẹ từng nhọc nhằn u uất
(Thơ Phạm Lê Phan)
Người Trung Quốc và người Việt Nam đều biết sự thực này! Vậy tại sao họ lại đi xây Nhà Hữu Nghị?
Hay họ muốn làm đẹp ḷng Chủ Tịch Hồ Chí Minh, kẻ khi c̣n sống thường dậy các Đảng viên Cộng Sản Việt Nam: “Mối t́nh thắm thiết Việt-Trung, vừa là đồng chí vừa là anh em.”
Lịch sử sang trang rồi (t́nh đồng chí anh em) Quốc Tế Cộng Sản đă ch́m vào dĩ văng. Hồ Chí Minh cũng đă chết từ lâu! Nhưng di sản của ông để lại có nhiều cái không chịu ch́m vào dĩ văng, có cái thuộc về quá khứ (Cải Cách Ruộng Đất), có cái thuộc hiện tại, Việt Nam mất đất, mất Trường Sa và Hoàng Sa!
Có cái thuộc về tương lai, mất nước!
Trong t́nh cảnh như thế này, xây dựng “Nhà Hữu Nghị Việt-Trung” cho ai xem đây? Việc này đáng ngờ, họ định chặn long mạch hay yểm ǵ ở vùng đất thiêng này? Tổ tiên của họ, Mă Viện dựng cột đồng đề chữ “Đồng trụ chiết, giao chỉ diệt”. Thóa mạ cả dân tộc Việt Nam, Cao Biền đă phá hủy long mạch đất Hương Cổ Pháp (ngoại thành Hà Nội). Thiền Sư Định Không biết được âm mưu của giặc, đă lấp lại như xưa… Có hàng trăm chứng tích về các cuộc xâm lấn của người Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam nhỏ bé!
Tội của chúng:
“Trúc Nam Sơn không ghi hết chữ.
Nước Đông hải không rửa sạch mùi”
(Cáo B́nh Ngô).