Video Tài Liệu Audio Tài Liệu Nhạc Tin Tức & Thời Sự B́nh Luận

 

Tỉnh Hải Nam bác phản đối về du lịch Hoàng Sa

Thời sự Biển Đông


Nhà Nước Việt Nam nghĩ sao về câu trả lời của TQ? Hay lại im họng để thắt chặt "t́nh hữu nghị"?
Tỉnh Hải Nam bác phản đối về du lịch Hoàng Sa 
 

Trung Quốc và Việt Nam không đồng ư với nhau về Biển Đông 
Bí thư Tỉnh ủy Hải Nam được dẫn lời bác bỏ lo ngại của Việt Nam về kế hoạch phát triển du lịch của đặc khu kinh tế này, dính đến cả quần đảo Hoàng Sa. 
Hà Nội đă lên tiếng đề nghị Trung Quốc ngưng các hoạt động du lịch tại đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền lănh hải. 
Tuyên bố được đưa ra theo sau việc quốc hội Trung Quốc công bố tài liệu về phát triển du lịch ở đảo Hải Nam bao gồm cả Hoàng Sa. 
Nhưng theo hăng tin AP, Bí thư Tỉnh ủy Hải Nam, ông Vệ Lưu Thành, nói với các nhà báo hôm thứ Tư: "Chúng tôi sẽ phát triển du lịch, kinh tế và xă hội trên vùng đất và đại dương thuộc chủ quyền của TQ. Tôi không nghĩ phát triển kinh tế tại đảo Hải Nam sẽ ảnh hưởng đến nước khác.” 
Ông Vệ nói thêm, Trung Quốc sẽ không vi phạm lợi ích của nước khác trong việc phát triển đảo Hải Nam. 
Ông Vệ nói kế hoạch phát triển đảo Hải Nam hiện vẫn đang được thảo luận, và các dự án năng lượng trên ḥn đảo sẽ tập trung vào dịch vụ năng lượng tại Biển Đông. 
'Đảo du lịch quốc tế' 
Trung Quốc nói năm 2010 sẽ là năm mở màn xây dựng Đảo du lịch quốc tế của Hải Nam. 
Trong tài liệu mới đây của Quốc hội Trung Quốc, có nói đến năm 2020, tỉnh Hải Nam sẽ là tỉnh đảo nhiệt đới duy nhất của Trung Quốc thành điểm đến du lịch giải trí nghỉ ngơi hải đảo "hàng đầu thế giới". 
Truyền thông nhà nước Trung Quốc nói tỉnh Hải Nam sẽ được hỗ trợ "đặc biệt", gồm thực thi biện pháp quản lư xuất nhập cảnh "thông thoáng và tiện lợi". 
Điều làm mọi người quan tâm là phát biểu của Bắc Kinh có phần liên quan đến các quần đảo nhỏ ngoài biển Đông đang tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. 
Bắc Kinh đặt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dưới quyền hành chính của đảo Hải Nam. 
Hai quần đảo này hiện đang bị nhiều nước, trong đó có Việt Nam, đ̣i một phần hay toàn bộ chủ quyền. 
Thứ Hai đầu tuần, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói kế hoạch của Trung Quốc “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, chỉ gây thêm căng thẳng và làm cho t́nh h́nh phức tạp thêm". 


Trung Quốc nói Hoàng Sa, Trường Sa hoàn toàn thuộc Hải nam
RFA-01-06-2010
Cùng lúc, Tỉnh uỷ Hải Nam của Trung Quốc xác định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định chỉ cho phát triển du lịch, mở mang kinh tế và ổn định xă hội trong phạm vi lănh thổ và lănh hải của họ, không gây ảnh hưởng ǵ đến các quốc gia khác. 
Ông Vệ Lưu-thành, bí thư tỉnh uỷ Hải Nam tuyên bố với báo chí điều đó đồng thời nhấn mạnh rằng Bắc Kinh sẽ không gây phương hại đến quyền lợi của những đối tác khác khi triển khai các chương tŕnh vừa kể. 
Mới đây, người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam là bà Nguyễn Phương Nga lên tiếng phản đối Trung Quốc, cho rằng các hoạt động của Bắc Kinh ngoài Biển Đông như biến Hải Nam thành khu du lịch song song với việc khai thác dầu khí là một sự vi phạm trầm trọng chủ quyền của Việt Nam, có thể gây thêm căng thẳng và khiến t́nh h́nh phức tạp hơn. 
Bộ ngoại giao Bắc Kinh bác bỏ lời lên án đó, nói rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những khu vực do Trung Quốc làm chủ và nằm trong phạm vi kiểm soát của họ. 


Đại sứ Trung Quốc khuyên tạm gác tranh chấp biển Đông
RFA-01-06-2010
Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Tôn Quốc Tường tuyên bố Trung Quốc và Việt Nam nên tạm gác vấn đề tranh chấp biển Đông, dành ưu tiên cho hoạt động phát triển kinh tế xă hội hai nước. 
Họp báo tại Hà Nội sáng nay, đại sứ họ Tôn khuyến khích Việt Nam với khẩu hiệu “Hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại”. 
Ông trả lời báo Vietnam Net, nói rằng vấn đề tồn tại giữa hai nước chỉ c̣n vấn đề trên biển, hai bên cần nhắm vào đại cục, toàn cục, gác lại những tranh chấp, chờ thời cơ chín muồi sẽ giải quyết, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển b́nh thường, thuận lợi. 


Ḷng dân là sức mạnh vô tận để bảo vệ quốc gia. Dưới chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa, ḷng dân bị bóp nghẹt để nhường chỗ cho "t́nh hữu nghị" với kẻ thù xâm lược:
Việt Nam cần làm ǵ cùng với hiện đại hoá quốc pḥng?
Việt Long, Biên tập viên đài RFA
2010-01-05

Dư luận quốc tế chú ư đến việc Việt Nam tăng cường khả năng quốc pḥng, cho là để đương đầu với Trung Quốc ở biên giới phía bắc và biển Đông, sau những sự kiện diễn ra từ năm 2004 tới nay. 

RFA photo from YouTube 
Tàu ngầm Kilo cải tiến và máy bay Sukhoi-30MK2 mà VN mua để hiện đại hóa quân đội
Trung Quốc đă bắn giết, bắt giữ, đánh đập, nhục mạ ngư dân Việt Nam, tịch thu tàu thuyền, cướp giựt ngư cụ trước khi thả họ về. Nhưng trong khi biên giới phía bắc đă được thoả thụân và cột biên giới đang được xây dựng, sách lược quân sự ấy có hiệu quả để giữ được lănh hải với ngư trường và mỏ dầu, nguồn sống của người dân Việt hay không? 
Cuộc chiến xưa và nay
Thực ra những hành động đối với ngư dân Việt Nam chỉ là việc làm tái khẳng định mạnh mẽ tham vọng đại dương của Trung Quốc, trong đó biển Đông bị họ coi như sân trước của lục địa Trung Hoa vĩ đại, bao quanh là vùng Đông Nam Á đông dân, trù phú. 
Tuy nói chuyện mật ngọt với các nước phương nam, nhưng Bắc Kinh tự vạch ranh giới luỡi ḅ chiếm gần hết diện tích biển Đông, hành động như trong sân nhà của ḿnh, hiển nhiên coi Việt Nam cùng Hiệp hội ASEAN chẳng khác nào những chú cọp con chưa mở mắt, phải khiếp sợ móng vuốt của con rồng Trung Hoa sắp vươn ra khắp các đại dương với những hạm đội hàng không mẫu hạm. 
Chẳng phải chờ đến những biến động ở biển Đông mà Việt Nam mới tăng cường quân sự. Ở vị trí đóng chốt phía nam, có chủ quyền sinh tử trên thuỷ lộ huyết mạch tiến vào sân trước của Trung Hoa, Việt Nam đă phải nghiên cứu sách luợc này từ lâu, ngay cả từ trước khi xảy ra trận chiến 1979. 
Thế và lực ở các cuộc chiến xưa và nay hoàn toàn khác nhau. Trong chiến tranh chống Pháp và tiến đánh miền Nam, quân đội và cả toàn dân miên Bắc Việt Nam trước đây được Liên Xô cùng Trung Quốc cung cấp vũ khí, lương thực, từ viên đạn, hạt gạo đến cây kim sợi chỉ, dựa lưng vào hậu phương lớn Trung Quốc với sức người vô tận
Những trận đánh của những sư đoàn Việt Nam thiện chiến nhất ở vùng biên giới Trung Quốc từ 1979 đến 1986 càng khiến Việt Nam thấy rơ thế yếu về vũ khí, trang bị, quân số, ngay trên những địa thế và chiến thuật sở trường của một đạo quân vẫn luôn luôn ngạo mạn là một quân đội từng đánh thắng cả Pháp lẫn Mỹ. 
Thế và lực ở các cuộc chiến xưa và nay hoàn toàn khác nhau. Trong chiến tranh chống Pháp và tiến đánh miền Nam, quân đội và cả toàn dân miên Bắc Việt Nam trước đây được Liên Xô cùng Trung Quốc cung cấp vũ khí, lương thực, từ viên đạn, hạt gạo đến cây kim sợi chỉ, dựa lưng vào hậu phương lớn Trung Quốc với sức người vô tận, với cùng quyền lợi phát triển thế lực xuống phía nam, trong cùng chiến lược đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới để mở rộng vùng ảnh hưởng của phe Cộng Sản.
Quân đội miền Bắc thiện chiến, lại chủ động trong chiến lược tấn công, có cả một hành lang Lào Miên lợi hại để chuyển quân và vũ khí, để trú ẩn và chuẩn bị cho những trận chiến quyết định. Đến lúc người Mỹ không c̣n đủ kiên nhẫn để yểm trợ cho một cuộc chiến tranh trường kỳ ở cách xứ sở của họ cả nửa ṿng trái đất, th́ thời cơ chiến thắng của Hà Nội đă đến. 
Ngày nay chính hậu phương lớn kia đang trở thành cường địch. Những lợi điểm về địa lư trước đây nay rơi vào tay kẻ địch bắc phương. Việt Nam dựa vào đâu? Vũ khí đă cũ mèm từ khi Liên Xô trở thành nước Nga, khối Xă Hội Chủ Nghĩa tan thành mây khói.
Mọi vũ khí quân trang quân dụng chiếm được ở miền Nam đều đă hỏng hóc từ nhiều năm trước, không đạn dược, không cơ phận thay thế và bảo tŕ. C̣n chăng chỉ có dăm chiếc tàu đổ bộ đang dần dần bơi vào lịch sử. Vũ khí đạn dược gần cạn kiệt sau chiến cuộc Kampuchea, nguồn cung hạn chế. 
Phía Trung Quốc, lực lượng quốc pḥng có thể chinh phục cả châu Á, nếu người Mỹ không có mặt nơi đây, có lẽ chỉ có Nhật Bản là ngoại lệ. 
Vũ khí đă cũ mèm từ khi Liên Xô trở thành nước Nga. Mọi vũ khí quân trang quân dụng chiếm được ở miền Nam đều đă hỏng hóc từ nhiều năm trước, không đạn dược, không cơ phận thay thế và bảo tŕ. C̣n chăng chỉ có dăm chiếc tàu đổ bộ đang dần dần bơi vào lịch sử. Vũ khí đạn dược gần cạn kiệt sau chiến cuộc Kampuchea
Liệu những vũ khí đang được sắm sửa có giúp Việt Nam pḥng thủ chống được Trung Quốc cả trên bộ, trên không lẫn mặt biển chăng? 
So sánh lực lượng
Năm nay Việt Nam sẽ được giao 2 tàu ngầm Kilo cải tiến, 4 chiếc kia dường như sẽ giao vào năm sau, có tin nói giao mỗi năm sau một chiếc, giá tổng cộng 1 tỉ rưỡi đến 1 tỉ 800 triệu đô la. Tàu ngầm Kilo của Nga được công nhận là vũ khí pḥng thủ mặt biển lợi hại, nổi tiếng là “vô âm vô h́nh” với mệnh danh “chiếc lỗ đen” nhờ sự vận hành rất êm nhẹ bằng máy điện-diesel, cách thiết kế toàn thân không gây tiếng ồn và chống sonar phát hiện, có radar, trang bị vũ khí tối tân và hùng hậu. 
Tàu dài trên 70 mét, thuỷ thủ đoàn 57 người, vận tốc 17 hải lư dứơi mặt nước, 11 hải lư trên mặt biển. Tầm hoạt động 7 ngàn 500 dặm khi tuần du chậm gần mặt nước và 400 dặm nếu lặn xuống dứơi, có khả năng hoạt động liên tục 45 ngày ngoài biển khơi. 
Tàu Kilô có 6 ống phóng và giá phóng, bắn được tổng cộng 18 ngư lôi, với hệ thống điểu khiển đánh được hai mục tiêu cùng lúc. Hai ống phóng bắn được ngư lôi nặng gần hai tấn tự điều khiển bằng sonar, theo dơi bằng truyền h́nh để xạ thủ chuyển được hướng mục tiêu. 
Một ngư lôi khác nặng hơn hai tấn, tầm xa 40 km, tầm đánh sâu tối đa 500 mét. Tàu c̣n phóng được 8 phi đạn Strela tầm nhiệt chống các phi cơ diệt tàu ngầm, tầm xa 6 km, hoặc loại Igla nặng hơn, xa 5 km, vận tốc hơn gấp rưỡi tốc độ âm thanh. 
Việt Nam cũng đă đặt tiền cọc để mua 12 chiếc Sukhoi-30MK2 của Nga, giao hàng trong 2 năm, giá khoảng 600 triệu đô la. Đó là loại phi cơ chiến đấu đa năng, với hệ thống radar và điện tử cải tiến tới mức tối tân nhất, có thêm khả năng phóng phi đạn chống tàu chiến. 
Phía Trung Quốc, lực lượng hải quân được xây dựng để thách đố quyền lực quân sự của Hoa Kỳ ở châu Á, chứ không nhắm vào Việt Nam. 
Phía Trung Quốc, lực lượng hải quân được xây dựng để thách đố quyền lực quân sự của Hoa Kỳ ở châu Á, chứ không nhắm vào Việt Nam. 
Các tàu chiến tuần dương, khu trục, thiết giáp của Trung Quốc mang tên các triều đại Trung hoa như Lương, Tần, Tấn... càng ngày càng được tăng cuờng về số lượng và phẩm chất, với những hệ thống vi tính do Trung Quốc tự tạo để đỉều khiển hải hành và vũ khí, chưa kể những hàng không mẫu hạm được khoe là đang kiến tạo. 
Thực ra giới quan sát cho rằng chưa hẳn Trung Quốc đă muốn có hàng không mẫu hạm, v́ họ không thấy Bắc Kinh có kế hoạch nào để mua sắm hay chế tạo máy bay cho các con tàu chúa tể đại dương đó. Tướng Trung Quốc Tiền Lợi-hoa nói với báo chí quốc tế rằng điểm quan trọng không phải là Trung Quốc có hàng không mẫu hạm hay không, mà là Trung Quốc làm điều ǵ với chiếc hàng không mẫu hạm đó. 
Về tàu ngầm, ngoài hằng trăm tàu ngầm loại cũ để pḥng thủ lănh hải và các tàu ngầm lớn để phóng hoả tiễn liên lục địa, Trung Quốc có 12 tàu Kilô loại cũ và mới, bố trí ở biển Đông hải đối diện Nhật Bản, Đài Loan và biển Đông của Việt Nam, nhằm bành trướng hải phận phía Nam, đương đầu với hạm đội 7 của Hoa Kỳ.
Cuộc biểu diễn lực lượng nhân dịp kỷ nịêm 60 năm thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cho thấy trong số 52 tàu chiến diễn tập có một số tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân chưa từng xuất hịên trước đây. 
Giữa tương quan lực lượng như vậy, Việt Nam có thể làm ǵ để bảo vệ chủ quyền lănh hải? Mời quư vị xem tiếp trong bài sau. 


Hàng không mẫu hạm TQ trên Biển Đông?
Quách Tương Uy 
Viết cho BBCVietnamese.com từ London


Chuyện Trung Quốc đang t́m cách phát triển hệ thống hàng không mẫu hạm riêng, đă không c̣n là điều bí mật.

Trung Quốc đang hiện đại hóa lực lượng hải quân 
Đầu năm nay, ông Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Quốc pḥng, nói rằng Trung Quốc không nên là đại cường duy nhất trên thế giới mà không có tàu sân bay. Đồng thời, có thông tin rằng Trung Quốc muốn triển khai hai hạm đội hàng không mẫu hạm trước năm 2015. 
Có bằng chứng để thế giới tin rằng Trung Quốc rất nghiêm túc trong cố gắng củng cố Vạn lư Trường thành trên biển. 
Năm 1998, một công ty nhỏ của Hong Kong, Chong Lot Travel Agency Ltd, thắng cuộc đấu giá để mua một tàu sân bay đa dụng đă phế thải của Nga, Đô đốc Kuznetsov, từ Ukraine, có tên Varyag. 
Ư tưởng ban đầu là biến con tàu thành ṣng bài casino, nhưng sau một thời gian yên lặng, con tàu được đưa về Trung Quốc năm 2002, thả neo ở cảng Đại Liên. 
Năm 2005, tàu được sơn màu xám ḍng chữ Hải quân Quân Giải phóng, và boong tàu được sơn màu vàng. 
Ngày 27/04/2009, tàu Varyag rời bến, đưa đến nơi khác cách khoảng hai dặm, có thể nhằm để tân trang. Và vào tháng Năm, người ta xóa đi huy hiệu và các kư tự hải quân Nga trên thân tàu. 
Vẫn có tranh căi về chức năng thực sự của Varyag. Một số người nói nó sẽ sớm trở thành tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, nhưng những người khác lại khẳng định cùng lắm nó chỉ dùng để đào tạo hải quân. 
Dù thế nào chăng nữa, rơ ràng Trung Quốc đang gấp rút tái cơ cấu lực lượng hải quân. 
Mới gần đây cũng có tin đồn rằng Trung Quốc dự định mua ít nhất hai máy bay SU-33 của Nga cho tàu Varyag, và mục tiêu tối hậu là sẽ tự phát triển máy bay chiến đấu làm tại Trung Quốc để trang bị cho các tàu sân bay trong tương lai.
 

Hàng không mẫu hạm loại Varyag được Trung Quốc mua lại
Mục tiêu dài hạn? 
Mục tiêu của hạm đội tàu sân bay của Trung Quốc sẽ là ǵ? 
Trung Quốc vẫn nhấn mạnh ưu tiên của quân đội nước này là bảo vệ lănh thổ. Nhưng giờ đây, điều c̣n được nhấn mạnh hơn nữa là khi quyền lợi trên biển của Trung Quốc bị xâm phạm, không thể không dùng biện pháp tấn công là gửi ra tàu sân bay. 
Trong trường hợp này, rơ ràng nhiệm vụ chính của hàng không mẫu hạm Trung Quốc sẽ là trên Biển Đông, để bảo vệ tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa – Trường Sa, và bảo đảm an toàn cho việc chuyên chở dầu hỏa trên biển. 
Dĩ nhiên vào lúc này, cả Đông Á đang dồn dập nỗ lực tân trang quân sự. Nhật Bản dự định thành lập hạm đội hàng không mẫu hạm với Mỹ để phản kích Trung Quốc khi cần. 
Việt Nam cũng đang nâng cấp máy bay chiến đấu và tàu ngầm. Chuyến đi thăm Nga của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đem lại kết quả mua sáu tàu ngầm hạng kilo và 20 máy bay Su-30MK2. 
Sóng Biển Đông đang dâng. 
Nhưng liệu Trung Quốc có dùng đến giải pháp cuối cùng là nổ súng nếu xung đột gia tăng? 
Nhưng khi quan sát kỹ chiến lược quân sự của Trung Quốc, ta thấy triết lư của người Trung Quốc không phải là đẩy các lân quốc sang phía kẻ thù. Sẽ càng bất lợi nếu v́ chiến tranh mà Hoa Kỳ có lợi thế giữa những láng giềng của Trung Quốc. 
V́ thế, hàng không mẫu hạm có lẽ phần nhiều là mưu chiến lược giúp Trung Quốc dễ dàng hơn trong các cuộc đàm phán tương lai, chứ không phải là dấu hiệu chiến tranh trên Biển Đông. 


Tham vọng sở hữu tàu sân bay của Trung Quốc
 

VIT - Mới đây, 2 chuyên gia Nan Li và Christopher Weuve đă công bố bài phân tích tương đối dài mang tên “Tham vọng sở hữu tàu sân bay của Trung Quốc”. Chúng tôi xin trích một số đoạn trong nghiên cứu này để thấy được con đường gian nan của Bắc Kinh tiến tới sở hữu tàu sân bay cho riêng ḿnh.Khó khăn chính trong việc đóng tàu sân bay của Trung Quốc là việc thiếu kinh phí. Ngày 21/6/1958, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đă đề nghị Ủy ban quân sự Trung ương thành lập “những con đường sắt ra biển lớn” có nghĩa là tàu thương mại hoạt động trên đại dương được tàu sân bay hộ tống, lúc đó ngân sách quốc pḥng Trung Quốc chỉ có 5 tỷ nhân dân tệ. Ngân sách nghèo nàn này chỉ dành 1,5 tỷ nhân dân tệ để mua vũ khí c̣n Hải quân thực tế chỉ nhận được chưa đến 200 triệu nhân dân tệ. Tàu quét ḿn Liên Xô lớp Gordy có lượng choán nước 1600 tấn trị giá 30 triệu nhân dân tệ, Hạm đội Trung Quốc đă có thể tính đến việc sở hữu 4 chiếc tàu loại này. 
Chương tŕnh đóng tàu sân bay một lần nữa được đưa ra vào những năm 70 nhưng khó khăn về tài chính không cho phép Trung Quốc triển khai nghiêm túc công việc này. Từ năm 1971 – 1982, ngân sách quốc pḥng hàng năm của Trung Quốc đạt mức trung b́nh khoảng 17 tỷ nhân dân tệ. Trung Quốc chi khoảng 6 tỷ nhân dân tệ mua vũ khí, v́ vậy việc đóng/mua tàu sân bay chỉ được chi khoảng vài trăm triệu nhân dân tệ. Với sự đồng ư của người thay thế Chủ tịch Mao, Hua Guofeng - người giữ chức Chủ tịch Ủy ban quân sự Trung ương vào cuối những năm 70, Trung Quốc có kế hoạch sở hữu tàu sân bay hạng nhẹ có lượng choán nước 18.000 tấn (bằng con đường đóng tàu nội địa hoặc hợp tác với quốc gia khác), và sử dụng máy bay cất và hạ cánh theo phương thẳng đứng Harrier của Anh. Tuy nhiên, dự án đă bị hủy bỏ v́ ông Deng Xiaoping - người thay thế ông Hua Guofeng - đă quyết định cắt giảm chi phí quốc pḥng để tiết kiệm tiền dành cho phát triển kinh tế dân dụng. 
Liu Huaqing – người giữ chức Tổng tham mưu trưởng Lực lượng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) trong những năm 1982-88 và chức Phó Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương giai đoạn 1992-97 - đă ráo riết vận động hành lang cho kế hoạch đóng tàu sân bay. Ông đă đề ra cơ sở kinh tế - kỹ thuật thực hiện chương tŕnh trong kế hoạch 5 năm lần thứ 7 (1991-1995) bao gồm chi phí nghiên cứu và chế tạo tàu sân bay và máy bay sử dụng trên tàu, và trong kế hoạch 5 năm lần thứ 8, ông đề xuất bắt đầu đóng tàu sân bay. Ông đề xuất sở hữu tàu sân bay hạng trung với khả năng pḥng không có hạn. Mặc dù vào đầu thập niên 90, ngân sách quốc pḥng Trung Quốc đă tăng lên đáng kể nhưng Trung Quốc vẫn không thể tăng kinh phí cho chương tŕnh đóng tàu sân bay. Trung Quốc ưu tiên cho phát triển hàng không, hệ thống pḥng không, điện tử và nghiên cứu tàu ngầm. 
Vào năm 2007, khả năng tài chính của Trung Quốc đă cải thiện đáng kể. Các khoản thu của ngân sách quốc gia tăng lên khoảng 750 tỷ đôla mặc dù kém Mỹ (2,6 ngh́n tỷ đôla) nhưng nhiều hơn Nhật Bản (500 tỷ đôla). V́ thế, ngân sách quốc pḥng hàng năm của Trung Quốc đă tăng lên 46 tỷ đôla (350 tỷ nhân dân tệ). Theo những đánh giá chính thức, trong năm nay, Trung Quốc sẽ chi khoảng 15,3 tỷ đôla cho kế hoạch mua sắm vũ khí. Người ta cho rằng, hiện nay, chương tŕnh đóng tàu sân bay tại Trung Quốc là nhiệm vụ ưu tiên và Trung Quốc sẽ chi hàng tỷ đôla mỗi năm để thực hiện mục đích này và kinh phí tiếp tục tăng trong những năm tới. Cần phải lưu ư, ở thời điểm giá nhân công và nguyên vật liệu thấp th́ kinh phí đóng tàu san bay lớp Kuznetsov có lượng choán nước 60.000 tấn là khoảng hơn 2 tỷ đôla. Nhưng đóng xong tàu sân bay cũng mới chỉ hoàn thành một nửa công việc. Cần phải mua máy bay sử dụng trên tàu Su-33 với số lượng 50 chiếc, mỗi chiếc giá 50 triệu đôla; cũng như cần mua một vài máy bay cảnh báo sớm trên không, trực thăng chống ngầm và t́m kiếm cứu hộ vừa đủ với tổng chi phí khoảng hơn 3 tỷ đôla.
Tàu khu trục Sovremenny do Nga sản xuất có giá khoảng 600 triệu đôla và Nga cần thêm chiến hạm, tàu hậu cần trị giá 4 tỷ đôla. V́ vậy, tổng kinh phí nhóm tàu sân bay tấn công của Trung Quốc có thể lên lới 10 tỷ đôla và 2 nhóm tàu sân bay tấn công th́ số tiền có thể lên tới gần 20 tỷ đôla. Số tiền này sẽ được chi trả trong ṿng 10 năm thực hiện. Chi phí hàng năm dành cho việc đào tạo liên tục, bảo dưỡng kỹ thuật, sửa chữa và nhiên liệu dành cho 2 nhóm tàu sân bay tấn công có thể chiếm 10% tổng kinh phí đóng tàu sân bay (theo kinh nghiệm từ Mỹ) hoặc 200 triệu đôla dành cho mỗi nhóm tàu sân bay tấn công. Từ những con số dẫn ra ở trên, có thể kết luận rằng trong điều kiện kinh tế và tài chính hiện nay, Trung Quốc có thể thực hiện được chương tŕnh đóng tàu sân bay.
Huy Linh (Lược dịch)



Buổi Phỏng Vấn hay là cơ hội để Quan thày TQ răn đe tên đầy tớ CSVN?:
Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường:
Chờ điều kiện chín muồi giải quyết tranh chấp Biển Đông

Cập nhật lúc 16:07, Thứ Tư, 06/01/2010 (GMT+7)
VNN - Tại buổi họp báo sáng nay (6/1) ở Hà Nội, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam Tôn Quốc Tường cho rằng giải pháp thiết thực hiện nay, đó là tạm gác lại tranh chấp Biển Đông, chờ điều kiện chín muồi giải quyết, trong khi ưu tiên cho hoạt động phát triển kinh tế xă hội ở hai nước. 
 

Đại sứ Tôn Quốc Tường: Không có một lư do nào làm hỏng quan hệ Trung - Việt. Ảnh: Trường Sơn 
Chuẩn bị cho các hoạt động của Năm Hữu nghị Việt - Trung 2010, kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước, Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường trong buổi họp báo đă thông báo các sự kiện cũng như đánh giá về tiến tŕnh hợp tác 60 năm Trung - Việt.
"Hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại" 
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên thừa nhận nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc cũng là nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ cộng ḥa. 
Đại sứ Tôn Quốc Tường nói kinh nghiệm quư báu nhất rút ra trong tiến tŕnh 60 năm quan hệ Trung - Việt là "hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại". 
"Là láng giềng, là đồng chí, anh em, hai nước có 100 lư do để hợp tác và không có một lư do nào làm hỏng quan hệ Trung - Việt. Đảng, Nhà nước và Chính phủ Trung Quốc coi trọng phát triển quan hệ với Việt Nam, đặt mối quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện giữa Trung - Việt ở vị trí quan trọng và trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, không ngừng làm hết sức đóng góp cho sự nghiệp chung của hai bên", Đại sứ nhấn mạnh. 
Theo ông Tôn Quốc Tường, năm 2009, quan hệ hai nước có nhiều thu hoạch. Hai nước đă trao đổi 167 đoàn thăm viếng, làm việc, trong đó cấp thứ trưởng 108 đoàn. Đáng chú ư, trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước vẫn duy tŕ đà tăng trưởng, phấn đấu đạt 25 tỷ USD vào năm nay. 
VietNamNet lược ghi phần hỏi - đáp giữa Đại sứ và các phóng viên Việt Nam về những vấn đề quan hệ song phương: 


"Tạm gác lại tranh chấp" 
Tuổi Trẻ: Xin Đại sứ cho biết chủ trương giải quyết tranh chấp Biển Đông với Việt Nam? 
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng anh em. Nhưng cũng giống như quan hệ của các nước khác, trong quan hệ song phương của chúng ta chắc chắn tồn tại một số vấn đề. Tôi thường nói với các đồng chí lănh đạo cũng như các bạn Việt Nam rằng trong gia đ́nh dù là vợ chồng cũng có khi căi nhau. Đây là vấn đề giữa anh em chúng ta. 
Làm thế nào giải quyết vấn đề đó cũng nêu ra thách thức to lớn đối với ư chí và thiện chí, trí tuệ và khả năng giải quyết vấn đề này. Nếu điều kiện chín muồi, hai bên giải quyết được vấn đề, chắc chắn sẽ thúc đẩy phát triển quan hệ hai bên chúng ta. Nếu điều kiện chưa chín muồi, làm cản trở cho quan hệ hai nước th́ điều cần phải làm và nên làm là gác lại vấn đề. Trong quan hệ hai nước c̣n có nhiều công việc cần cố gắng, nỗ lực, có nhiều hợp tác có thể tiến hành. 
Trong khi phát triển quan hệ song phương và chờ đợi điều kiện chín muồi, hai bên có điều kiện giải quyết vấn đề này tốt hơn và sẽ đưa ra phương án giải quyết hợp lư hơn nữa. Quan hệ Trung - Việt có 3 vấn đề lịch sử để lại: phân định biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và giải quyết vấn đề biên giới trên biển. Hai bên đă cố gắng giải quyết hai vấn đề trước và chỉ c̣n lại vấn đề Nam Hải (cách gọi Biển Đông của phía Trung Quốc - PV). 
Khi hai bên đang đàm phán, giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, phóng viên Việt Nam hỏi tôi về đánh giá quá tŕnh đàm phán giải quyết, tôi đă trả lời rằng giải quyết vấn đề biên giới đất liền có ư nghĩa quan trọng, không những tạo cơ sở cho vùng biên giới hai nước ḥa b́nh, ổn định, phát triển và hợp tác, cũng như chứng minh với các nước trên thế giới rằng hai nước xă hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lănh đạo th́ không có vấn đề nào không thể giải quyết được. 
Bây giờ quan hệ hai nước chỉ c̣n vấn đề trên biển. Chúng ta đă thiết lập cơ chế đàm phán vấn đề trên biển, thực hiện nhận thức chung của lănh đạo cấp cao hai nước, thúc đẩy tiến tŕnh đàm phán. Để giải quyết tranh chấp, hai bên cần xuất phát từ đại cục, toàn cục và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, tạm gác lại tranh chấp, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển b́nh thường, thuận lợi của quan hệ hai nước. Tôi nghĩ đây là cách làm phù hợp nhất. 
 

60 năm qua, quan hệ hai nước đă trải qua một giai đoạn khó khăn, nhưng đó chỉ là một giai đoạn khúc khuỷu - Đại sứ Trung Quốc nói. Ảnh: Trường Sơn 
VietNamNet: Theo Đại sứ, đâu là những thuận lợi và khó khăn trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên biển - vấn đề tồn đọng cuối cùng giữa hai nước? 
Tôi nghĩ đây là vấn để nổi bật đang tồn tại trong quan hệ hai nước. Hai bên đă thiết lập cơ chế đàm phán và đang tiến hành thuận lợi. Về thuận lợi, hai nước đều là nước xă hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lănh đạo nên không có lư do nào không thể giải quyết được vấn đề tồn tại. 
Nhiệm vụ quan trọng, ưu tiên của hai nước bây giờ là tiến hành công cuộc đổi mới, cải cách, mở cửa, phát triển sự nghiệp xă hội chủ nghĩa, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Hơn nữa, lănh đạo cấp cao hai nước đă nhiều lần đạt được nhận thức chung hết sức quan trọng. Đó là không để cho vấn đề Nam Hải ảnh hưởng đến sự phát triển, ổn định lâu dài, b́nh thường của quan hệ hai nước. 
Vấn đề nào cũng sẽ có mặt không thuận lợi. Lănh thổ là vấn đề phức tạp, khó khăn. Lập trường, quan điểm giữa hai bên khác nhau nhiều. Điều quan trọng nhất là làm thế nào đối xử vấn đề tranh chấp và những quan điểm khác nhau. 
Lănh đạo cấp cao Trung Quốc đă nêu ra một sáng kiến mang tính xây dựng, đó là gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác. Ư nghĩa của nó là không nhắc đến vấn đề tranh chấp mà hai bên có thể tiến hành hoạt động phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xă hội của hai bên chúng ta. Bời v́ đó là lợi ích hai bên cùng có lợi và cùng chia sẻ. 
Trước khi vấn đề này có điều kiện giải quyết, sáng kiến đó có lẽ là con đường hiện thực, thiết thực mà hai bên có thể thực hiện. Chúng tôi đang cố gắng tiếp xúc với các cơ quan hữu quan của Việt Nam để thúc đẩy. 
"Trung Quốc đă đối xử nhân đạo, trách nhiệm" 
Tiền Phong: Ở Việt Nam có rất nhiều thế hệ quư trọng t́nh hữu nghị giữa Việt Nam với Trung Quốc. Và tôi biết họ là những người hết ḷng vun đắp cho t́nh hữu nghị đó. Họ cảm thấy đau ḷng về cách ứng xử của Trung Quốc thời gian qua đối với ngư dân Việt Nam. B́nh luận của ông? 
Thông tin đăng trên báo chí có một số là sự thật, một số không phải là sự thật. Tôi phải nói rằng Trung Quốc luôn ứng xử những vấn đề như thế này rất có trách nhiệm. Khi phía Việt Nam nêu vấn đề, chúng tôi đă xác minh, kiểm tra ngay lập tức nhưng kết quả xác minh của chúng tôi lại khác với kết quả của phía Việt Nam. 
Ví dụ có một số báo chí đưa tin phía Trung Quốc đă đối xử với ngư dân Việt Nam không nhân đạo. Về vấn đề này, chúng tôi đă xác minh, kiểm tra rất nghiêm túc nhưng kết quả cho thấy đó không phải là sự thật. Ví như có lần Việt Nam đă can thiệp với Trung Quốc rằng Trung Quốc đă thu giữ những công cụ đánh bắt cá cũng như thủy sản đánh bắt của ngư dân Việt Nam. Chúng tôi xác minh th́ cho thấy phía Trung Quốc chỉ đuổi tàu cá ra khỏi lănh hải của Trung Quốc chứ không có hành vi tiếp xúc với ngư dân Việt Nam. Tôi cũng thắc mắc nếu không tiếp xúc làm sao thu giữ ngư cụ của ngư dân Việt Nam. 
Khi tàu cá của Việt Nam đi tránh gió cập cảng tại những cảng không phải cảng tránh gió của Trung Quốc, chúng tôi đă đối xử nhân đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có thể cập cảng. Nhưng khi rời cảng, họ lại chỉ trích Trung Quốc đối xử không nhân đạo và làm đau ḷng các cơ quan hữu trách của Trung Quốc. 
Sau khi sự việc xảy ra, chúng tôi đă trao đổi riêng với các đồng chí Việt Nam. Chúng tôi cho rằng không nên đưa tin những việc xấu như thế này. Phóng viên Việt Nam kiểm tra lại, báo chí Trung Quốc ít đưa tin về tranh chấp trên biển, tranh chấp về nghề cá và chúng tôi luôn xuất phát từ đại cục, tuy rằng chúng tôi có lư nhưng chúng tôi thấy cũng không nên đưa tin. 
2010, lănh đạo cấp cao nhất Trung Quốc thăm Việt Nam 
Nhân Dân: Xin Đại sứ nêu những nét nổi bật quan hệ trong hai nước trong 60 năm qua? 
Nói đến quan hệ Trung - Việt, mọi người thường nhắc đến câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vừa là đồng chí, vừa là anh em". Quan hệ Trung - Việt có một điều chung: chung chế độ và chung lư tưởng. Dù hai nước với diện tích đất nước, dân số, tŕnh độ phát triển khác nhau cũng như trong 60 năm đă trải qua một giai đoạn khó khăn nhưng đó chỉ là một giai đoạn khúc khuỷu. 
Tóm tắt lại quan hệ hai nước trong 60 năm, điều đầu tiên là hai nước đă tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau. Thứ hai là b́nh đẳng cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau. Thứ ba là xuất phát từ đại cục, cầu đồng, tồn dị. Tôi nghĩ đây là 3 điều kiện, cơ sở hết sức quan trọng trong phát triển quan hệ hai nước. 
Một câu tóm tắt quan hệ hai nước, đó là cần tăng cường sự hiểu biết chính trị để đảm bảo sự phát triển lâu dài của quan hệ song phương. Hai nước tiến tới quan hệ ngoại giao, trong ḷng mọi người đang suy nghĩ chúng ta đă trải qua 60 năm th́ 60 năm tiếp theo chúng ta sẽ như thế nào? Nếu có thể phát triển quan hệ trên những nguyên tắc tôi nêu, trong tương lai, quan hệ hai nước phát triển thuận lợi và tươi sáng. Chúng tôi hết sức đầy ḷng tin. 
Tiền Phong: Quan hệ cấp cao giữa hai nước có sự thỏa thuận hàng năm trao đổi viếng thăm cấp cao. Hai năm qua, lănh đạo cấp cao Trung Quốc - Việt Nam viếng thăm nhau rất nhiều nhưng không thấy chuyến thăm của lănh đạo cấp cao nhất Trung Quốc. Theo Đại sứ, v́ sao? Liệu năm 2010 có lănh đạo cấp cao Trung Quốc nào sang thăm Việt Nam? 
Tôi phải sửa lại cách nói của bạn. Trong hai năm qua, hai bên đă tiến hành trao đổi viếng thăm cấp cao. V́ trong năm 2009, lănh đạo cấp cao trong hệ thống Đảng, chính trị cũng như quân đội đều đă sang thăm Việt Nam. 6 tháng đầu năm, Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đă sang thăm Việt Nam. Ủy viên Quốc vụ viện của Trung Quốc đă sang thăm Việt Nam. Có các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc cũng đă sang thăm. 
Nếu chỉ nhắc đến các đồng chí lănh đạo Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, tôi phải nói thẳng thắn rằng chương tŕnh làm việc của lănh đạo cấp cao hết sức bận rộn. Chúng tôi coi Việt Nam là anh em, sẵn sàng thúc đẩy quan hệ. Nếu điểm lại sẽ thấy những chuyến thăm cấp cao của Trung Quốc sang Việt Nam nhiều hơn so với chuyến thăm cấp cao của Trung Quốc sang các nước khác. 
Chúng tôi nói vui rằng chúng tôi nợ rất nhiều các nước khác v́ có một số nước trong 10 năm qua chưa có một đoàn cấp cao của Trung Quốc sang thăm. Chúng tôi phải trả nợ nhiều nước. Chúng tôi có chương tŕnh bận rộn, coi Việt Nam là đồng chí, anh em nên chúng tôi phải trả nợ những đối tác khác trước. 
Năm 2010, tôi xin hứa chắc chắn sẽ có lănh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc sang thăm Việt Nam. 
VOV: Năm 2010, Việt Nam là Chủ tịch ASEAN. Vai tṛ mới của Việt Nam tác động như thế nào đến quan hệ hai nước cũng như quan hệ chung giữa Trung Quốc và ASEAN, nhất là trong bối cảnh từ 1/1/2010, Hiệp định Thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN có hiệu lực? 
Chúng tôi chúc mừng Việt Nam đảm nhiệm cương vị hết sức quan trọng là Chủ tịch ASEAN năm 2010 và hoàn toàn tin tưởng Việt Nam sẽ hoàn thành xuất sắc trọng trách này. Quan hệ Trung Quốc và ASEAN trải qua chặng đường 30 năm và đang phát triển hết sức thuận lợi. Hiệp định Thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN sẽ tạo nên một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới với 1,9 tỷ người, GDP đạt 65.000 tỷ USD, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 4500 tỷ USD. Có thể nói đây là tin vui to lớn với các nước ASEAN và Trung Quốc. 
Trên cơ sở đó sẽ thúc đẩy giao thương cũng như vận tải hàng hóa giữa các nước. Tuy nhiên v́ là khu vực thương mại tự do do các nước đang phát triển h́nh thành, có nhiều hàng hóa của Trung Quốc và ASEAN giống nhau nên tạo ra thách thức lớn cho nhau. Nhưng thách thức này sẽ thúc đẩy các nước tiến hành điều chỉnh cơ cấu thành phần kinh tế ở các nước. 
Cuộc khủng hoảng tài chính đă ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mỗi nước, là thách thức lớn đối với phát triển kinh tế mỗi nước, nhưng là cơ hội dành cho phát triển thành phần kinh tế mới, thúc đẩy điều chỉnh, tái cơ cấu các thành phần kinh tế của Trung Quốc. Khu vực thương mại tự do Trung Quốc và ASEAN cũng tương tự, nên cần nắm bắt thời cơ thúc đẩy tiến tŕnh tái cơ cấu các thành phần kinh tế trong nước, làm thế nào hàng hóa mỗi nước có sức cạnh tranh. 
Xuân Linh
-----------------------------

"Hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại" Phải chăng đây là lời Bắc Kinh cảnh cáo đối với nhóm lănh đạo CSVN, nếu ngoan ngoăn "nghe theo", sẽ phát triển, ngược lại nếu "ương ngạnh", sẽ thất bại? 
"Tạm gác lại tranh chấp" 
Tại gác lại, trong khi bọn Đại Hán lại gia tăng hoạt động tại Biển Đông. Đợi đến khi chúng chiếm trọn "Đường Lưỡi Ḅ", như đă chiếm Hoàng Sa, mới được lên tiếng?
"Trung Quốc đă đối xử nhân đạo, trách nhiệm" 
Nếu Cộng Sản Trung Quốc có "nhân đạo và trách nhiệm", th́ Việt Nam đă không có vụ Cải Cách Ruộng Đất năm 1953 tại miền Bắc.


<< trở về đầu trang >>
free counters