Thư ngỏ của Nhóm Linh mục
Nguyễn Kim Điền
gửi Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông
Michael Michalak
Việt Nam ngày 25-06-2009
Kính thưa Ông Đại sứ
Chúng
tôi kư tên dưới đây là đại diện cho
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, tức
là nhóm Linh mục Việt Nam sống theo
tinh thần của Cố Tổng Giám mục
Philipphê Nguyễn Kim Điền, vị chủ
chăn Công giáo can đảm từng cai quản
Giáo phận Huế nhưng đă bị Cộng sản
ám hại ngày 08-06-1988.
Theo bản tin của phóng viên Thanh
Quang, đài RFA hôm 18-06-2009, th́
Ông Đại sứ đă gặp nhiều cá nhân và
tổ chức Việt Nam hải ngoại ở
Washington D.C. ngày 13-06-2009 tại
tư gia bác sĩ Nguyễn Quốc Quân
(www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Michael-michalak-met-with-various-vietnamese-american-representatives-in-washington-area-06182009164514.html).
Dựa theo những lời phát biểu của Ông
hôm đó mà bản tin RFA có ghi lại và
chúng tôi hy vọng là không sai lạc,
chúng tôi xin trả lời Ông như sau:
1- Ông nói: “Cần phải minh
định rơ rằng đạo luật tự do tôn giáo
chỉ đề cập tới vấn đề tự do tôn
giáo, nó không nhất thiết liên quan
đến nhân quyền”.
Thế Ông nghĩ sao về điều 18 trong
Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự
và Chính trị được biểu quyết ngày
16-12-1966. Điều 18 này nói rơ: “1-
Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự
do lương tâm và tự do tôn giáo.
Quyền này bao gồm quyền tự do theo
một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền
tự do biểu thị tôn giáo hay tín
ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo,
nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư
hoặc với người khác, tại nơi công
cộng hay tại nhà riêng. 2- Không ai
bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do
lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng…”
Phải chăng khi nói như trên, Ông Đại
sứ hàm ư rằng việc không có tự do
tôn giáo chẳng phải là việc mất đi
(một phần) nhân quyền hay việc bách
hại thành viên tôn giáo chẳng phải
là việc vi phạm nhân quyền?
2- Ông nói: “Hiện giờ Giáo
hội Công giáo không dính líu đến
chính trị” và “Giáo hội tại VN phải
ở ngoài phạm vi chính trị”.
Thưa Ông, là một nhà ngoại giao lâu
năm và học lắm hiểu nhiều, Ông hẳn
biết rằng có hai thứ chính trị:
chính trị đảng phái
và chính trị công dân.
Các tôn giáo, đặc biệt là Công giáo,
cụ thể là các lănh đạo tôn giáo, đặc
biệt là các lănh đạo Công giáo,
không được dính líu đến chính trị
đảng phái, nghĩa là không được thành
lập hoặc gia nhập một quân đội để
đấu tranh vũ trang cũng như không
được thành lập hoặc gia nhập một
đảng phái để đấu tranh nghị trường
với một nhà nước hay với các đảng
phái khác (các giáo dân Công giáo
th́ có thể làm việc này nhưng không
được nhân danh Giáo hội). Tuy nhiên,
các tôn giáo, các giáo hội đều có
quyền và có nghĩa vụ làm chính trị
công dân xét theo tư cách cá nhân
các lănh đạo tôn giáo hoặc theo tư
cách tập thể các Giáo hội.
Quyền và nghĩa vụ này c̣n mang tính
đ̣i hỏi hơn đối với tôn giáo, bởi lẽ
tôn giáo -ngoài chức năng giới
thiệu, dẫn đường đến Đấng
Chân Thiện Mỹ Tuyệt Đối-
c̣n có chức năng giới thiệu, dẫn
đường đến tính chân thiện mỹ
trong mọi hành vi của con người, từ
cá nhân đến tập thể, nhất là các
hành vi thuộc hoạt động chính trị.
Nói cách khác, các tôn giáo có quyền
và nghĩa vụ làm lương tâm luân lư,
làm thầy dạy đạo đức, làm ngôn sứ sự
thật, làm chiến sĩ lẽ phải cho toàn
xă hội. Cụ thể ra, các tôn giáo có
quyền và nghĩa vụ phát ngôn (tuyên
bố, kiến nghị, kháng thư) lẫn hành
động (tụ tập cầu nguyện, biểu t́nh
phản đối) khi có bất công trong xă
hội, có áp bức từ phía chính quyền,
có sai lầm từ các chính sách, có
triệt tiêu hay giới tự do từ chế độ
cai trị, có nguy cơ do nội xâm và
ngoại xâm…
“Giáo hội tại Việt Nam phải
ở ngoài phạm vi chính trị”,
câu nói này của Ông Đại sứ thật là
đúng ư Cộng sản. Bởi lẽ Cộng sản
trước kia gọi tôn giáo là thuốc
phiện mê dân, nhưng nay muốn tôn
giáo thật là thuốc phiện ru ngủ quần
chúng, muốn các tôn giáo, cụ thể là
các lănh đạo tôn giáo, im lặng trước
những sai lầm và tội ác của chính
đảng và chính phủ CS, trước chủ
trương phá thai để điều ḥa dân số,
chủ trương bán rẻ sức lao động của
công nhân, chủ trương xuất khẩu lao
nô và t́nh nô ra nước ngoài, chủ
trương cướp đất nông dân, cướp nhà
thị dân, cướp tài sản giáo dân dưới
chiêu bài quy hoạch phát triển, chủ
trương đàn áp những ai lên tiếng đ̣i
hỏi các nhân quyền dưới chiêu bài
“ổn định chính trị”, chủ trương giáo
dục kiểu ngu dân, nhồi sọ, diệt ư
chí, chủ trương nhượng biên giới,
hải đảo, đất liền (Tây Nguyên chẳng
hạn) cho ngoại bang để bảo vệ ngai
vàng quyền lực.
3- Ông nói: “Liên hệ chính
trị thường phải đương đầu với hàng
loạt thứ luật lệ không liên quan
luật về tự do tôn giáo, khiến đương
sự gặp nhiều rắc rối. Như trường hợp
Lm Nguyễn Văn Lư, v́ vượt qua ranh
giới này nên tiếp tục bị cầm tù”.
Thưa Ông, đây là luận điệu mà nhiều
chính khách Hoa Kỳ thuộc hành pháp
vẫn dùng để kết án không những Linh
mục Nguyễn Văn Lư mà cả Ḥa thượng
Thích Quảng Độ cùng các lănh đạo
tinh thần đă và đang đứng lên đương
đầu với chế độ CSVN. Tự do
tôn giáo và tự do dân sự là hai mặt
của cùng một thực thể: nhân quyền.
Các chức sắc tôn giáo vừa là thành
viên của Giáo hội, vừa là công dân
của Đất nước, vừa là anh em của mọi
người. Các tôn giáo, theo bản chất,
vừa phải bảo vệ những giá trị siêu
linh vừa phải bảo vệ những giá trị
nhân bản, v́ hiện diện giữa cộng
đồng con người và cộng đồng dân tộc.
Linh mục Nguyễn Văn Lư (và nhóm Linh
mục Nguyễn Kim Điền chúng tôi) khi
lên tiếng chống độc tài đảng trị,
chống đảng cử dân bầu… Ḥa thượng
Thích Quảng Độ (và Lưỡng viện Tăng
thống, Hóa đạo của ngài) khi lên
tiếng chống các hiệp định lănh thổ
và lănh hải bất công, chống việc
khai thác bauxite tại Tây Nguyên…
tất cả đều chỉ hành động theo lương
tâm và bổn phận của một tín đồ, một
nhà tu hành, một chức sắc tôn giáo,
đều chỉ bày tỏ thái độ chính trị (mà
chúng tôi được quyền có) và thực thi
chính trị công dân (mà chúng tôi
được quyền làm). Ḥa thượng Quảng Độ
và Linh mục Lư chỉ gọi là “vượt qua
ranh giới” khi các ngài có mưu tính
nhảy vào chính trường (như nhiều vị
tu hành đang là đại biểu Quốc hội
hoặc Hội đồng nhân dân các cấp) hay
nhắm một chức vụ nào đó trong chính
quyền tương lai (một điều mà các
ngài và chúng tôi chẳng bao giờ màng
đến). Nhà cầm quyền CS đàn áp Linh
mục Lư (cầm tù) và Ḥa thượng Quảng
Độ (quản chế) chính là đàn áp tôn
giáo thực sự. Cho nên câu Ông nói: “Có
một sự khác biệt rơ rệt giữa những
người (theo tôn giáo)
bị bắt v́ bày tỏ quan điểm
chính trị và những người đi lễ nhà
thờ vào Chủ Nhật (mà bị đàn
áp)”, câu nói ấy, theo chúng tôi,
bao hàm một sự phân biệt giả tạo.
4- Ông nhận xét: “Nói chung
người dân VN hiện có cơ hội bày tỏ
Đức tin của ḿnh nhiều hơn trước
đây” và nhận định: “Ngay trong lúc
nầy, tôi không tin là có đủ bằng
chứng để đưa VN trở lại danh sách
CPC, tức những nước cần quan tâm đặc
biệt về đàn áp tôn giáo”.
Những nhận xét và nhận định này của
Ông đă gặp phải phản ứng thế nào của
cộng đồng người Việt tại quận Cam,
Nam California ngày 05 và 06-06-2009
(x. RFA 08-06-2009) và của mục sư
Thân Văn Trường từ Việt Nam ngày
12-06-2009 th́ Ông đă rơ. Nay chúng
tôi chỉ xin thêm vài ư kiến.
Hẳn Ông Đại sứ muốn nói người dân
Việt Nam nay có cơ hội bày tỏ Đức
tin ḿnh hơn trước qua việc các tín
đồ đến những nơi thờ tự đông đảo,
các chức sắc ra ngoại quốc nườm
nượp, các lễ hội tôn giáo được tổ
chức linh đ́nh, các Giáo hội được
xây chùa chiền, thánh thất, nhà thờ
nguy nga !?! Là một nhà ngoại giao
chuyên nghiệp, một trí thức uyên
thâm, hẳn Ông biết rằng đó chỉ là
những thứ tự do tôn giáo rất ngoại
diện, rất phụ tùy. Ngoài ra, không
phải mọi tín đồ, mọi chức sắc, mọi
tôn giáo đều được hưởng những thứ tự
do ngoại diện đó (bị tước những thứ
này là các Giáo hội truyền thống,
thuần túy, phi quốc doanh, các chức
sắc và tín đồ đấu tranh, đối kháng,
“phản động”).
Việc bày tỏ Đức tin cách đích thực,
tự do tôn giáo đúng nghĩa nằm ở chỗ
các tôn giáo và các tổ chức tôn giáo
(1) phải được nhà nước thừa nhận quy
chế (sau khi đăng kư, theo nghĩa
tŕnh báo), công nhận như những pháp
nhân thực thụ; (2) phải được độc lập
trong việc huấn luyện, tấn phong, bổ
nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc
của ḿnh, phải được tham gia vào các
cơ quan xă hội, bộ máy nhà nước qua
những tín đồ, giáo dân của ḿnh; (3)
phải được tự do trong các hoạt động,
từ hoạt động thờ phượng đến hoạt
động truyền giáo, hoạt động xă hội,
hoạt động giáo dục; phải được sở hữu
các phương tiện truyền thông, các cơ
sở giáo dục mọi cấp; (4) phải được
trả lại mọi cơ sở, đất đai đă bị nhà
cầm quyền tịch thu từ 1954 hay từ
1975, phải được quyền sở hữu đất đai
và mọi thứ tài sản khác (do thủ đắc,
do dâng tặng); (5) phải được tự do
liên lạc với các tổ chức, cơ quan
đồng đạo ở nước ngoài mà không bị
nhà cầm quyền can thiệp, lũng đoạn.
Tất cả 5 quyền tự do tôn giáo cơ bản
này chưa hề có tại Việt Nam.
Thành ra, Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc
tế, nhiều chính khách thuộc Lập pháp
của Hoa Kỳ (và cả những lănh đạo
tinh thần đấu tranh tại Việt Nam) đă
rất đúng đắn khi yêu cầu chính phủ
Mỹ đặt Việt Nam vào lại CPC với
những chế tài đích đáng.
5- Ngoài ra, trong cuộc gặp
gỡ cộng đồng người Việt tại quận
Cam, Nam California ngày 05 và
06-06-2009, Ông Đại sứ đă hân hoan
cho biết dù chỉ mới phục vụ được một
nửa nhiệm kỳ tại Việt Nam, nhưng ông
đă đạt được chỉ tiêu về việc nâng
cao con số du học sinh từ Việt Nam
vào nước Mỹ lên đến hơn 12 ngàn sinh
viên. Rồi trả lời câu hỏi là việc
gia tăng số du học sinh sẽ cải thiện
t́nh h́nh nhân quyền tại Việt Nam
như thế nào, Ông phát biểu: “Giáo
dục sẽ giúp phần cải thiện nhân
quyền đơn giản là v́ khi người ta
càng hiểu biết nhiều về thế giới
xung quanh, th́ họ lại càng có những
chọn lựa khôn ngoan hơn, và tôi tin
rằng họ sẽ tất nhiên có những quyết
định có lợi ích cho việc cải thiện
nhân quyền.”
Ở đây, chúng tôi không cần nhắc lại
phản ứng của Dân biểu Dana
Rohrabacher vốn đă bác bỏ lư luận lạ
lùng của Ông. Chúng tôi chỉ xin nhận
xét rằng vấn đề hỗ trợ giáo dục tại
Việt Nam có hai khía cạnh:
a - Nếu là việc tăng số du học sinh
sang Hoa Kỳ (như ông đang làm), th́
chúng tôi xin thưa rằng việc này
không tất nhiên giúp cải thiện nhân
quyền dân chủ. V́ như Ông Đại sứ
biết, số sinh viên du học từ Việt
Nam thường phân thành ba loại: loại
con cái đảng viên cán bộ CS, loại
con cái những nhà giàu mới nổi và
loại học sinh nghèo nhưng xuất sắc.
Loại con cái đảng viên cán bộ học
hành về để thay thế cha ông tiếp tục
thống trị dân Việt. Loại con cái nhà
giàu hoặc ở lại Hoa Kỳ sau khi tốt
nghiệp, hoặc trở về th́ e rằng cũng
chỉ lo kiếm tiền, tiến thân hơn là
cải thiện nhân quyền, phục vụ xă
hội. Loại con cái nhà nghèo thành
tài trở về cũng sẽ chỉ giữ được
những chức vụ nhỏ trong guồng máy xă
hội (trừ khi gia nhập đảng CS),
thành ra chí hướng cải thiện nhân
quyền chẳng có cơ thành tựu. Xin Ông
Đại sứ cứ nh́n xem ông Nguyễn Thiện
Nhân, một người từng tốt nghiệp tiến
sĩ tại Hoa Kỳ và đang giữ chức bộ
trưởng Giáo dục và Đào tạo CSVN. Thế
mà ông ta đă đạt thành quả ǵ ngoài
việc “thúc đẩy nhanh chóng sự xuống
dốc đến mức đáng xấu hổ của nền giáo
dục Việt Nam, trong năm 2007” với
danh hiệu “Nhân vật tệ hại nhất năm
2007” do các trang blog quốc nội
b́nh bầu và gần đây nhất lại bị một
số trí thức trong nước gọi là “kẻ dở
khôn dở dại”!!!
b- Nếu là việc giúp thay đổi tận căn
nền giáo dục ngày càng sa sút của
Việt Nam th́ đó là điều Ông Đại sứ
xem ra chưa quan tâm, nhưng đây mới
là chuyện cốt yếu. Với kinh nghiệm
và kiến thức, Ông hẳn biết rằng nền
giáo dục tại các quốc gia CS, cụ thể
là Việt Nam, từ trước tới nay chú
trọng “hồng hơn chuyên”, dạy dỗ tính
gian dối và dung túng thói bạo hành,
đào tạo ra những tôi trung phục vụ
cho đảng hơn là những công dân tự do
cho đất nước, nhồi sọ cho học sinh
ngay từ thơ bé ḷng kính yêu Hồ Chí
Minh, tay gian hùng, kẻ đă đem đến
bao tai họa cho đất nước Việt Nam
(Nền giáo dục Hoa Kỳ có dạy học sinh
kính yêu đặc biệt một vị tổng thống
nào chăng, ngay cả tổng thống George
Washington, cha già dân tộc của Hoa
Kỳ?). Nền giáo dục đó cho tới nay
vẫn lâm cơn khủng hoảng triền miên
với một chương tŕnh nặng nề, từ
chương, thay đổi xoành xoạch, một bộ
sách giáo khoa độc quyền nhưng biên
soạn cẩu thả, đầy xuyên tạc và bán
giá đắt, một hàng ngũ giáo viên mà
vô số thiếu khả năng và thiếu tư
cách, một hệ thống trường ốc mà đa
phần xập xệ, ít tiện nghi, ít phương
tiện, một chính sách quản lư điều
hành loại trừ sự tham gia của các
tôn giáo đầy khả năng và thiện chí.
Nền giáo dục đó đang khiến cho hàng
triệu học sinh bỏ học v́ thâu học
phí và tăng học phí thường xuyên,
đang trói buộc sinh viên trong ṿng
kiềm tỏa của chế độ qua việc tăng
học phí ngất trời để rồi cho mượn
tiền trang trải. Nền giáo dục đó đă
từng hăm dọa các học sinh sinh viên
yêu nước chống Trung Quốc xâm lược,
đang loại trừ những thầy giáo như Vũ
Hùng v́ đấu tranh cho dân chủ, như
Đỗ Việt Khoa v́ phanh phui các tiêu
cực học đường, những cô giáo như
Nguyễn Thị Bích Hạnh v́ dám dạy cho
học sinh tinh thần độc lập.
Vốn đă hưởng một nền giáo dục rất
tiến bộ trong một quốc gia rất dân
chủ, Ông Đại sứ hẳn hiểu rằng nếu
không có một nền chính trị dân chủ
th́ nền giáo dục chẳng đem lại kết
quả ǵ. Có kiến thức rộng, có bằng
cấp cao, người ta cũng bị biến thành
nô lệ hay tự biến thành nô lệ, bị
biến thành kẻ hèn hay tự biến thành
kẻ hèn trong chế độ độc tài ấy mà
thôi. Thành ra, điều quan
trọng nhất mà Ông, đại diện cho một
chính phủ dân chủ hàng đầu, cần làm
là giúp dân chủ hóa nền giáo dục tại
Việt Nam, hay nói đúng hơn, rộng
hơn, sâu hơn, là giúp dân chủ hóa
nền chính trị tại Việt Nam trước đă.
Xin Thượng Đế ban phúc lành cho Ông
Đại sứ và cho Hoa Kỳ.
Đại diện Nhóm Linh mục
Nguyễn Kim Điền
- Linh mục Têphanô Chân Tín,
Ḍng Chúa Cứu Thế, Sài G̣n
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu
Giải, Tổng Giáo phận Huế
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn
Lư, Tổng Giáo phận Huế (đang ở tù)
- Linh mục Phêrô Phan Văn
Lợi, Giáo phận Bắc Ninh (đang bị
quản thúc)
--------------------Phụ
lục--------------------
Người Việt Cali thất vọng với
Đại sứ Michael Michalak
Hà Giang, thông tín viên RFA
08-06-2009
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael
Michalak, nhân dịp về thăm Hoa Kỳ,
đă có các cuộc gặp gỡ với Cộng đồng
người Mỹ gốc Việt, để cập nhật tin
tức về mối quan hệ giữa hai quốc
gia.
Chuyến viếng thăm Nam California lần
thứ ba của ông Michael Michalak, Đại
sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam cuối tuần qua
đă được đánh dấu bằng hai buổi họp
mặt với cộng đồng người Việt tại
quận Cam vào tối thứ Sáu và thứ Bẩy
ngày 5 và 6 tháng Sáu.
Nhận định của ngài Đại Sứ về tự do
tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam
đă tạo nên những tranh luận rất sôi
nổi ngay trong buổi họp và nhiều
phản ứng rơ nét của nhiều giới trong
cộng đồng sau đó. Hà Giang, thông
tín viên đài Á Châu Tự Do tại
California đă tham dự cả hai buổi
họp này và gửi về bài tường tŕnh
như sau:
Nhân quyền tại Việt Nam
Buổi thảo luận với chủ đề “Nhân
Quyền VN Ngày Nay” giữa Đại Sứ Hoa
Kỳ tại Việt Nam, ông Michael
Michalak và cộng đồng người Việt tại
quận Cam, Nam California vào tối thứ
Sáu vừa qua đă được đài SBTN trực
tiếp truyền h́nh.
Sự tham dự đông đảo của đại diện các
tôn giáo, hội đoàn, giới truyền
thông và nhiều nhân sĩ trong vùng,
đă nói lên sự quan tâm sâu xa của
người Việt hải ngoại về t́nh h́nh
nhân quyền tại Việt Nam. Hai dân
biểu liên bang là bà Lorretta
Sanchez và ông Dana Rohrabacher đă
mở đầu cuộc thảo luận bằng lời chia
xẻ quan ngại của họ về sự thiếu tự
do thông tin, và tự do tôn giáo tại
Việt Nam.
Lời chào mừng bằng tiếng Việt của
Đại Sứ Michael Michalak đă tạo cho
người tham dự những nụười thoải mái
hiếm hoi trong buổi thảo luận đă
nhanh chóng trở thành rất sôi nổi:
“Xin chào các bạn, tôi rất vui
tham gia sự kiện này, nhưng tôi học
tiếng Việt, nhưng tôi chưa có thể
nói chuyện tiếng Việt, v́ thế tôi
phát biểu tiếng Anh.”
Đại Sứ Michael Michalak tóm lược về
t́nh trạng nhân quyền, kết quả của
việc hợp tác kinh tế, và ông hân
hoan cho biết dù chỉ mới phục vụ
được một nửa nhiệm kỳ tại Việt Nam,
nhưng ông đă đạt được chỉ tiêu về
việc nâng cao con số du học sinh từ
Việt Nam vào nước Mỹ lên đến hơn 12
ngàn sinh viên.
Trả lời câu hỏi là việc gia tăng số
du học sinh sẽ cải thiện t́nh h́nh
nhân quyền tại Việt Nam như thế nào,
ông đại sứ phát biểu: “Giáo dục
sẽ giúp phần cải thiện nhân quyền
đơn giản là v́ khi người ta càng
hiểu biết nhiều về thế giới xung
quanh, th́ họ lại càng có những chọn
lựa khôn ngoan hơn, và tôi tin rằng
họ sẽ tất nhiên có những quyết định
có lợi ích cho việc cải thiện nhân
quyền.”
Dân biểu Dana Rohrabacher hoàn toàn
phản bác quan điểm này: “Tôi
không cho là việc đè nén nhân quyền
tại Việt Nam xẩy ra là v́ người dân
thiếu hiểu biết. Nguyên nhân của sự
chà đạp nhân quyền là v́ có một nhóm
người nhất quyết giữ lấy quyền cai
trị. Kể cả người cùng đinh nhất
trong xă hội cũng hiểu rất rơ rằng
họ bị đàn áp, rằng họ không có quyền
tự do ngôn luận. Các ông giáo sư đại
học hiểu rằng nếu họ không được tự
do chỉ trích nhà cầm quyền th́ sẽ bị
mất việc. Việc có hay không có nhân
quyền không dựa vào dân trí, mà là
do chính sách của nhà cầm quyền”.
Tự do Tôn giáo?
Nhiều câu hỏi của đồng bào nêu lên
về những ǵ mà họ cho là vi phạm tự
do tôn giáo tại Việt Nam, đă nhanh
chóng đưa buổi thảo luận trở về việc
đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC,
tức danh sách những quốc gia cần
phải được quan tâm đặc biệt v́ vi
phạm tự do tôn giáo.
Về điểm này, Đại Sứ cho biết:
“Quan điểm của tôi về tự do tôn giáo
hơi khác với những quan điểm đă được
quư vị phát biểu ở đây ngày hôm nay.
Quư vị đă biết là Bộ Ngoại Giao cho
rằng hiện giờ không có đủ bằng chứng
để chúng tôi đưa Việt Nam trở lại
danh sách CPC.” Lời tuyên bố
này đă khiến nhiều người trong cử
tọa ồ lên v́ không giấu được sự thất
vọng và không đồng ư.
Trong buổi thảo luận chiều hôm sau,
dân biểu liên bang Ed Royce đă đơn
cử trường hợp của Mục Sư Nguyễn Công
Chính, một bằng chứng cụ thể về việc
chà đạp tự do tôn giáo tại Việt Nam
đă xẩy ra từ nhiều năm nay.
Ông nói: “Nhiều người trong
chúng ta rất quen thuộc với t́nh
trạng của Mục Sư Nguyễn Công Chính,
người đă bị công an địa phương đánh
đập rất tàn nhẫn chỉ v́ những sinh
hoạt tôn giáo và nhân quyền của ông.
Tấm h́nh của ông mặt bê bết máu đă
nói với chúng ta rất nhiều. Tôi đă
đưa tấm h́nh này cho về các đồng
nghiệp của tôi xem. Đó là t́nh trạng
tự do tôn giáo tại Việt Nam hôm
nay.”
Đài Á Châu Tự Do đặt câu hỏi về các
tiêu chuẩn được dùng để đưa một quốc
gia vào danh sách CPC, và làm thế
nào để đo lường sự cải thiện tự do
tôn giáo? Đại Sứ Michael Michalak
trả lời: “Muốn đặt một quốc gia
vào danh sách CPC đ̣i hỏi nhiều điều
kiện. Tôi không thấy chúng ta có ích
lợi ǵ trong việc đưa Việt Nam trở
lại danh sách này.”
Thất vọng...
Sau buổi thảo luận, kư giả Kiều Mỹ
Duyên, phát biểu: “Chúng tôi trả
lời với tính cách là một người trong
cộng đồng Việt Nam quan tâm đến nhân
quyền ở Việt Nam. Chúng tôi là công
dân của Hoa Kỳ, chúng tôi đều bỏ
phiếu, chúng tôi cũng có thể đề nghị
với chính phủ Hoa Kỳ là đưa ông Đại
Sứ này trở về Hoa Kỳ”.
Những câu hỏi của những kư giả như
là Đinh Quang Anh Thái, Hà Giang,
Phong Lê Vũ, có những câu ông tránh
né không có trả lời. Những câu tránh
né trả lời của ông Đại Sứ Hoa Kỳ,
cũng như những lời mà ông có vẻ bênh
vực cho Việt Nam làm chúng tôi phẫn
nộ. Và câu mà ông nói như thế này,
“Các anh có thể viết thơ cho ông
Tổng Thống Obama để “take me out”,
đem tôi ra khỏi Việt Nam”.
Nói chung, dư luận cảm thấy thất
vọng với thông điệp của Đại Sứ Hoa
Kỳ tại Việt Nam trong chuyến viếng
thăm Nam California của ông lần này.
(Hà Giang, thông tín viên RFA)
Thư gửi Ngài Đại Sứ Hợp Chủng
Quốc Hoa Kỳ Tại Hà Nội
Ms Thân Văn Trường 12-06-2009
Kính gửi:
Ngài Đại sứ Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ tại Hà Nội Michael Michalak
Về vấn đề tự do tôn giáo ở
Việt Nam
Thưa ngài Đại sứ, tôi hân hạnh viết
thư cho cho ngài Đại sứ Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ, một quốc gia có 44 đời
Tổng Thống đặt tay trên Kinh Thánh
để tuyên thệ nhậm chức; một quốc gia
có phương châm, nhưng trước hết,
IN GOD WE TRUST.
Vậy nên, Hoa kỳ trở nên một quốc gia
văn minh hàng đầu thế giới, nhờ tự
do tôn giáo.
Tôi hân hạnh được tới thăm tư gia
của ngài ở số 18 Tôn Đản, Hà Nội, để
có dịp tiện biếu ngài cuốn Kinh
Thánh quí báu vô ngần, bản tiếng
Việt. Tôi cho rằng Quyển Sách ấy đem
hai dân tộc Việt, Mỹ xích lại gần
nhau hơn, bằng chứng là hai bản
Tuyên ngôn 1776 và 1945 bất hủ.
Thưa ngài đại sứ! Tôi thật sự thất
vọng khi theo dơi
phát biểu của ngài tại Cali hôm 6/6,
về tự do tôn giáo tại Việt Nam, qua
đài RFA. Dường như ngài thấy buồn
nản v́ nhiệm kỳ công tác quá dài ở
Việt Nam, một quốc gia bạo ngược và
ô nhiễm môi trường? Tôi thật sự kinh
ngạc khi ngài đại sứ thách thức
thính giả, rằng họ có thể đề nghị
Tổng thống Hoa Kỳ cho ngài “take me
out” Việt Nam.
Tôi thành thật lấy làm tiếc về những
lời phát biểu tiêu cực của ngài. Nếu
thực sự sống ở Việt Nam quá khó khăn
cho ngài, tôi nghĩ ngài có thể dùng
cách khác để ra khỏi Việt Nam th́
hơn.
Ngài cho rằng “Bộ ngoại giao Mỹ
không đủ bằng chứng để đưa Việt Nam
trở lại danh sách CPC” là thiếu thực
tế. Tôi tin rằng là một người Mỹ
chân chính, ngài thừa hiểu rằng Việt
Nam chúng tôi chỉ có tự do tôn giáo,
một khi điều 4 Hiến pháp hiện hành
được phế bỏ. Mọi cuộc đàn áp tôn
giáo ở Việt Nam chúng tôi, đều bắt
nguồn từ đều 4 hiến pháp cộng sản.
Tôi tin rằng là người Mỹ, ngài biết
điều đó.
Tôi cho rằng không phải thiếu bằng
chứng để đưa Việt Nam trở lại danh
sách CPC, nhưng chính là ngài đại sứ
đă thiếu trách nhiệm hoặc một điều
ǵ đó tệ hơn thế. Nhân dịp này, xin
cho tôi nhắc lại một số trường hợp
đàn áp tôn giáo cụ thể mà chính tôi
đă bày tỏ cho các viên chức của
ngài, cũng như chính ḿnh ngài.
1/ Trường hợp chấp sự Hội thánh Đấng
Christ của người Khờ me tại Trà
Vinh, Thạch Thanh Nô bị công an đánh
chết sau buổi nhóm cầu nguyện Chúa
nhật ngày 5/4/2009. Dưới áp bức của
công an, gia đ́nh và Hội Thánh đă
buộc phải hỏa táng chấp sự Thạch
Thanh Nô sau ba giờ bị đánh chết. Bộ
công an phủ nhận Thạch Thanh Nô là
Cơ đốc nhân va cho rằng Nô tự ngă xe
máy và chết. Nhưng Hội Thánh có đầy
đủ h́nh ảnh lễ báp tem và chứng cớ
công an khủng bố chấp sự Thạch Thanh
Nô v́ niềm tin tôn giáo, 69 người
khác gồm mục sư, truyền đạo và tín
hữu Hội thánh Đấng Christ của người
Khờ me bị hành hung, chỉ v́ thờ
phượng Chúa.
2/ Mục sư Nguyễn Công Chính và gia
đ́nh ông bị đánh đập thường xuyên
suốt nhiều năm qua, chỉ v́ ông cứ
hầu việc Chúa giữa ṿng các dân tộc
Việt Nam. Bản thân mục sư Chính bị
đánh dập mắt, vợ bị đánh chảy máu,
con bị tông xe nứt sọ… rồi không cấp
chứng minh thư, hộ khẩu, không khai
sinh cho con để được đi học. Hiện
bay giờ công an bao vây nhà mục sư
Chính, đi ra chợ cũng không cho đi,
cũng không cho tín đồ tới nhà, nghĩa
là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Vừa
qua, Bộ công an bắt Ms Chính 12 ngày
(từ 14/5 đến 26/5) không có lệnh
bắt, cũng không có lệnh tha.
3/ Mục sư nhiệm chức Hmrek (c̣n gọi
là Y Brek, Siu Ybrek), quản nhiệm
Hội thánh Đấng Christ tại xă Ia
khươl, huyện Chư pẳl, tỉnh Gia Lai.
Ông bị liệt và câm, trở về từ xà lim
Ba Sao, Nam Hà sau nhiều năm tù,
nhưng không có giấy ra trại. Xe cứu
thương của trại tù đưa về trong t́nh
trạng gần chết, hiện chúng tôi đưa
đến điều trị tại Pḥng Chẩn trị Y
học cổ truyền Thiên An, 70/5, kp 9,
P.Tân Biên, TP Biên Ḥa, tỉnh Đồng
Nai.
4/ Giáo sĩ Lê Duy Bắc
bị công an đánh gẫy tay giữa thủ đô
Hà Nội, bây giờ khối kim loại bó
tạm cánh tay của công an c̣n nằm
trong tay giáo sĩ. Thầy Bắc từng bị
công an đánh trước nhà khách chính
phủ Việt Nam, bên hồ Gươm cách nhà
riêng của ngài, chắc không quá 1 km.
Giáo sĩ Lê Duy Bắc bị công an Hà Nội
đánh nhiều lần,
chính tay tôi đă viết thư cho ngài,
cả thế giới này biết, tôi không nghĩ
là ngài quên.
5/ Trường hợp cá nhân tôi (mục sư
Thân Văn Trường) bị ngược đăi rất
nhiều. Tôi đă bày tỏ trực tiếp với
ngài. Tôi vẫn c̣n nhớ lời ngài hứa
với tôi hôm 23/10/2007, rằng ngài
quan tâm và can thiệp giùm tôi. Từ
đó cho đến bây giờ tôi không được
cấp hộ chiếu, dù đă thu tiền, đă xét
duyệt bởi công an. Tôi bị chính
quyền cướp đất nhà, dù đă trả tiền
đầy đủ, chỉ v́ niềm tin tôn giáo mà
không được cấp giấy chủ quyền đất
như những công dân khác. Công an vẫn
thường xuyên bắt bớ tôi mà không có
lệnh bắt. Nhà nước vẫn không bồi
thường cho tôi theo luật, do đi tù
hai lần oan sai v. v…
Đối với Công giáo, Phật giáo… cũng
bị đàn áp nặng nề. Nếu cứ từng việc
đàn áp tôn giáo mà liệt kê ra, tôi
tưởng không có đủ giấy mực để viết.
Ngài cũng phát biểu cách kỳ cục rằng
“tôi không thấy chúng ta (Mỹ) được
lợi ǵ trong việc đưa Việt Nam trở
lại danh sách này”. Phải chăng v́
quyền lợi dơ bẩn của nước Mỹ, mà
ngài quên việc đàn áp tôn giáo?
Dường như nước Mỹ ngày nay đang đi
xuống, v́ cớ tội lỗi của nước Mỹ, v́
cớ thiếu hụt ḷng tin kính thưở ban
đầu lập quốc. Cách đây 10 năm, 100
USD ở Việt Nam ăn hai chỉ vàng, bây
giờ không được một. Nhưng điều đáng
mừng, hàng chữ IN GOD WE TRUST vẫn
c̣n nguyên đó.
Nếu nước Mỹ biết ăn năn và ĺa khỏi
điều ác, tôi tin tưởng rằng Đức Chúa
Trời tiếp tục ban phước cho nước Mỹ
thịnh vượng và văn minh, để dẫn dắt
thế giới này tiến lên phía trước.
Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho
ngài, như Chúa đă ban phước cho chức
vụ của Thánh Paul, trong nhiệm kỳ
khâm sai của Đấng Christ trên trần
gian này. Xin ngài đừng buồn chán và
sợ hăi, nhưng hăy can đảm bước đi
cách hẳn hoi, như giữa ban ngày.
TÔN VINH ĐỨC CHÚA TRỜI, AMEN!
Kính thư
Mục sư Thân Văn Trường
Địa chỉ: Ấp Dưỡng Đường, xă Suối
Tre, Long Khánh, Đồng Nai
Đt: 0907872617
Đại sứ Michael Michalak gặp các tổ chức Việt Nam hải ngoại ở Washington
Thanh Quang, phóng viên đài RFA
Thứ Bảy vừa rồi (13-06-2009), Đại sứ
Mỹ tại VN, ông Michael Michalak,
nhân chuyến sang thăm vùng Thủ đô
Washington, Hoa Kỳ, đă gặp giới lănh
đạo tôn giáo, cộng đồng VN, Liên hội
Cựu Chiến sĩ VNCH cùng đại diện các
tổ chức văn hóa, xă hội, chính trị
và giới truyền thông.
Ba mục tiêu chính của ông
Đại sứ Mỹ tại VN
Cuộc gặp gỡ đă diễn ra tại tư gia BS
Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch Hội đồng
Quản trị của Tổ chức Quốc tế Yểm trợ
Cao trào Nhân bản VN, khi Đại sứ
Michael Michalak được đại diện cộng
đồng VN và giới truyền thông hỏi về
nhiều vấn đề liên quan các lănh vực
gây chú ư hiện giờ tại VN, như nhân
quyền, tôn giáo, dự án khai thác
bauxite Tây Nguyên, mối quan hệ ngày
càng căng thẳng giữa VN và TQ…
Mở đầu cuộc nói chuyện, Đại sứ
Michalak cho biết: Rằng ông hiện ra
sức xúc tiến trọng trách như ông đă
hứa cách nay 2 năm tại tư gia BS
Nguyễn Quốc Quân, đó là, thứ nhất,
tiếp tục làm việc với chính phủ VN
về vấn đề nhân quyền; thứ nh́, ra
sức củng cố mối quan hệ hỗ tương
Mỹ-Việt; thứ 3 là bắt đầu thiết lập
một chương tŕnh giáo dục tiên tiến
giữa Hoa Kỳ và VN. Và ông tin rằng
ông đă đạt được tiến bộ trong tất cả
3 mục tiêu đó.
Nói chung, về lănh vực nhân quyền,
tôn giáo, Đại sứ Michalak cho hay:
Đại ư ông nói rằng phía Hoa Kỳ tiếp
tục kế họach đối thọai về nhân quyền
với VN, nêu lên tất cả những vấn đề
quan trọng như tự do báo chí, lập
hội… trong khi hợp tác chặt chẽ với
các sứ quán khác tại VN để giúp xúc
tiến vấn đề này.
Ông Michalak nói thêm rằng mới đây
ông nhận được cam kết từ phía chính
phủ VN là sẵn sàng hợp tác với Toà
Đại sứ Mỹ về trợ giúp kỹ thuật liên
quan luật bảo vệ người tố cáo tham
nhũng, mà ông hy vọng sẽ giúp mở
rộng được tự do báo chí tại VN.
Đại sứ Mỹ nói thêm rằng một trong
những chủ đề mà phía Hoa Kỳ chú
trọng là không những đối thọai với
VN về nhân quyền – và cả tệ nạn tham
nhũng, mà c̣n hội họp với những nước
viện trợ quan trọng cho VN về vấn đề
này.
Ông Michalak nhân tiện nhắc lại thỏa
thuận giữa VN và Nhật Bản, nước viện
trợ vốn ODA hàng đầu cho VN, qua đó
VN hứa không để tái diễn vấn đề tham
nhũng như vụ ông Hùynh Ngọc Sĩ, viên
chức giao thông cao cấp.
Minh bạch rơ ràng giữa tôn
giáo và chính trị
Theo đại sứ Mỹ, th́ cần phải minh
định rơ rằng đạo luật tự do tôn giáo
chỉ đề cập tới vấn đề tự do tôn
giáo; nó không nhất thiết liên quan
đến nhân quyền. Ông Michalak lưu ư
rằng có một sự khác biệt rơ rệt giữa
những người bị bắt v́ bày tỏ quan
điểm chính trị và những người đi lễ
nhà thờ vào Chủ Nhật.
Ông nhắc lại là mỗi năm Bộ Ngọai
giao Hoa Kỳ có cuộc duyệt xét và
công bố bản phúc tŕnh về tự do tôn
giáo, cứu xét các nước trên thế giới
xem có đáp ứng những điều kiện quy
định trong Đạo luật về Tự do Tôn
giáo hay không để từ đó đưa hay
không đưa những nước ấy vào danh
sách quốc gia cần quan tâm đặc biệt
về tự do tôn giáo.
Đại sứ Michalak nhận xét rằng ngay
trong lúc nầy, ông không tin là có
đủ bằng chứng để đưa VN trở lại danh
sách CPC, tức những nước cần quan
tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo.
Nhưng, vẫn theo Đại sứ Mỹ, th́ phía
Hoa Kỳ tiếp tục duyệt xét hàng năm,
để, nếu có đủ bằng chứng, hẳn sẽ đưa
VN trở lại danh sách này.
Cũng liên quan tôn giáo, ông Michael
Michalak nghĩ rằng hiện giờ Giáo hội
Công giáo không dính líu đến chính
trị. Ông nghĩ là Giáo hội tại VN
phải ở ngoài phạm vi chính trị.
Và việc liên hệ chính trị thường
phải đương đầu với hàng loạt thứ
luật lệ không liên quan luật về tự
do tôn giáo, khiến đương sự gặp
nhiều rắc rối. Như trường hợp LM
Nguyễn Văn Lư, theo ông, v́ vượt qua
ranh giới này khiến Cha Lư tiếp tục
bị cầm tù và thế giới tiếp tục kêu
gọi VN phóng thích LM Lư.
Đại sứ Mỹ, nhân trả lời một câu hỏi
liên hệ cho biết thêm rằng ông không
tin là có sự liên quan trực tiếp
giữa Giáo hội Thiên chúa tại VN với
Giáo hội Thiên chúa ở Ba Lan.
Vẫn liên quan vấn đề tôn giáo, ông
Michalak cho hay rằng chính ông chưa
có cơ hội gặp các chức sắc của đạo
Cao Đài, nhưng nhân viên của ông đă
gặp họ, đặc biệt là tại Tây Ninh.
Theo ông th́ phía Toà Đại sứ Mỹ
không những tiếp xúc với Cao Đài, mà
c̣n với Hoà Hảo cùng những giáo hội
khác như Công giáo, Tin Lành.
Ông Michalak nhận xét rằng nói chung
người dân VN hiện có cơ hội bày tỏ
Đức Tin của ḿnh nhiều hơn trước
đây. Và phía Hoa Kỳ tiếp tục theo
dơi sát diễn tiến này.
Quan hệ giữa VN và TQ
Về mối quan hệ giữa VN và TQ, đại sứ
Mỹ nhận định là ông không nghĩ rằng
TQ có thể tấn công VN vào bất cứ lúc
nào. Mặc dù nh́n nhận rằng hiện mối
quan hệ Việt-Trung rất phức tạp,
nhưng theo ông, nói chung mối quan
hệ này vẫn c̣n tốt đẹp, dù không
nồng thắm nhưng cũng không phải là
lạnh nhạt nhất thế giới.
Đại sứ Michael Michalak nhận thấy VN
và TQ có chung một biên địa khá dài,
khiến việc phân định biên giới khó
khăn. Ông lưu ư rằng đại sứ VN tại
Hoa Kỳ, ông Lê Công Phụng, từng thảo
luận và đạt thỏa thuận với Bắc Kinh
về vấn đề biên giới Việt-Trung trên
bộ, nên ông Michalak đề nghị cử tọa,
nếu có hỏi, hăy t́m ông Lê Công
Phụng hỏi về vấn đề này th́ thích
hợp hơn.
Về vấn đề Biển Đông, Đại sứ Mỹ nhận
xét: Ông nghĩ rằng Hoa Kỳ không bày
tỏ lập trường nào cả về việc tranh
chấp lănh hải tại vùng này. Nhưng
theo ông, phía Hoa Kỳ tin tưởng ở
quyền tự do hàng hải cùng việc mở
cửa thủy lộ. Và Hoa Kỳ sẽ thực thi
quyền này bằng cách đưa tàu tới
những thủy lộ đó. Và Hoa Kỳ sẽ có
thêm biện pháp để bảo đảm và xúc
tiến quyền tự do về hàng hải.
Liên quan vấn đề bauxite Tây Nguyên,
Đại sứ Mỹ Michael Michalak nói: Ông
nghĩ đây cũng là vấn đề phức tạp.
Ông hy vọng, sau khi trở lại VN, ông
sẽ sớm t́m cách tới Tây Nguyên để
chính ḿnh chứng kiến t́nh h́nh ở
đó. Đại sứ Michalak hiểu rằng người
dân VN – trong và ngoài nước – đều
âu lo về dự án khai thác bauxite Tây
Nguyên, nhất là chuyện TQ có dính
líu trong kế họach này.
Đại sứ Michalak nghĩ điều hay nhất
là chính phủ VN phải rất minh bạch
về toàn bộ vấn đề, cho người dân
biết có bao nhiêu công nhân TQ ở đó,
những người TQ này làm việc có giấy
tờ hợp lệ không, họ phải bảo đảm là
sẽ trở về nước khi hoàn tất công
việc. Tóm lại, theo Đại sứ Mỹ th́
nhà cầm quyền VN phải minh bạch,
chân thật về những ǵ đang diễn ra.
Giáo dục là ch́a khóa mở tất
cả các cửa
Một lănh vực mà Đại sứ Michael
Mikhalak cũng đặc biệt chú trọng là
sự hợp tác giáo dục với VN. Đại ư
nói rằng đây là vấn đề mà ông ưa
thích nhất, v́ nó tác động tới nhiều
lănh vực, từ chính trị, kinh tế đến
xă hội…
Theo ông giáo dục hẳn là ch́a khóa
mở tất cả các cửa. Điều quan trọng
là Hoa Kỳ sẵn sàng nỗ lực tối đa để
giúp cải thiện hệ thống giáo dục của
VN. Và đây là một trong những mục
tiêu quan trọng của cơ quan giáo dục
đặc nhiệm Việt-Mỹ.
Ông nhắc lại rằng ông đă hứa là
trong ṿng 3 năm đầu làm Đại sứ ở
VN, ông sẽ ra sức tăng gấp đôi số
sinh viên VN du học tại Mỹ. Và theo
ông, th́ hiện ông đă đạt được mục
tiêu này.
Sau cùng, khi được hỏi sau 2 năm làm
việc ở VN, vấn đề nào làm ông nhức
đầu nhiều nhất. Đại sứ Michael
Michalak cười lớn, và đáp rằng mọi
vấn đề mà ông phải ứng phó đôi khi
làm ông nhức đầu. Ông giải thích
rằng người ta không mang đến cho ông
những chuyện dễ dàng đâu. Những
chuyện dễ có người khác giải quyết.
C̣n những vấn đề khó có ai giải
quyết được th́ họ giao cho ông.
Ông Michalak cho rằng nhân quyền là
vấn đề mà ông và phía VN ít đạt được
tiến bộ nhất. Rồi giáo dục cũng là
vấn đề nhiều thách thức, nhưng, theo
ông, nó cũng đem lại nhiều thành quả
đáng kể.
Các vấn đề ông bận tâm có cả việc
phát triển kinh tế, phúc lợi xă hội
cho người dân Việt Nam. Nhưng, theo
đại sứ Mỹ Michael Michalak, nhân
quyền và giáo dục là 2 vấn đề làm
ông nhức đầu nhiều nhất.