Video Tài Liệu Audio Tài Liệu Nhạc Tin Tức & Thời Sự B́nh Luận

 

Giáo chỉ số 9 đă cứu nguy mạng mạch của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

(Trích THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 6.1.2010

 của Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Pháp)

 

Bấm Play để nghe bài đọc

 

Giáo chỉ số 9 đă cứu nguy mạng mạch của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, khiến chủ trương tiêu diệt Phật giáo của nhà cầm quyền Cộng sản thất bại

 

Thượng tọa Thích Viên Định

Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư kư Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Cùng bị chia đôi đất nước, sau đệ nhị thế chiến, nhưng Đảng Cộng sản Đông Đức đă bắt tay với Tây Đức để thống nhất đất nước trong hoà b́nh, không tốn một viên đạn, không mất một giọt máu. Ở Triều Tiên, tuy không thể bắt tay để thống nhất hai miền Nam Bắc như Cộng sản Đức, nhưng Đảng Cộng sản Triều Tiên, cũng đắn đo, thận trọng, không gây hấn với miền Nam theo chế độ dân chủ.

Cộng sản Việt Nam th́ khác hẳn. Không ôn hoà như Cộng sản Đức, cũng chẳng tương nhượng giống Cộng sản Triều Tiên. Với bản chất cực đoan, sùng tín lư tưởng Mác-Lê nin, ư thức hệ vô sản, Cộng sản Việt Nam đă phát động chiến tranh giữa hai miền Nam, Bắc. Sau 21 năm huynh đệ tương tàn, máu đổ, thịt rơi, cuối cùng, cộng sản Bắc Việt đă nhuộm đỏ miền Nam.

Tuy cuộc chiến chấm dứt, nhưng hậu quả chiến tranh làm cho đất nước tan hoang, ḷng người ly tán. Đảng cộng sản lại gây ra cảnh tù tội, đàn áp, khủng bố, vô sản, đói nghèo làm nhiều gia đ́nh tan nát, thù hận chất chồng, không biết đến bao giờ dân tộc mới sum hợp một nhà.

Để dễ dàng thực hiện các đường lối vô sản, ngoại lai, phi dân tộc, cộng sản đă theo phương châm của Lê-Nin : “Đảng phải thông qua tôn giáo để khống chế quần chúng”

“Năm 1951, Mặt Trận Liên Việt, tiền thân của Mặt Trận Tổ Quốc, mở cuộc họp. Tại cuộc họp này, ông Chủ tịch Mặt Trận tuyên bố : “Sinh hoạt Phật giáo phải theo mô thức Hội đoàn như các hội đoàn thanh niên, phụ nữ, lăo thành, từ mẫu, nông dân, v.v…”. Ḥa Thượng Huyền Quang liền lên tiếng phản đối : “Phật giáo chúng tôi là một tôn giáo qui tụ đủ mọi thành phần trí thức, nông dân, nam, phụ, lăo, ấu. Sinh hoạt theo hệ thống tôn giáo với mục đích hoằng dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh. Như vậy, th́ làm sao ông Chủ tịch lại phân hóa tôn giáo chúng tôi thành những hội đoàn nhỏ bé ?”

Cộng sản đă bỏ tù Hoà thượng Thích Huyền Quang 4 năm v́ ngài chống đối lại chính sách này.

 

I. Biến cố Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất năm 1981 :

Tuy luôn đồng hành cùng dân tộc, nhưng với tư tưởng độc lập, tự do, không phụ thuộc vào bất cứ tổ chức, đảng phái chính trị nào mà cố Hoà thượng Thích Huyền Quang kế thừa truyền thống lịch sử 2000 năm của Chư Tổ, lập thành tư tưởng dẫn đạo cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), nhằm phụng sự nhân loại và dân tộc.

Dự kiến những biến động có thể xảy ra cho đất nước làm ảnh hưởng đến uy tín Giáo hội, Viện Hoá Đạo đă ra “Thông Tư số 150” do Ḥa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng, kư ngày 25 .1. 1975 :

“…Để tránh mọi ngộ nhận có thể có đối với lập trường và đường hướng cố hữu của Giáo Hội, Viện Hóa Đạo kính yêu cầu quí vị hăy thận trọng, không nên tham gia bất cứ tổ chức nào ngoài tổ chức của Giáo Hội…”

Và nhất là “Thông Tư số 002” cũng do Hoà thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, kư ngày 16. 3. 1976, nhằm ngăn ngừa việc chân trong chân ngoài, vừa làm thành viên GHPGVNTN, nhưng lại tham gia vào các tổ chức, Giáo hội khác, làm biến tướng lập trường chân chánh, có nguy cơ dẫn đến sự tồn vong của Giáo Hội :

“ … Những thành viên nào trong các Ban Đại Diện hiện hữu, từ Chánh Đại diện trở xuống, nếu đă chính thức gia nhập và hoạt động cho các Giáo phái hay đoàn thể ngoài Giáo Hội, dù đă có đơn từ chức hay không, th́ được coi như đă tự ư ra khỏi Giáo Hội. Trong trường hợp ấy, Ban Đại Diện có toàn quyền bầu lại hoặc bổ sung nhân sự mới…”

Nhưng trước sự khủng bố, đe doạ, tuyên truyền, dụ dỗ của cộng sản, trừ những vị đă vượt thoát ra nước ngoài, những vị c̣n lại, chỉ có hai con đường để lựa chọn : một là phải chịu cảnh tù tội, lưu đày như hai Ḥa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, giữ tṛn khí tiết “Sa môn bất bái vương giả” và giữ vững đường hướng, lập trường phục vụ nhân loại và dân tộc của GHPGVNTN ; hai là phải cúi đầu, nhắm mắt đưa chân, bước lên thuyền khác, làm công cụ, phục vụ cho đảng phái chính trị thế gian.

Buổi họp cuối cùng, giữa Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo với Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, vào tháng 9 năm 1981, đă thất bại sau lời phát biểu đầy bi tráng của Hoà thượng Thích Quảng Độ :

“Kính thưa toàn thể quí vị, chắc quí vị cũng như tôi đều thấy rơ hiện nay con thuyền Giáo-hội Phật giáo Việt-nam Thống nhất đang lênh đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ ch́m lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hăi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, th́ xin quí vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một điều là : trước khi bước sang thuyền khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi giạt trong sóng gió với những người c̣n ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bờ b́nh an th́ họ sống, c̣n nếu chẳng may con thuyền ch́m th́ họ cũng sẽ sẵn sàng chết theo nó, chứ quí vị ấy đừng đang tâm nhận ch́m con thuyền của ḿnh mà có lần đă từng đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quí vị có thế thôi…”

Như vậy, Viện Hoá Đạo đă không đề cử bất cứ đại biểu nào tham gia vào Giáo hội mới của nhà nước. GHPGVNTN vẫn đứng độc lập. Pháp lư GHPGVNTN vẫn tồn tại. Một số thành viên của GHPGVNTN tham gia vào Giáo hội mới chỉ với tư cách cá nhân. Phái đoàn tham dự vào Giáo hội mới, lấy danh nghĩa đại diện cho GHPGVNTN, là phái đoàn giả mạo, họ khắc riêng con dấu giả mạo để tiếm danh Giáo hội.

Đương nhiên, tuy không ai muốn, nhưng những vị yếu ḷng, đă bỏ thuyền cũ, bước sang thuyền mới, đă miễn cưỡng, t́m cách đưa ra những lư do, để biện minh cho hành động thay đổi lập trường của ḿnh, nào là : “nhu thắng cương, nhược thắng cường”, “gió chiều nào ngă theo chiều ấy”, “hy sinh danh dự cá nhân cho quư thầy làm việc”, v.v…

Trước cảnh tượng như vậy, Hoà thượng Đức Nhuận than rằng : “Đau xót biết bao, khi Phật giáo Việt nam từ con lạch nhỏ vùng thoát ra được biển khơi, th́ nay quí Ḥa-thượng lại tự bước vào nước vũng ao tù”. (trích thư của cố Ḥa thượng Thích Đức-Nhuận).

Đầu năm 1982, sau khi Nhị vị Hoà thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị lưu đày biệt xứ, Văn Pḥng Viện Hoá Đạo bị tê liệt, mọi Phật sự Giáo hội bị đ́nh trệ. Các Ban Đại Diện địa phương không người chỉ đạo, hầu hết đều bị áp lực kéo theo ngă rẽ khác.

Tuy vậy, Cộng sản cũng đă thất bại trong việc tổ chức những cuộc đấu tổ, hướng dẫn, mớm ư cho chư Tăng, tố cáo Nhị vị Ḥa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ. Họ quy kết hai vị phá hoại đoàn kết dân tộc, v́ không chịu gia nhập vào Gíao hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) của nhà nước. Chư Tăng, trên toàn quốc, đă khéo léo từ chối, không ai đồng ư việc tố cáo nhị vị Hoà thượng. V́ tuy bị áp buộc phải theo GHPGVN, do Nhà cầm quyền thành lập, nhưng trong thâm tâm tất cả chư Tăng đều phân biệt rơ nẻo chánh đường tà. Điều đó chứng tỏ rằng : “Chỉ có Giáo Hội quốc doanh, không có chư Tăng quốc doanh”. Cũng vậy, ngoài 3 triệu đảng viên Cộng sản, 85 triệu người dân Việt Nam, không ai theo cộng sản cả.

Sau một thời gian tham gia vào GHPGVN, do nhà cầm quyền cộng sản thành lập, một số thành viên lỡ bước, cũng thức tỉnh, đă mạnh dạn quay về với GHPGVNTN.

Năm 1981, cộng sản đă thực hiện việc phân tán nhân sự, làm tê liệt mọi sinh hoạt của GHPGVNTN, nhưng không huỷ hoại được pháp lư của GHPGVNTN. Cộng sản cũng đă triệt phá được các cơ sở của GHPGVNTN nhưng không thay đổi được lập trường tự do, độc lập, nhằm phụng sự cho nhân loại và dân tộc của GHPGVNTN.

Rút kinh nghiệm từ những sơ sót, sai lầm năm 1981, bắt đầu sang năm 2004, Cộng sản lại t́m cách đánh phá GHPGVNTN lần nữa, tinh vi hơn, kỹ lưỡng hơn, nhằm dứt điểm tận gốc GHPGVNTN.

 

II. Nghị Quyết 36 với những biến cố xảy ra cho GHPGVNTN từ năm 2004 đến 2008, nhằm biến tướng, tiêu diệt GHPGVNTN.

Tuy Phật sự GHPGVNTN tạm thời bị đ́nh trệ sau biến cố năm 1981, nhưng tinh thần, ư chí cũng như sinh hoạt ngầm vẫn tiếp tục. Nhất là sự hiện diện kiên cường của nhị vị lănh đạo tối cao, đầy trí dũng, là Hoà thượng Thích Huyền Quang và Ḥa thượng Thích Quảng Độ.

Năm 1992, đáp lời kêu gọi của Đại Lăo Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư kư kiêm Xử Lư Viện Tăng Thống GHPGVNTN và Di Chúc của Ngài, Hoà thượng Thích Huyền Quang, Quyền Viện trưởng Viện Hoá Đạo đă kư Quyết Định thành lập các Chi bộ GHPGVNTN tại Hải ngoại. Bắt đầu là GHPGVNTNHN tại Hoa kỳ - Văn Pḥng II Viện Hoá Đạo, ngày 10.12.1992. Trong Quyết Định này, ghi rơ :

Điều 2 : Nay công nhận GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa kỳ do Đại hội ngày 25-26-27 tháng 9 năm 1992 vừa công nhiên thành lập tại San Joes, California, Hoa Kỳ.

Điều 5 : Văn pḥng GHPGVNTN Hải ngoại Hoa kỳ cấp Liên bang được coi như Văn pḥng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN quốc nội.”

Tiếp đến là các Giáo Hội ở Âu châu, Canada, Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan cũng được tuần tự thành lập và tŕnh thư về trong nước xin được công nhận.

Ngày 02.4.2003, sau cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng Phan Văn Khải và vị tù nhân tôn giáo, Thích Huyền Quang, không ngờ lại làm tiền đề cho sự h́nh thành Đại Hội Bất thường tại Tu Viện Nguyên Thiều, ngày 01.10.2003. Đại hội này đă kiện toàn Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN trong và ngoài nước. Nhưng ngay sau Đại hội này, hầu hết Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo và Đức cố Tăng thống đều bị Nhà cầm quyền bắt bớ rồi ra lệnh quản thúc hai năm.

Nhà cầm quyền lại t́m cách ngăn chặn việc thành lập các Ban Đại Diện địa phương. Nhưng trước sự lănh đạo sáng suốt của nhị vị Hoà thượng, và chí hướng kiên cường của chư Tăng, Nhà cầm quyền cộng sản cũng thất bại. Hai mươi Ban Đại Diện GHPGVNTN các tỉnh, thành, quận, huyện trên toàn quốc cũng đồng loạt phục hoạt trở lại.

Vậy là GHPGVNTN lại tái phục hoạt trong thực tế như trước năm 1981.

Thế nhưng, Cộng sản không chịu dừng tay, lại t́m cách khác, tinh vi hơn, đánh phá GHPGVNTN mới phục hoạt này.

Nghị Quyết 36, năm 2004, được triển khai, thi hành, nội công, ngoại kích, tiếp tục đánh phá GHPGVNTN.

Rút kinh nghiệm những sai lầm năm 1981, không tiêu diệt được GHPGVNTN. Lần này, không những đánh phá về nhân sự, Nhà cầm quyền cộng sản c̣n đánh phá về mặt pháp lư và uy tín, nhằm biến tướng con đường Bát chánh của GHPGVNTN, để thích hợp sử dụng trong hoàn cảnh mới.

1- Mục tiêu đánh phá trước nhất nhắm vào Pḥng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris. Bịt được cái loa này, th́ việc thực hiện các việc khác dễ dàng hơn.

2- Từ năm 2004, những nguồn dư luận, ư kiến, bất lợi cho GHPGVNTN, không biết do các thành viên trong Giáo hội đưa ra, hay từ bên ngoài xâm nhập, đă lan truyền, luân lưu trong các thành viên GHPGVNTN trong cũng như ngoài nước. Ngay cả những thành viên lănh đạo cao cấp trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo cũng có vị tuyên truyền, cổ động những tư tưởng kỳ lạ này, chẳng hạn như :

- “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước đă hoạt động trở lại, không cần Pḥng Thông Tin Quốc Tế bên ngoài nữa”.

- “Tiếng nói của Chư Tăng mà phải thông qua Cư Sĩ (Cư sĩ Vơ Văn Ái, Giám Đốc PTTPGQT ) là không đúng”.

- “Hăy hoá thân, lấy Ban Đại Diện GHPGVN, thành viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, làm Ban Đại Diện GHPGVNTN, không nên thành lập Ban Đại Diện mới”.

- “Thiền Sư Nhất Hạnh về Việt Nam hợp tác sẽ thu hút giới thanh niên, trí thức, ủng hộ cho nhóm Cộng sản cấp tiến, đánh bại nhóm cộng sản thủ cựu. Chỉ có nhóm Cộng sản thủ cựu và Thiên chúa mới chống Thiền sư Nhất Hạnh, c̣n Phật giáo th́ nên ủng hộ Ngài……”

- “Việt Nam ngày nay đă đổi mới, không c̣n Cộng sản như trước nữa. Mỹ là kẻ thù c̣n bắt tay hợp tác làm ăn với Việt Nam, chúng ta là người Việt Nam sao không về hợp tác làm ăn…”.

3- Dùng người của GHPGVNTN vận động các thành viên ly khai GHPGVNTN để thành lập Giáo hội mới.

4- Tiến hành nhũng cuộc vận động hoà giải, hoà hợp với Nhà cầm quyền cộng sản trong các vấn đề từ thiện, văn hoá, giáo dục…

5- Lập đàn giải oan, Hội thảo, tổ chức Đại lễ Phật Đản Vesak năm 2008, v.v…

Các Bản Phúc tŕnh của Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư kư Viện Tăng Thống GHPGVNTN, Hoà thượng Thích Không Tánh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xă Hội và Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức, từ Huế, đă phần nào tóm lược được các sự kiện nói trên đây. (Xin xem Ghi chú cần biết ở dưới bài để rơ những mánh mung và vấn nạn).

Qua nội dung được tŕnh bày chi tiết trong các Bản Phúc tŕnh trên, chúng ta thấy rằng, việc đánh phá GHPGVNTN lần này không chỉ về mặt nhân sự, mà c̣n nhằm mục đích đánh phá về phương diện pháp lư mà mục tiêu chủ yếu cốt biến tướng lập trường Bát chánh đạo, để triệt hạ uy tín của GHPGVNTN.

Lần đánh phá này, âm thầm, kín đáo nhưng đoan quyết, bắt đầu từ cội gốc trong nước, sau mới chỉ thị ra đến hải ngoại.

Ban đầu, lợi dụng một vài bất đồng ư kiến trong nội bộ các thành viên Giáo hội, tiếp đến, khai thác các yếu tố địa phương, t́nh cảm, giáo phái, thầy tṛ, mục tiêu hoạt động... để phân tán, ly gián, chia cắt GHPGVNTN ra thành nhiều tổ chức nhỏ. Việc từ chức riêng lẻ hay đồng loạt để gây áp lực lên Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo là một điển h́nh.

Đặc biệt, phát triển nhận định thành lư giải mê hoặc quần chúng Phật tử, như : “Thiền Sư Nhất Hạnh về Việt Nam hợp tác sẽ thu hút giới thanh niên, trí thức, ủng hộ cho nhóm Cộng sản cấp tiến, đánh bại nhóm cộng sản thủ cựu. Chỉ có phái Cộng sản thủ cựu và Thiên chúa mới chống Thiền sư Nhất Hạnh, c̣n Phật giáo th́ nên ủng hộ Ngài…”

Luồng dư luận rỉ tai trên đây, lúc đầu chỉ thấy xuất hiện trong nội bộ một số thành viên GHPGVNTN trong nước, ở thời diểm cuối năm 2004. Nhưng vừa rồi hôm 1.9.2009, sư cô Chân Không trả lời phỏng vấn kư giả Ngọc Lan trên báo Người Việt ở California, người ta thấy có sự trùng hợp với dư luận tung ra 5 năm trước. Sư cô xác định : “…Cái kẹt thứ hai là của mấy người ở Trung ương bị Trung Quốc ức hiếp. Sư Ông Nhất Hạnh từng phát biểu trên một đài truyền h́nh Ư về vấn đề Tây Tạng. Nhóm thủ cựu Việt Nam sợ Trung Quốc, lời phát biểu của Sư ông làm cho Trung Quốc giận…”

Như vậy, việc này, có thể đă có sự hội ư, tổ chức, phối hợp trong ngoài để hỗ trợ, thực hiện vấn đề hợp tác với nhà cầm quyền Cộng sản từ trước, mà việc Thiền sư Nhất Hạnh về Việt Nam là khởi đầu cho bước tiến huỷ tiêu GHPGVNTN. Để thoa vuốt và lôi kéo Phật tử đi với chính quyền, th́ tạo ra hai thứ Cộng sản thân Trung quốc và chống Trung quốc. Nhưng biến Phật giáo thành công cụ hay đàn áp thẳng tay GHPGVNTN, th́ chỉ có MỘT thứ Cộng sản, chẳng thấy “phe” Cộng sản thứ nhất hay thứ hai nào đứng ra binh ?!

Sau chuyến về Việt Nam năm 2005 của Thiền sư Nhất Hạnh, các nhóm hoà hợp, hoà giải tiếp tục vận động chư Tăng và Phật tử về nước để tổ chức Hội thảo Phật giáo về “Cơ hội và Thách Thức” tại Saig̣n tháng 7 năm 2006. Nhưng rầm rộ nhất là công cuộc vận động tổ chức Đại lễ Vesak 2008, tại Hà Nội.

Sự chuẩn bị lan tới cả hàng giáo phẩm cấp cao của GHPGVNTN ở trong nước. Ngày 29.8.2007, Tướng Trần Tư thuộc Bộ Công An, Cục trưởng Cục A41, tức Cục An ninh xă hội theo dơi và kiểm soát các tổ chức tôn giáo, vào Tu Viện Nguyên Thiều thuyết phục Đức Tăng Thống ra Hà Nội dự Đại lễ Phật Đản Vesak 2008, nhưng Đức Tăng Thống đă nhẹ nhàng từ chối.

Mặt khác, ở hải ngoại, một số chư Tăng ở các Giáo hội Úc, Âu, Mỹ, Canada, vận động các thành viên GHPGVNTN hợp tác tổ chức, chuẩn bị về Việt Nam tham dự Đại lễ Phật Đản Vesak LHQ. Có hai vị Thượng toạ điện thoại về thuyết phục Đại Lăo Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, nên tham gia vào Đại Lễ này, họ lập luận rằng : “Nhà cầm quyền Việt Nam tổ chức Đại lễ Vesak lần này chỉ thuần tuư tôn giáo, xin Hoà thượng cho chư Tăng trong GHPGVNTN ra hợp tác tổ chức, đến ngày lễ chính thức, cung thỉnh Đức Tăng Thống và Hoà thượng Viện Trưởng cùng ra Hà Nội tham dự”.

Nhưng Hoà thượng Viện Trưởng Viện Hoá Đạo đă bác bỏ, ngài nói rằng : “Nhà cầm quyền cộng sản là những người đập phá chùa chiền, bắn giết Tăng, Ni, đốt huỷ kinh, tượng, mà các vị cho là chỉ tổ chức Phật đản thuần tuư tôn giáo thôi sao ?! Tôi không tin !”

Quả thật, sau Đại lễ Vesak, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Trưởng Ban tổ chức, đă trả lời phỏng vấn trên đài truyền h́nh SBTN của người Việt hải ngoại tại Hoa Kỳ rằng : “Lễ này, thực chất là việc làm công tác đối ngoại của nhà cầm quyền cộng sản, hoàn toàn không phải của Phật giáo”.

Nếu GHPGVNTN đồng ư, hợp tác tổ chức, tham dự Đại lễ Vesak 2008, theo sự vận động, thuyết phục của Tướng Trần Tư và một vài chư Tăng Hải ngoại, th́ vận mạng, pháp lư của GHPGVNTN không biết, bây giờ, sẽ đi về đâu ?

Tóm lại, trước sự khủng bố, đàn áp, tuyên truyền, chiêu dụ của Nhà cầm quyền cộng sản, nh́n chung thấy được ba khuynh hướng của một số chư Tăng như sau :

 

1. Khuynh hướng tuỳ thời, an phận : “Gió chiều nào, ngă theo chiều ấy” là các vị đă gia nhập GHPGVN do Nhà cầm quyền cộng sản thành lập năm 1981, để được yên thân.

Những người này cho rằng :

Đạo pháp suy vi : bởi lẽ trời
Thấy kẻ phá chùa : khoanh tay đứng
Nh́n người đập tượng : nhắm mắt ngồi
Bắt bớ tăng ni : thây mẹ nó
Giam cầm Phật tử : mặc cha đời
Miễn được yên thân là khôn đấy
Can chi ậm ọe để thiệt tḥi.

(Trích Thơ Tù, HT Thích Quảng Độ, NXB Quê Mẹ, Paris, 2006)

 

2. Khuynh hướng hoá thân, tương tức : “hoà hợp, hoà giải, hợp tác với Nhà cầm quyền cộng sản để làm từ thiện, văn hoá, giáo dục” mà đại biểu là Thiền sư Nhất Hạnh và các thành viên Làng Mai ; ngoài ra c̣n có một số chư Tăng chủ suư việc đăng kư xin lại tư cách pháp lư GHPGVNTN ; cũng như một vài tổ chức ly khai GHPGVNTN ở hải ngoại. (Xin xem Ghi chú cần biết ở dưới bài để rơ những mánh mung và vấn nạn).

Nhiều người không biết rằng, cộng sản chỉ hợp tác lúc nào cần và để phục vụ cộng sản, xong rồi, vắt chanh bỏ vỏ, như trường hợp đă thấy qua vụ Bát Nhă Làng Mai ở Lâm Đồng của Thiền sư Nhất Hạnh.

 

3. Khuynh hướng giữ vững GHPGVNTN : với lập trường kiên định theo truyền thống 2000 năm lịch sử, phụng sự nhân loại và dân tộc. GHPGVNTN không tham gia, nương tựa, phục vụ cho bất cứ thế lực đảng phái chính trị nào của thế gian. Như lời Đại Lăo Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Xử Lư Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, đă trả lời phỏng vấn Đài quốc tế :

“Chúng tôi không thể lấy sự tự do, phục hoạt của Giáo hội chúng tôi để đổi lấy Tự, do, Dân chủ, Nhân quyền của hơn 85 triệu dân Việt nam. Do đó, chúng tôi sẽ tiếp tục kêu gọi nhà cầm quyền thực thi những điều cơ bản nhất để người dân chúng tôi được sống ấm no, hạnh phúc và thăng tiến như mọi dân tộc trên thế giới hiện nay”.

 

III- Kết luận : Giáo Chỉ Số 9, do Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống ban hành, đă cứu nguy mạng mạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất :

Năm 1981, nhị vị Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đă làm trụ cột, kiên cường, duy tŕ, ǵn giữ, nên GHPGVNTN mới không bị nhà cầm quyền Cộng sản tiêu diệt.

Từ năm 2004 đến 2008, cũng nhờ nhị vị Đại Lăo Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ làm trụ cột, GHPGVNTN mới được duy tŕ, tồn tại đến ngày nay.

Năm 1981, các vị tôn túc lănh đạo thâm niên trong GHPGVNTN c̣n bị lung lay, dao động, bước sang thuyền khác. Đến năm 2004, lại xuất hiện một số nhỏ các vị vừa mới tham gia GHPGVNTN, nhưng tức khắc đă bị bị chao đảo, bấn loạn, khiếp sợ trước sự tấn công, đánh phá của các thế lực vô minh, cũng là điều dễ hiểu.

Trước hoàn cảnh nguy nan của đất nước, khổ nạn của dân tộc, an nguy của cá nhân, mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn cho ḿnh một thái độ, một hướng đi. Tuy mỗi người mỗi ngă, không chung lập trường, đường hướng, nhưng cũng là đồng bào, đồng đạo, đă không ủng hộ th́ thôi, xin đừng t́m cách mạo danh, đánh phá, công kích lẫn nhau.

Trước những âm mưu đen tối của Nhà cầm quyền Cộng sản nhằm tiêu diệt GHPGVNTN thông qua nhiều kế hoạch, từ bạo động đến lôi kéo, từ hứa hẹn hăo đến phân hoá nội bộ… Giáo Chỉ số 9 do Đức Cố đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8 tháng 9 năm 2007 nhằm mục đích bảo vệ GHPGVNTN trước sức tiến công mới của nhà cầm quyền trong nước, đồng thời bảo vệ an toàn cho Văn Pḥng II Viện Hoá Đạo tại Hải ngoại, để duy tŕ sự kế thừa lập trường, đường hướng của GHPGVNTN, đề pḥng nguy cơ Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đánh phá, làm tê liệt Viện Hoá Đạo trong nước một lần nữa, như năm 1981.

Giáo Chỉ số 9 không nhắm loại bỏ ai như có số người xảo ngôn vu cáo. Giáo Chỉ số 9 chỉ củng cố tổ chức, đề cao nguyên tắc, đường hướng, kiện toàn pháp lư thành lập Văn Pḥng II Viện Hoá Đạo hải ngoại thích nghi giai kỳ mới mà thôi !

Giáo Chỉ số 9 chỉ khai triển Giáo Chỉ số 2, cũng do Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống, Đại Lăo Hoà thượng Thích Huyền Quang, ban hành năm 2005, nhằm củng cố, chấn chỉnh nhân sự Văn Pḥng I Viện Hoá Đạo GHPGVNTN trong nước, để ứng phó với t́nh h́nh một số thành viên trong Giáo hội đă từ chức, bất hợp tác, v́ thay đổi lập trường.

Thời gian qua, từ năm 2004 đến năm 2008, những tổ chức có lập trường, đường hướng khác với lập trường của GHPGVNTN, đă dùng danh xưng của GHPGVNTN để làm những việc hoà hợp, hoà giải, liên kết với Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, gây ra nhiều sự hiểu lầm trong dư luận và quần chúng Phật tử trong và ngoài nước.

Những tổ chức này, không được Viện Hoá Đạo phê chuẩn công nhận, theo Điều thứ 36, Chương thứ 9 tại Hiến Chương GHPGVNTN. Đương nhiên, các tổ chức này không có tư cách, không phải là đơn vị thành viên các Chi Bộ Hải ngoại của GHPGVNTN.

Những Tổ chức, Giáo hội, không liên hệ hành chính, không trực thuộc Viện Hoá Đạo trong nước, dưới sự lănh đạo của Đại lăo Hoà thượng Thích Quảng Độ, Xử Lư Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, lại dùng danh xưng của GHPGVNTN, là những Tổ chức, Giáo hội tiếm danh, dưới sự chỉ đạo của các thế lực vô minh, nhằm mục đích phá hoại uy tín của GHPGVNTN truyền thống,

Giáo Chỉ số 9 được Đức cố Tăng Thống GHPGVNTN, Đại Lăo HoàThượng Thích Huyền Quang ban hành, chỉ với mục đích bảo vệ, duy tŕ Văn phong II Viện Hoá Đạo.

Năm 1981, tuy chưa có Giáo Chỉ số 9, nhưng vẫn có một số chư Tăng rởi bỏ GHPGVNTN đi theo phục vụ Đảng và Nhà nước.

Cuối năm 2007 qua năm 2008, cũng không phải v́ Giáo Chỉ số 9 mà một số chư Tăng ở hải ngoại tách rời GHPGVNTN. Các vị này vốn đă tách rời mấy năm trước đó khi trong các khoá họp nội bộ họ yêu sách Giáo hội “ngưng cuộc đấu tranh đối đầu với Cộng sản”, “nên lo chuyện tu học, văn hoá, từ thiện là đủ”.

Bằng cớ hiển nhiên là đầu năm 2007, ngày 7.1.2007, bảy tháng trước khi Giáo chỉ số 9 ban hành, các vị này đă họp riêng và cho ra đời tổ chức “Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại” ly khai GHPGVNTN.

Năm 1981, một số chư Tăng rời bỏ GHPGVNTN nhưng không có một lời than van trách cứ, v́ tất cả quí ngài đều biết rằng GHPGVNTN là con đường chánh đạo.

Nay năm 2010, với một thời gian dài đủ cho sự nhận thức chánh – tà, hẳn ai ai cũng hiểu rơ nhiều hơn về mục đích và lập trường của GHPGVNTN trước hoàn cảnh Quốc nạn và Pháp nạn hiện nay.

Đâu đó nếu có ai lên tiếng trách cứ, chống đối, mạ lỵ GHPGVNTN, th́ họ chỉ là những người làm nô lệ cho các thế lực vô minh.

Saigon, ngày 3.1.2010

Thích Viên Định

------------------------

 

GHI CHÚ CẦN BIẾT : Bài viết trên đây tôi chỉ đề cập tổng quan các sự vụ nhằm phân tích một hiện trạng đau buồn của Phật giáo. Không đi vào những chi tiết v́ sợ bài viết sẽ quá dài. Do đó, tôi xin ghi một số chứng liệu ở phần ghi chú này để độc giả dễ nắm vững vấn đề trong thực tế mà Giáo hội chịu đựng ba năm qua :

I. Một trích đoạn trong bản Phúc tŕnh Phật sự của Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh thư kư Viện Tăng Thống, viết từ Huế gửi Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo ngày 8.9.2007 để rơ hơn về nhóm Thân hữu Già Lam trong và ngoài nước thông qua các vị tiêu biểu như TT. Tuệ Sỹ, Gs Lê Mạnh Thát, các Đạo hữu Trần Quang Thuận, Bùi Ngọc Đường :

“Một số Phật tử ở Úc và Hoa kỳ, có gọi điện về thăm và nhân tiện, bày tỏ sự bất bằng về một số Thượng tọa, Đại đức và Cư sĩ tu xuất, đang là Thành viên Hội đồng Điều hành GHPGVNTN/HN tại Úc và Hoa kỳ, lại đi vận động tách khỏi GHPGVNTN là v́ sao ?

(...) “Điều mà Phật tử thắc mắc, chúng tôi thấy, đă được cụ thể qua quan điểm của anh Trần Quang Thuận và Bùi Ngọc Đường. Hai anh hồi cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 2007 ; anh Trần Quang Thuận chê trách Ḥa Thượng Quảng Độ. Bùi Ngọc Đường ngoài những lời lẽ như anh Thuận ; Bùi Ngọc Đường c̣n thêm chê bai Giáo hội. Sau hết Bùi Ngọc Đường khuyên chúng tôi từ chức Chánh thư kư Viện Tăng Thống để nghỉ ngơi, giống hệt như lời Thượng tướng Công an Nguyễn Văn Hưởng đă khuyên Đức Tăng Thống thôi việc, nghỉ ngơi. Giọng điệu hai anh có vẻ như muốn thỏa hiệp, để được sinh hoạt, ư tưởng nầy c̣n được thấy rơ qua nhóm Thân Hữu Già Lam”.

“Chúng tôi được biết, ở Tu Viện Quảng Hương Già Lam [Saigon] ; cách đây một năm, đă h́nh thành một nhóm, có tên gọi “Thân Hữu Già Lam”. Thành viên khoảng trên dưới 40 vị gồm các thành phần Tu sĩ, Cư sĩ, Cư sĩ tu xuất. Các vị có mặt trong nước, ngoài nước khắp các châu lục. Các vị sinh hoạt dưới dạng Tăng già, chưa dám đứng hẳn vào Gíao hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh) năm 1981. Các vị quyên góp tiền gây quĩ xây dựng Đại Học, Thư Viện, Hội Trường, làm Văn Hóa Giáo Dục Phật Giáo. Đứng đầu nhóm có GS TS Lê Mạnh Thát, và học giả Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ…”.

II. Hoà thượng Thích Không Tánh, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xă Hội, trong thư trả lời Phật tử hải ngoại, cũng chú ư đến việc này và cho biết nhiều chi tiết quan trọng trong việc biến tướng GHPGVNTN nhằm thoả hiệp với nhà nước Cộng sản mà đứng đầu là vai tṛ TT Tuệ Sỹ, Gs Lê Mạnh Thát, TT Đức Thắng, TT Thanh Huyền, các Phật tử Bùi Ngọc Đường, Huỳnh Kim Quang, Vĩnh Hảo… :

“Chúng tôi xin xác nhận mấy việc :

“1. Vào khoảng năm 2004-2005, khi Đại Hội của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ được thành công (nhờ Giáo Chỉ, Đạo Từ của Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Huấn Từ của Ḥa Thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng VHĐ lưu nhiệm tất cả). Trong một cuộc họp tôi có tŕnh lên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo ai cũng vui mừng, lúc đó TT Tuệ Sỹ có nói : “Thành công ǵ mà thành công ! Mọi việc người ta sắp xếp (nhân sự) đâu đó rồi tự nhiên Huấn Từ, Đạo Từ ở đâu rớt xuống làm hỏng việc của người ta hết ! Đây rồi họ (ư nói quư Thầy và các Phật tử : Tâm Huy [Huỳnh Kim Quang], Vĩnh Hảo, Bùi ngọc Đường, v.v... ở Hoa Kỳ) sẽ từ chức hết chứ thành công ǵ mà thành công !”.

Thấy t́nh h́nh "căng" quá tôi và TT Thích Viên Định (Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo) cũng đứng dậy ra về. Khi xuống tới cầu thang, TT Viên Định có nói với tôi : Tôi không ngờ Thầy Tuệ Sỹ lại thất kính với Đức Tăng Thống và HT Viện Trưởng như vậy !

2. Tôi không nhớ là năm nào, TT Tuệ Sỹ và TT Đức Thắng (lúc bấy giờ là Tổng thơ kư Viện Hóa Đạo) có nói với tôi : “Chờ Thủ Tướng Phan Văn Khải về nước (lúc bấy giờ ông Phan Văn Khải công du Mỹ quốc) ḿnh đem danh sách Hội đồng Viện Hóa Đạo lên “Đăng Kư” để Giáo Hội được sinh hoạt dễ dàng”. Tôi nghe thế có hỏi : “Vậy quư Thầy có tŕnh việc nầy lên Cụ Viện Trưởng và Cụ Viện Trưởng có đồng ư không ?” Th́ quư Thầy trả lời “Đồng ư chứ sao không đồng ư” (trong thời gian đó, Công an canh gát Ḥa Thượng rất kỹ, và 2 Thượng tọa Tuệ Sỹ, Đức Thắng cũng không có ai lên thăm HT Viện Trưởng cả).

3. Do quư Huynh Trưởng Gia Đ́nh Phật Tử (GĐPT) nào đó ở Hải ngoại đề nghị mà TT Tuệ Sỹ cùng với Thầy Thanh Huyền (lúc bấy giờ là Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên) đă tấn phong một số Huynh Trưởng lên Cấp Dũng (trong đó có anh La Thanh Ty, một Huynh trưởng GĐPT ở Đà Nẵng rất chống GHPGVNTN mà không tŕnh và thông qua Ḥa Thượng Viện Trưỏng được biết.

4. Sau khi Huynh trưởng Hạnh Minh - Hồ Tấn Anh tự thiêu để bảo vệ Giáo Hội và lên án Cộng sản đàn áp Nhân Quyền và Tự Do Dân Chủ, tôn Giáo... một số Huynh trưởng Miền Trung có vào gặp TT Tuệ Sỹ xin ra Thông Bạch Truy Niệm, Cầu Siêu, th́ TT nói : “Tự thiêu sao không báo cho Thượng tọa biết ! Tự thiêu như vậy là vi phạm Nhân Quyền !”.

5. Nhiều Thầy và Phật tử ở hải ngoại qúy tài làm thơ và dịch kinh của TT Tuệ Sỹ, cũng như ủng hộ đường lối, lập trường của Tuệ Sỹ trước kia [khi chưa thay đổi], nên khi thấy TT Tuệ Sỹ không có tên trong Hội đồng Viện Hóa Đạo vào năm 2005 nữa, th́ cho rằng HT Viện Trưởng độc tài, loại bỏ Thầy Tuệ Sỹ. Sự thật, HT Viện Trưởng có Chỉ Đạo TT Viên Định mời TT Tuệ Sỹ về Chùa Giác Hoa họp Viện Hoá Đạo, nhưng TT Tuệ Sỹ đă lấy cớ "Nhập Thất" không đến, nhưng sau đó lại đi Nha Trang dự đám tang Ni sư Tâm Đăng viên tịch, nên HT Viện Trưởng đă chỉ đạo cho tôi ra Nha Trang để thỉnh TT Tuệ Sỹ giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Phiên Dịch Viện Tăng Thống và tấn phong TT lên Ḥa Thượng, nhưng TT đă từ chối và nói : “Tôi đă có hứa làm việc với Thầy Lê Mạnh Thát, hơn nữa tôi đă có đơn từ chức rồi, xin Thầy thưa với HT Viện Trưởng đừng có tấn phong, bổ nhiệm ǵ cả, tôi sẽ có thư từ chối, th́ kỳ lắm....”. Việc TT Tuệ Sỹ từ chức, kéo theo các TT Phước Viên, Đức Thắng, Phước An... đồng loạt xin từ chức ! V́ thế nhiệm kỳ 2005 không có tên của quư TT trên trong Hội Đồng Lưỡng Viện của GHPGVNTN nữa !

6. Khi vừa được Đại Lăo HT thích Huyền Quang và HT Viện Trưởng mời TT Tuệ Sỹ làm Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư Kư VHĐ (cuối năm 1999) th́ Thầy đă nhiều lần yêu cầu tôi không nên liên lạc, tiếp xúc với GS Vơ văn Ái đang đảm đương nhiệm vụ Giám Đốc Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Phát ngôn nhân của Viện Hóa Đạo trong nước !

Có rất nhiều việc, tôi không nhớ hết ! Xin tóm tắt lại mấy việc để anh và quư Phật tử nào, một ḷng trung kiên với lư tưởng và lập trường của GHPGVNTN được biết về hướng đi của TT Tuệ Sỹ. Theo tôi, có nhiều việc TT Tuệ Sỹ khó ḷng chủ động được….”.

III. Tường tŕnh từ Huế về” Mưu đồ của Thượng tọa Tuệ sỹ với GHPGVNTN” của Huynh trưởng Lê Nguyễn Minh Đức :

“... Sau khi không tham gia GHPGVNTN, Thầy Tuệ Sỹ đă nhiều lần vận động tôi (lời HT Thích Thiện Hạnh kể) nghỉ việc. Năm 2007 khi đưa Đức Tăng Thống vào điều trị tại bệnh viện Pháp Việt, tôi về nghỉ tại Già lam, Thầy Tuệ Sỹ nói với tôi rằng : “ Ôn nên nghỉ việc đi, theo Di chúc của Hoà Thượng Huyền Quang mà Bùi Ngọc Đường đọc được th́ Ôn không có chức vụ chi mô. Ôn nghỉ đi và cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát. Sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại”. Tôi đă nói cho Thầy Tuệ Sỹ biết rằng tôi làm việc v́ Gíao hội, v́ tấm ḷng của tôi đối với Nhị Vị Lănh Đạo, xin Thầy hăy bỏ luận điệu ấy đi và xin Thầy suy nghĩ cho kỹ về hành động của ḿnh.

“Thế nhưng khi tôi về Huế, Thầy Tuệ Sỹ lại gọi điện ra nhắc lại một lần nữa, sau đó có Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận về vận động tôi nghỉ theo ư đồ của Thầy Tuệ Sỹ như tôi đă nói trong bản Phúc Tŕnh Phật Sự của Chánh Thư Kư Viện Tăng Thống đă phổ biến.”

”Tham vọng của Thầy Tuệ Sỹ đă thể hiện qua tiến tŕnh như sau :

- Giai đoạn 1 : Loại bỏ Nhị Vị Lănh Đạo Tối Cao để chiếm vị thế : Như trên chúng ta thấy, từ lâu Thầy Tuệ Sỹ đă có quan hệ với Chính Quyền, nắm bắt được ư đồ của Chính Quyền là muốn loại bỏ Nhị Vị Lănh Đạo Tối Cao. Để gây áp lực với Nhị Vị Lănh Đạo

Thầy đưa ra chiêu bài “đăng kư” Chính Quyền để gài GHPGVNTN vào bẫy, để Nhị Vị Lănh Đạo nản ḷng mà rút lui. Nếu kế hoạch nầy thành công, dĩ nhiên Phó Viện Trưởng Thích Tuệ Sỹ sẽ nghiễm nhiên ngồi vào ngôi vị lănh đạo tối cao GHPGVNTN như cả Thầy lẫn chính quyền mong nuốn.

- Giai đoạn 2 : Không chiếm được vị thế lănh đạo th́ tiếm quyền : V́ không đạt được mưu đồ loại bỏ Nhị Vị Lănh Đạo để làm Viện Trưởng cho nên : Thầy bắt đầu tiếm quyền như quyết định công cử Vụ Trưởng Gia Đ́nh Phật Tử Vụ, quyết định thăng Cấp Dũng, quyết định tổ chức “Gia Đ́nh Phật Tử trên Thế giới” mà không tŕnh cho HT Viện Trưởng biết. Có lẽ Thầy nghĩ rằng Hoà Thượng Viện trưởng sẽ bị quản thúc không có ngày tự do, cho nên dù có biết, Hoà Thượng cũng chẳng làm ǵ được.

- Giai đoạn 3 : Không tiếm quyền được, Thầy bèn phá rối cho Giáo hội tan nát : bằng cách nhũng nhiễu chức vụ, vận động Quí Tổng Vụ trưởng đồng loạt từ chức… để cho Gíao hội không có nhân sự mà phải đi đến chổ tan ră.

- Giai đoạn 4 : Khi Giáo hội tan ră, Thầy sẽ đứng ra tổ chức lại Gíáo hội : Đây là tham vọng cuối cùng. Tham vọng nầy đă thể hiện trong câu nói khi Thầy vận động Ḥa thượng Thiện Hạnh nghỉ việc : “Ôn nghỉ việc đi rồi cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát, sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại”.

V́ tham vọng ấy mà Thầy đă im lặng ( hay nói cách khác là ngấm ngầm hổ trợ ) để cho Thân Hữu Già Lam, Về Nguồn, Tăng Ni Hải Ngoại suy tôn Thầy, tích cực chống lại GHPGVNTN. V́ tham vọng ấy mà Thầy bảo bọc nuôi dưỡng, dạy dổ Gia Đ́nh Phật Tử của nhóm Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai để hậu thuẩn cho Thầy hôm nay và mai sau”.

------------------------------

 

 

Thông báo về sự ra đời của Khuôn hội Huyền Quang tại Cộng hoà Liên bang Đức:

 

Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất

Khuôn-Hội HUYỀN-QUANG tại Cộng-Ḥa Liên-Bang Đức

 

THÔNG-CÁO

 

NAM MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA-MÂU-NI PHẬT


Kính bạch Chư Tôn Đức,
Cùng Quư Đồng-Hương,
Quư Phật-Tử,

 

Vào ngày 8 tháng 11 năm 2009, trong buổi sinh-hoạt Phật-Giáo tại Frankfurt am Main dưới sự chứng minh của Thượng-Tọa Thích Viên-Lư, Tổng Thư-Kư Văn-Pḥng II Viện Hoá-Đạo và Giáo-Sư Vơ Văn Ái, Tổng Ủy-Viên Ngoại-Vụ Văn-Pḥng II Viện Hoá-Đạo Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất ; một số Phật-Tử ở München và vùng Rhein-Main nhận thấy Giáo-Hội dưới sự lănh-đạo của Đại-Lăo Hoà-Thượng Thích Quảng-Độ, Xử lư Thường vụ Viện Tăng-Thống kiêm Viện trưởng Viện Hoá Đạo, vẫn tiếp-tục bị nhà cầm quyền CSVN đày-đọa, cấm-đoán, lại thêm các thế-lực vô-minh phù-trợ cho lũ vô-thần, âm mưu đánh-phá. Nhưng trước t́nh-h́nh bị vây-hăm trùng-điệp, Giáo-Hội và Đại lăo Hoà-Thượng Thích Quảng Độ vẫn can-đảm cất cao tiếng nói chính-nghĩa, v́ Đạo, v́ Dân ; chúng-tôi đă mạo-muội không ngại khó-khăn, cùng nhau tự-phát đứng ra thành-lập hai Khuôn-Hội Huyền-Quang tại Cộng hoà Liên bang Đức :

1- Khuôn-Hội Huyền-Quang München, do Đạo-hữu Minh-Hải Đặng Ngọc Sơn đại-diện ; và

2- Khuôn-Hội Huyền-Quang Rhein-Main do Đạo-hữu Nhật-Quang Trần Di Nhơn đại-diện

Cả hai Khuôn-Hội đặt dưới sự phối-hợp của Ủy-Ban Điều-Hợp gồm có :

Trưởng-Ban : Đạo-hữu Nhật-Quang
Phó-Ban : Đạo-hữu Minh-Hải
Thủ-qũy : Đạo-hữu Huệ-Nghiêm
Thư-kư : Đạo-hữu Thiện-Thủy

Việc thành-lập đă được nhị vị lănh-đạo của Văn-Pḥng II Viện Hoá-Đạo chứng-minh.

Mục-đích Khuôn-Hội Huyền-Quang chúng-tôi là hậu thuẫn Giáo-Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống-Nhất thông-qua Văn-Pḥng II Viện Hoá-Đạo.

Dù cương-quyết đứng lên hộ-tŕ Giáo-Hội để được tu-tập theo con dường Chánh-Đạo, chúng-tôi vẫn cần sự khích-lệ tinh-thần của Chư Tôn-Đức và Đồng-Bào, Phật-Tử khắp nơi.

V́ tiền-đồ Giáo-Hội xin Chư Liệt-Vị ủng-hộ giúp-đỡ chúng-tôi, để Khuôn-Hội Huyền-Quang ngày càng phát-triển, về nhân-sự cũng như hoạt-động. Chúng-tôi xin tán thán mọi sự chỉ-giáo của Quư-Vị cao-minh, hầu kiện toàn và thăng-tiến tổ chức.

Chúng-tôi mạn phép cất lời kêu-gọi thành-lập thêm nhiều Khuôn-Hội Huyền-Quang tại Địa-phương của Chư Liệt-Vị, sao cho phong-trào được nảy-nở khắp nơi trên lănh-thổ Cộng-Ḥa Liên-Bang Đức. Xin liên-lạc về địa-chỉ E-Mail : kh.huyenquang@yahoo.com

Nhân ngày đầu năm Dương lịch, toàn-thể hội-viên Khuôn-Hội Huyền-Quang xin thành-tâm kính chúc Chư Tôn-Đức cùng Đồng-Hương, Phật-Tử được mọi sự an-lành và tinh-tấn.

Nam Mô Thường Tinh-Tấn Bồ-Tát Ma-Ha-Tát

 

Đức-Quốc, ngày 1 tháng 1 năm 2010
Đại-diện Khuôn-Hội Huyền-Quang Đức-Quốc
Trưởng Ban Điều-Hợp
Nhật Quang


<< trở về đầu trang >>
free counters