Quyết định 97 của TT Nguyễn Tấn Dũng:
Cho phản biện, nhưng không được công bố
(CLBNBTD) Quyết định 97 được kư ngày 24/07 của ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng có nội dung "Không được công bố công khai" các ư kiến phản biện là một quyết định hoàn toàn vi hiến. Điều 69 Hiến pháp Việt Nam (1992) đă ghi rơ "Công dân có quyền Tự do ngôn luận, tự do báo chí...", việc ông TT Dũng cho phép ban hành văn bản như trên có thể xem là hành vi "lạm quyền".
Đồng thời, quyết định 97 được ban hành nhằm mục đích kiểm soát các Tổ chức Khoa học độc lập ở Việt Nam. Theo đó, Nhà nước sẽ rà soát và chấm dứt hoạt động nhiều Tổ chức Khoa học tư nhân.
Có thể thấy, quyết định như trên được ban hành nhằm đối phó với làn sóng phản biện dữ dội của giới Khoa học Việt Nam trong thời gian gần đây đối với những chủ trương của Nhà nước, qua các vấn đề Kinh tế, Xă hội, Bauxite và chủ quyền đất nước...
Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do xin gửi đến các bạn bài nhận định sau đây trên trang mạng V N E C O N O M I S T
Bạn đọc có thể t́m nguyên văn
Bản quyết định vi hiến này tại
đây
Cấm công bố ư kiến phản biện
Báo Pháp luật TP.HCM đưa tin về Quyết định 97 của Thủ tướng có hiệu lực từ ngày 15/09/2009, theo đó các tổ chức khoa học công nghệ:
"...Nếu có ư kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước cần gửi ư kiến phản biện đó cho cơ quan Đảng, nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ"
Bài báo cũng nói, theo lời
ông Hoàng Ngọc Doanh - Phó
Trưởng ban chính sách nhân
lực và hệ thống tổ chức
KH&CN, Viện Chiến lược và
chính sách KHCN (Bộ KH&CN),
rằng quyết định này hoàn
toàn thống nhất với Luật
KH&CN năm 2000 và Nghị định
81/2002 quy định chi tiết
thi hành luật này. Theo đó "các
tổ chức KH&CN cá nhân được
phép phản biện về đường lối,
chủ trương, chính sách.
Nhưng thông tin phản biện
phải được gửi đến cơ quan có
thẩm quyền, cơ quan nhà nước
có trách nhiệm trả lời".
Lẽ dĩ nhiên pháp luật phải
điều chỉnh những hành vi gây
thiệt hại cho người khác
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích
của các cá nhân trong xă hội.
Tuy nhiên, trên quan điểm
kinh tế học, Quyết định này
đặt ra hai câu hỏi. Thứ nhất,
việc phản biện đường lối,
chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước có gây ra
thiệt hại cho xă hội không?
Thứ hai, nếu nó có gây ra
thiệt hại, th́ quy định "không
được công bố" có hiệu quả
không?
Phản biện có gây thiệt hại?
Trước hết hăy xem xét trường
hợp những phản biện đúng.
Điều này có nghĩa là các chủ
trương, đường lối chính sách
hiện hành là sai, hoặc nếu
áp dụng những ư kiến phản
biện đó thay thế cho chính
sách hiện hành th́ sẽ đem
lại sự cải thiện phúc lợi xă
hội. Trong trường hợp này,
việc cấm công bố ư kiến phản
biện là không cần thiết. Ư
kiến phản biện đúng chỉ đem
lại sự cải thiện Pareto.
Thật ra ngay cả khi ư kiến
phản biện đúng và đem lại
cải thiện Pareto, th́ nó vẫn
gây ra thiệt hại cho những
người đang hưởng lợi từ
chính sách hiện hành. Tuy
nhiên thiệt hại này không
nên là lư do cấm công bố ư
kiến phản biện đúng, v́ nếu
áp dụng nguyên tắc cải thiện
Pareto tiềm năng, th́ những
cải thiện cho những nhóm
người khác sẽ lớn hơn thiệt
hại.
Một thiệt hại nữa là nếu ư
kiến phản biện chỉ ra rằng
chính sách hiện hành là sai,
th́ điều này có thể làm giảm
uy tín của chính phủ. Nhưng
nếu v́ lư do này mà cấm công
bố những ư kiến phản biện
đúng th́ đây là điều kiện
tốt để chính phủ giấu giếm
những sai lầm của ḿnh
và/hoặc tránh thực hiện
những chính sách tốt nhất
cho xă hội, nhằm phục vụ lợi
ích của một nhóm người nào
đó. Một xă hội tiến bộ không
nên có một chính phủ như
vậy. Nó trái với nguyên tắc
"nhân dân làm chủ". Ông chủ
sẽ không phải là ông chủ
đúng nghĩa nếu những tên đầy
tớ không cho phép ông ta
biết những sai lỗi của họ.
Bây giờ hăy xem xét những
phản biện sai, hay những
phản biện mà nếu áp dụng nó
sẽ làm giảm phúc lợi xă hội
nói chung so với chính sách
hiện hành. Những phản biện
sai sẽ không gây ra thiệt
hại ǵ nếu chúng không dẫn
đến những hành động mà những
hành động này gây thiệt hại
cho ai đó. Xin nhắc lại rằng
chúng ta đang nói về những
phản biện đối với đường lối
chính sách của chính phủ. Từ
đó có thể nghĩ ngay đến hai
loại hành động từ những phản
biện này. Một là chính phủ
áp dụng những phản biện sai
đó và gây thiệt hại cho xă
hội. Hai là ai đó lợi dụng ư
kiến phản biện sai để làm
giảm uy tín của chính phủ.
Hăy xem xét loại hành động
thứ nhất: chính phủ áp dụng
ư kiến phản biện sai. Dĩ
nhiên, trong trường hợp này
ư kiến phản biện sai đem lại
thiệt hại cho xă hội. Tuy
nhiên, với một quy tŕnh
chặt chẽ trong việc thông
qua các chính sách, từ khâu
lấy ư kiến phản biện của
phản biện từ các cơ quan
nghiên cứu khác, đến lấy ư
kiến các cơ quan quản lư nhà
nước và đại diện nhân dân,
th́ khả năng áp dụng một ư
kiến sai có thể bị loại trừ.
Một ư kiến mà được sự chấp
nhận rộng răi của các cơ
quan nghiên cứu, quản lư nhà
nước và sự đồng t́nh của
nhân dân th́ khó mà làm giảm
phúc lợi xă hội được.
Tuy vậy, việc ai đó có thể
lợi dụng ư kiến phản biện
sai để làm giảm uy tín của
chính phủ là một thiệt hại
tiềm năng không thể chối
căi.
Có nên cấm công bố?
Hăy xem xét thiệt hại của
chính phủ do giảm uy tín.
Bởi v́ ư kiến phản biện là
sai nên chính phủ sẽ không
khó khăn ǵ trong việc bảo
vệ uy tín của ḿnh. Các cơ
quan nghiên cứu của chính
phủ hay các trường đại học
có thể dễ dàng chỉ ra những
sai lầm của ư kiến phản biện
đó.
Thật ra trong một xă hội mà
các cá nhân và tổ chức có
quyền tự do ngôn luận, th́
ngay khi một ư kiến phản
biện sai được đưa ra, sẽ có
rất nhiều ư kiến phản biện
ngược lại. Và trong một môi
trường thông tin hoàn hảo
như vậy, việc ai đó lợi dụng
ư kiến phản biện sai để làm
giảm uy tín của chính phủ là
không thể xảy ra. Bạn đọc có
thể băn khoăn về giả định
"thông tin hoàn hảo". Nhưng
trong một xă hội mà chính
phủ nắm quyền kiểm soát toàn
bộ hệ thống truyền thông như
Việt Nam, th́ việc chính phủ
tuyên truyền bác bỏ một ư
kiến sai lầm hiển nhiên nào
đó là việc khá đơn giản.
Ngoài ra ai cũng biết rằng
đối với các hàng hóa và dịch
vụ gây ra ngoại tác, th́
chính sách hiệu quả nhất
không phải là cấm, mà là
đánh thuế.
Thiệt hại từ luật cấm
Trái ngược với thiệt hại,
những lợi ích của phản biện
rất khó phủ nhận. Nó đưa ra
những ư kiến giúp cải thiện
phúc lợi xă hội và buộc
chính phủ phải cẩn thận hơn
trong việc thông qua và thực
thi các chính sách. Cấm công
bố ư kiến phản biện sẽ góp
phần đáng kể trong việc tiêu
diệt những lợi ích này.
Lẽ dĩ nhiên ở đây chính phủ
không cấm phản biện. Chính
phủ chỉ cấm công bố ư kiến
phản biện. Người phản biện
phải gửi ư kiến phản biện
cho cơ quan có thẩm quyền.
Có thể tạm thời giả định
rằng những ư kiến phản biện
thường phát sinh từ tầng lớp
trí thức và giới nghiên cứu
khoa học. Câu hỏi đặt ra là
ai sẽ xem xét và trả lời ư
kiến phản biện? Quan chức
của cơ quan thẩm quyền? Họ
không phải là nhà khoa học
và có thể không đủ tŕnh độ
để trả lời. Các nhà nghiên
cứu của cơ quan có thẩm
quyền đó? Họ không phải là
những nhà khoa học hoàn toàn
khách quan. Những kiến thức
của họ sẽ được vận dụng theo
hướng có lợi cho mục tiêu
chính trị của cơ quan chủ
quản mà đôi khi không trùng
hợp với lợi ích của nhân
dân. Hay ư kiến đó sẽ được
gửi đi các cơ quan nghiên
cứu khác để xem xét? Như thế
th́ có khác ǵ công bố công
khai? Khác ở chỗ là nhân dân
sẽ không được biết. Những
ông chủ hạnh phúc!
Việc cho phép phản biện
nhưng cấm công bố cũng tương
tự như cho phép suy nghĩ
nhưng cấm nói ra. Nó cũng
trái với Điều 69 Hiến pháp
năm 1992:
"Công dân có quyền tự do
ngôn luận".