Việt Nam trong thế tương quan lực lượng trên Biển Đông
HÀ TƯỜNG CÁT/Người Việt
Trong vùng Biển Đông, Việt Nam
và Philippines có những va chạm
trực tiếp và nhiều mối quan tâm
lo ngại hơn mọi nước Đông Nam Á
khác về ư đồ bành trướng của
Trung Quốc. Hải quân Việt Nam đă
hai lần đụng độ với hải quân
Trung Quốc ở Hoàng Sa năm 1974
và Trường Sa năm 1988, kết quả
đều là Trung Quốc lấn chiếm thêm
một số đảo.
Philippines cũng đă có tranh
chấp với Trung Quốc ở Mischief
Reef trong quần đảo Trường Sa
năm 1995. Để đương đầu hiệu quả,
không thể dựa vào sức mạnh, v́
lực lượng quân sự của cả hai
nước đều kém Trung Quốc rất xa,
nhưng cũng không thể hoàn toàn
bằng chính trị ngoại giao nếu
thiếu khả năng tối thiểu để tự
vệ.
Chưa cần tăng viện từ hai hạm
đội Bắc Hải và Đông Hải, hạm đội
Nam Hải của Trung Quốc đă sẵn có
những chiến hạm cơ hữu mạnh và
nhiều hơn gấp bội: 11 khu trục
hạm, 14 hộ tống hạm gắn hỏa tiễn
và gần 20 tiềm thủy đĩnh. Máy
bay chiến đấu và oanh tạc của
hải quân cũng như không quân
Trung Quốc từ căn cứ trên đất
liền và đảo Hải Nam có tầm hoạt
động xa tới vùng quần đảo Trường
Sa. Trong một trận hải chiến lớn,
Trung Quốc hoàn toàn có ưu thế
về lực lượng và hỏa lực, như vậy
chiến thuật đối phó hiệu quả của
Việt Nam chỉ có thể theo kiểu
đột kích và du kích chiến trên
biển.
Trong chiều hướng ấy người ta có
thể nhận thấy rơ là kế hoạch
phát triển lực lượng hải quân
của Việt Nam ngày nay tập trung
trên hai điểm: củng cố khả năng
pḥng vệ duyên hải và tạo tiềm
lực ngăn trở không để cho hải
quân Trung Quốc tự do hành động.
Thể hiện rơ nét nhất của chiến
lược này là việc Việt nam mới
đặt mua của Nga 6 tàu ngầm loại
Kilo, sẽ được giao trong năm
2010. C̣n trên mặt biển dù chỉ
có một ít chiến hạm nổi, khoảng
8 hộ tống hạm trung b́nh có đủ
tầm hoạt động viễn dương, nhưng
chú trọng tăng cường thêm nhiều
tiểu đĩnh phóng hỏa tiễn, phóng
lôi hay tạc đạn chống tàu ngầm,
phối hợp cùng các giàn trọng
pháo pḥng duyên và hỏa tiễn địa
- hải.
Chiến lược này không khác Trung
Quốc trước kia đă áp dụng để
pḥng chống Đài Loan và hải quân
Hoa Kỳ. Vấn đề khó khăn của Việt
Nam là không thể có đủ ngân
khoản mua chiến cụ nước ngoài và
kỹ nghệ chưa đạt tới tŕnh độ tự
cung ứng. Những loại vũ khí mới
nhất cho đến bây giờ đều mua của
Nga, lư do chính không phải v́
tốt hơn nhưng v́ giá rẻ và nhiều
điều kiện dễ dàng hơn là từ Tây
phương.
Kilo là tên do NATO đặt cho loại
tàu ngầm do Liên Sô sản xuất từ
những năm 1980, đă qua nhiều cải
tiến và đến nay Nga không c̣n
chế tạo nữa để chuyển sang một
thế hệ mới. Tuy nhiên tàu ngầm
Kilo đợt Project 636 vẫn c̣n có
nhiều ưu điểm và thích hợp với
nhu cầu của Việt Nam. Đây là
loại tàu ngầm sử dụng được cho
cả hai mục tiêu chống tàu nổi và
tàu ngầm địch, cũng như tuần
pḥng canh giữ duyên hải ở những
vùng biển không sâu.
Tàu ngầm Kilo chiều dài 70 mét,
trọng lượng rẽ nước 2,300 tấn
khi nổi và 3,500 tấn lúc lặn; và
tầm hoạt động tối đa 7,500 hải
lư trong 45 ngày, lặn sâu được
300 mét và di chuyển dưới mặt
nước xa 400 hải lư. Tàu có 6
khoang và khi một hoặc hai
khoang bị lủng vẫn c̣n có thể
chạy được, Vũ khí trang bị bao
gồm một ống phóng cho 8 hỏa tiễn
hải - không Strela-3 tầm bắn 6
km, hoặc 4 hỏa tiễn b́nh phi
chống tàu nổi tầm bắn xa 220 km,
đầu nổ 450kg, tất cả đều có thể
bắn đi khi đang lặn. Ngoài ra
c̣n có 6 ống phóng cho 18 ngư
lôi (torpedo) 533 mm hoặc 24
thủy lôi (ḿn). Tàu Kilo Project
636 là loại êm nhất trong các
tàu ngầm diesel/điện, nghĩa là
khó bị phát hiện dưới nước bởi
máy ḍ sonar.
Trước kia Việt Nam đă có 2 tàu
ngầm tí hon loại Yugo do Bắc Hàn
sản xuất, những tàu ngầm này chỉ
có hiệu lực pḥng thủ bờ biển
hay đưa người nhái đột kích, hai
tàu này đă cũ và sẽ bị phế thải.
Số tàu ngầm Kilo mới, dù là ít,
có thể là mối đe dọa đáng kể cho
hải quân Trung Quốc trong vịnh
Bắc Việt hay vùng biển xa như
Trường Sa. Tuy nhiên Trung Quốc
cũng đă sử dụng tàu ngầm loại
Kilo từ lâu, thoạt đầu mua 2
chiếc của Nga rồi sau theo mẫu
tự chế tạo lấy. Do đó có thể hải
quân Trung Quốc đă hiểu rơ tính
năng và phương cách đối phó.
Một số quan sát viên thuộc cơ
quan nghiên cứu Global Security
ở Anh nhận xét nếu Việt Nam dùng
loại tàu ngầm Scorpene của Âu
Châu, nhỏ hơn chút ít nhưng
nhiều khả năng tân tiến th́ có
thể hiệu quả hơn. Tàu ngầm
Scorpene mỗi chiếc trị giá $400
triệu, c̣n Kilo chỉ có $300
triệu và Việt Nam có thể thanh
toán bằng dầu lửa, có lẽ đó là
lư do chính khiến đến nay Việt
Nam vẫn mua vũ khí từ Nga.
Chiến hạm trên mặt biển của Việt
Nam cũng là những hộ tống hạm
mua của Nga, kể cả các loại mới
như Gepard, Petaya III vũ trang
pháo 127 mm , hỏa tiễn hải –
không và hải – hải, ngư lôi và
tạc đạn chống tàu ngầm. Những
tàu này có thể hoạt động xa bờ,
nhưng chủ lực pḥng thủ có lẽ là
khoảng 30 khinh tốc đĩnh trong
số có kiểu Project 12418 Molniya
đủ khả năng chiến đấu với những
chiến hạm lớn. Molniya thế hệ
mới, trọng tải 550 tấn vũ trang
súng 76mm, hỏa tiễn hải – hải có
tầm bắn xa tới 500 km, radar và
kỹ thuật chiến tranh điện tử.
Không quân Việt Nam đă có một số
máy bay chiến đấu phản lực
MiG-21 và F-5E, đến nay được coi
là lỗi thời đă quá cũ. Loại máy
bay chiến đấu phản lực mới hơn
bao gồm 36 chiếc MiG-23ML/UB, 36
chiếc Sukhoi Su-27SK/UB và mới
nhất là 12 Sukhoi Su-30MK2V cùng
24 chiếc khác đă đặt hàng của
Nga. Su-30MK2V dùng cho hải quân
vũ trang hỏa tiễn không - không
và không – hải, với tầm hoạt
động 3,000 km được coi là đủ khả
năng tác chiến trên vùng Biển
Đông.
Với những lực lượng này, Việt
Nam gây khó dễ không ít cho
Trung Quốc trong ư đồ bá chủ
trên Biển Đông. Tuy nhiên yếu tố
quan trọng nhất về cán cân lực
lượng ở đây do chỗ Biển Đông là
một đường hàng hải quốc tế quá
quan trọng, các cường quốc hải
quân bao gồm Hoa Kỳ, Nga, Anh và
cả Ấn Độ sẽ không để Trung Quốc
tự do khống chế khu vực Đông Nam
Á.
Trong thập niên 1980, Nga rút
khỏi căn cứ Cam Ranh và Hoa Kỳ
cũng triệt thoái khỏi Subic Bay
ở Philippines, Biển Đông trở
thành vùng bỏ trống đúng vào
thời gian Đặng Tiểu B́nh đang
thực hiện chương tŕnh hiện đại
hóa quân đội Trung Quốc trong đó
có kế hoạch phát triển hải quân
từ một lực lượng pḥng thủ bờ
biển thành một lực lượng hải
quân viễn dương. Cùng lúc với sự
nhận định về tầm quan trọng của
nguồn hải sản và tài nguyên dầu
khí dưới ḷng biển, tranh chấp
chủ quyền thềm lục địa và các
hải đảo trở nên gay gắt giữa 5
nước Trung Quốc, Việt Nam,
Philippines, Brunei, Malaysia..
Từ 1995, Việt Nam nhận rơ sự kết
hợp cần thiết của các quốc gia
trong vùng và đă trở thành một
rong những thành viên hoạt động
tích cực nhất của khối ASEAN.
Tuy vậy, Bắc Kinh hiểu rơ là
ASEAN sẽ chỉ phản đối sự bành
trướng tới Trường Sa bằng miệng
ngoại trừ Việt Nam là có thể
chống lại bằng vũ lực. Tháng 11
năm 2002, Tuyên ngôn về ứng xử
của các bên tại Biển Đông được
kư kết giữa 10 nước thành viên
ASEAN và Trung Quốc nhằm làm
giảm căng thẳng tại các đảo
tranh chấp với mong ước của các
nước liên quan giải quyết vấn đề
chủ quyền 'mà không sử dụng thêm
nữa vũ lực'. Nhưng Bộ luật ứng
xử trên Biển Đông không mang
tính bắt buộc và nhiều vi phạm
hay va chạm khác vẫn thỉnh
thoảng xảy ra trên biển.
Ngoài Việt Nam trực tiếp phải
đương đầu với Trung Quốc, lực
lượng hải quân các quốc gia Đông
Nam Á khác chú trọng đến việc
pḥng thủ bờ duyên hải hơn là mở
rộng hoạt động ra vùng biển xa.
Hải quân Hoàng gia Thái Lan là
duy nhất trong vùng có những
chiến hạm đủ khả năng hoạt động
viễn dương, kể cả một hàng không
mẫu hạm HTMS Chakri Naruebet.
Nhưng quốc gia này chỉ quan tâm
đến vịnh Thái Lan và bờ biển Ấn
Độ Dương, không đóng góp nhiều
cho nền an ninh chung trong Biển
Đông.
Đầu thế kỷ 21, Việt Nam đă tỏ rơ
sự mong mỏi hải quân Ấn Độ mở
rộng tầm hoạt động đến Biển
Đông, thể hiện qua sự thăm viếng
Việt Nam của chiến hạm Ấn Độ và
dự án tổ chức một cuộc thao diễn
hỗn hợp giữa hai nước. Gần đây,
Ấn Độ tỏ rơ đường lối phát triển
hải quân với dự án tự đóng ít
nhất là 2 hàng không mẫu hạm và
hợp tác với Nga sản xuất máy bay
chiến đấu. Nhưng hơn bất cứ tác
động nào khác, sự hiện diện của
Hải quân Hoa Kỳ mới có kết quả
quân b́nh cán cân lực lượng tại
vùng biển nhiều tranh chấp này.
Điều mà người ta chờ đợi là
những dấu hiệu cụ thể, chẳng hạn
như lời Ngoại trưởng Hillary
Cinton vừa tuyên bố ở hội nghị
ASEAN là “Hoa Kỳ trở lại Đông
Nam Á”, th́ mới có thể dự đoán
tương lai ổn định của Biển Đông
sẽ diễn biến theo chiều hướng
nào. (HC)