|
Vù Hoàng
RFA
Ngoại tệ và tiền đồng |
Mấy hôm nay tiền đồng liên tục lên giá so với đồng đô la và trở nên khan hiếm hơn. Nguyên nhân nào dẫn đến sự khan hiếm đó, và chính sách tiền tệ đang tác động ra sao đến nền kinh tế?
Khan hiếm vì lạm phát cao hơn lãi suất
Hơn một tuần nay trong nước có khá nhiều tin tức về hiện tượng thiếu hụt đồng nội tệ trong hệ thống ngân hàng, cũng như sự lên giá từng ngày một của tiền đồng Việt Nam so với tiền đô la Mỹ. Trong số 19 loại ngoại tệ được trao đổi nhiều nhất trên hệ thống ngân hàng Việt Nam, thì đồng đô la Mỹ bị suy yếu hơn, một cách tương đối, so với đồng Việt Nam. Tất nhiên việc biến động của tỷ giá hối đoái là chuyện bình thường, nhưng điểm gây chú ý là chính phủ Việt Nam đang dùng nhiều biện pháp tài chính để thu gom ngoại tệ, tăng nguồn dự trữ đô la, đồng nghĩa với việc tiền đồng sẽ được đẩy ra lưu thông nhiều hơn, nhưng nguợc lại, hiện tượng khan hiếm tiền đồng lại xuất hiện.
Ngân hàng kiểm tiền |
Một trong những nguyên nhân tiền đồng Việt Nam ít được
đưa vào lưu thông trong hệ thống ngân hàng là do lãi
suất chưa đủ bù được mức lạm phát. Bản tin mới đây
của AFP cho rằng lạm phát của Việt Nam nằm trong
nhóm 5 nước bị lạm phát cao nhất thế giới, khiến
lãi suất thực của nền kinh tế bị âm.
Hiện tại, trần lãi suất tiền gửi huy động vẫn được giữ
ở mức 14%/năm, trong khi mức lạm phát tháng 4 là 17,51%.
Rõ ràng là nguời dân sẽ bị thiệt nếu họ gửi tiền tiết
kiệm vào ngân hàng. Vì thế, để tự bảo vệ đồng tiền đang
mất giá của mình, họ sẽ hạn chế gửi tiền đồng vào ngân
hàng, hoặc sẽ tìm một kênh khác để đầu tư kinh doanh
nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Giải thích về vấn đề này, một giảng viên của
trường Kinh tế tại Hà Nội, không muốn nêu tên, cho
biết:
"Thường là khi có một khách hàng gửi tiền vào ngân hàng,
ngoài một khoản dự trữ bắt buộc theo yêu cầu của Ngân
hàng Trung ương, thì Ngân hàng thương mại sử dụng số
tiền còn lại để kinh doanh, nghĩa là cho vay ra ngoài
thị trường. Đồng thời, theo quy luật của dòng vốn chảy
trong một nền kinh tế, đồng tiền cho vay ra rồi cũng sẽ
quay ngược trở lại hệ thống ngân hàng dưới hình thức
tiền gửi của một khách hàng khác. Tuy nhiên, bây giờ,
khi lạm phát cao, người gửi tiền vào ngân hàng sẽ phải
cân nhắc giữa lãi suất gửi tiết kiệm họ nhận được và mức
lạm phát. Do không có lợi khi gửi bằng đồng nội tệ, họ
sẽ thay thế gửi tiết kiệm bằng các hình thức khác như
ngoại tệ hoặc là vàng.
Vay vốn lại bị lãi suất cao
Tuy nhiên, nhìn ở góc độ các doanh nghiệp đi vay vốn
làm ăn kinh doanh, mà cụ thể ở đây là đi vay tiền đồng,
thì mức lãi suất họ phải gánh chịu lại quá cao, mức này
đang nằm dao động từ 19-24%/năm.
“Không một doanh nghiệp làm ăn chân chính nào có thể
chịu được lãi suất như thế, chỉ có những đơn vị đánh quả
chớp nhoáng mới dám chạm đến lãi suất vay hiện nay” đây
là lời phát biểu của đại diện Tổng công ty Thương mại
Sài Gòn, được Thời báo Kinh tế Sài gòn trích dẫn.
Theo các chuyên gia kinh tế thì nguyên nhân sâu xa của
vấn đề khan hiếm tiền đồng là do tăng trưởng tín dụng
đang bị thắt chặt. Nghị định 11 về ổn định kinh tế vĩ
mô nêu rõ: chính sách tiền tệ cần được kiểm soát chặt
chẽ. Vì thế, lãi suất cho vay tăng cao ở các NH thương
mại, đang tác động trực tiếp đến hầu hết mọi doanh
nghiệp cần vốn hoạt động kinh doanh.
Liên quan về vấn đề lãi suất tăng cao này, PGS, TS Ngô
Trí Long, Nguyên Viện Phó Viện Nghiên cứu Thị trường giá
cả cho biết:
Hiện nay chính sách tiền tệ của Việt Nam là
thắt chặt, cho nên lượng tiền rất khan hiếm.
Chính vì vậy các ngân hàng buộc phải tăng cường
huy động vốn và mức huy động hiện nay theo quy
định của Nhà nước là lên đến 14%, nhưng trên thực
tế, người gửi có thể gửi tới 17-18%, thậm chí
19%, có nơi 20%.
Vòng luẩn quẩn
Lĩnh vực rủi ro? |
Cũng chính vì lý do khan hiếm tiền đồng trong
Ngân hàng, do thiếu tính thanh khoản trong hoạt
động kinh doanh của mình, buộc các Ngân hàng TM
liên tục đua nhau tăng lãi suất nhằm huy động
lượng tiền gửi và khi lãi suất huy động cao, lãi
suất cho vay các doanh nghiệp lại càng cao hơn và
như thế cái vòng luẩn quẩn cứ tiếp tục. Về
chuyện này, TS Ngô Trí Long nhận xét:
Chính sách tiền tệ hiện nay không phản ánh đúng
quy luật thị trường, vì mức lạm phát người ta dự
báo là khoảng 16-17% mà lãi suất trần 14%, thì
không ai người ta gửi, không thể huy động được.
Hiện nay cũng đang bàn, có những phương án của
nó, ngoài quy định trần lãi suất huy động, thì
cũng dự kiến, dự kiến thôi, chưa có khả năng khả
thi là tiếp tục huy động trần cho vay. Nhưng làm
như vậy thì nhiều chuyên gia phản đối. Trong thực
tế là không điều hành bằng các quy luật của thị
trường. Nếu điều hành như vậy thì sẽ gây rất
nhiều hệ luỵ cho ngân hàng cũng như hoạt động
của các doanh nghiệp.
Lạm phát tại thời điểm này của Việt Nam vẫn
đang được so sánh với mức đỉnh hồi năm 2008, tuy
nhiên, lạm phát năm 2008 dù tăng cao nhưng lãi suất lúc
đó chưa cao và Chính phủ vẫn có khả năng tăng lãi
suất để kiềm chế lạm phát; đồng thời tại thời điểm
đó, ngân sách chưa bị thâm hụt quá sâu nên chính sách
tài khóa còn có thể khá linh họat trong việc thay đổi
mức độ thu chi. Nhưng hiện thời, cả hai chính sách
tiền tệ và tài khoá đều đang được sử dụng nhưng
tính hiệu quả vẫn chưa thấy. Nhận xét về tình
trạng tiến thoái lưỡng nan, TS Long có thêm nhận
xét khác:
Chưa bao giờ người ta thấy hiện tượng hy hữu xảy
ra ở Việt Nam, đó chính là sự méo mó trong điều
hành chính sách tiền tệ, cũng như trong lĩnh vực
tiền tệ, có nghĩa là lãi suất ngắn hạn phải
thấp hơn trong dài hạn, nhưng ở Việt Nam thì
ngược lại, ngắn hạn lại cao hơn dài hạn, đây là
cái méo mó. Hay là nửa đầu năm ngoái, tăng
trưởng tín dụng chỉ 10% thôi, nửa cuối năm nới
lỏng, tín dụng lại tăng lên 31%. Chính vì điều
hành giật cục, tình trạng còn kéo dài đến năm
nay, vẫn chưa dừng lại. Vì vậy nó dẫn đến những
hệ luỵ kinh tế của chính sách tiền tệ, cũng như
sự méo mó của các ngân hàng, của hoạt động kinh
tế hiện nay.
Ngân hàng gánh nhiều rủi ro nhất
Với một chính sách tiền tệ được gọi là "giật
cục, thái quá", lúc nới lỏng, lúc thắt chặt,
thì rõ ràng ảnh hưởng đầu tiên sẽ là hệ thống
ngân hàng phải gánh chịu, vì thế TS Ngô Trí Long
cho biết tiếp:
Cho nên tâm điểm của rủi ro vĩ mô hiện nay là nằm
trong khu vực ngân hàng thương mại, đấy là điểm
chung mà tất cả các chuyên gia đều cho là như
vậy. Vì lý do đó, phải xem lại sự điều hành
của các cơ quan chức năng, điều hành theo tín
hiệu thị trường. Và cái thứ hai, là để tạo lãi
suất ổn định, thì lãi suất các liên ngân hàng
phải ổn định, thì đó là điều hết sức quan
trọng. Mà lãi suất liên ngân hàng ổn định, thì
mới tạo điều kiện cho lãi suất gửi và lãi suất
cho vay ổn định được.
Có thể nói thiếu tiền nội tệ trong nền kinh tế
chỉ là bề nổi, là hiện tượng, nhưng đằng sau đó
lại là cả một câu chuyện về chính sách quản lý
kinh tế của Chính phủ còn thiếu hiệu quả và
không tuân theo quy luật thị trường . Có thể những
nguyên nhân bất ổn sẽ được tìm thấy và sẽ được
bình ổn, nhưng những xáo trộn bất thường về
tiền vốn hoạt động của các doanh nghiệp hay tiền
đầu tư của người dân vẫn đang là vấn đề lớn mà
cả xã hội quan tâm.
<<trở về đầu trang>>