Tội Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165,000 Quân Dân Cán Chính VNCH
Mang Kẻ Phạm Tội Ra Trước Công Lư và Mang Công Lư Tới
Nạn Nhân
Trong tháng 4/1975, cộng sản Bắc Việt - với sự yểm trợ và tiếp
vận của khối cộng sản quốc tế - đă mở một cuộc tấn công ào ạt
bằng quân sự với chiến xa và trọng pháo vượt qua biên giới,
chiếm đóng lănh thổ VNCH một cách phi pháp. Đây là một cuộc xâm
lăng của khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai Việt
Cộng. Theo công pháp quốc tế, VNCH hội đủ tám tiêu chuẩn của một
quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ. Do đó, khi
xâm lăng VNCH, Việt Cộng đă phạm tội ác xâm lược (the crime of
aggression). Đây là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại
Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà
Án H́nh Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt
là ICC).
Ngày Thứ Hai, 23/7/07, trên trang mạng của tờ The Wall Street
Journal, nhà báo James Taranto đă trích dẫn cuộc điều tra quy mô
của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001
về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đă kết luận rằng ngay sau
khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đă đưa một triệu quân dân cán chính
VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo –
trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trong toàn cơi Việt
Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt.
Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đă bị giam
cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đă bị giam giữ tới 17
năm. Nếu lấy con số trung b́nh là bẩy năm tù cho mỗi người, số
năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm. Đây là một tội ác
h́nh sự mang tính lịch sử vô tiền khoáng hậu của lũ Việt gian
cộng sản mà ngàn đời sau phải ghi nhớ.
Cũng theo cuộc điều tra nói trên, cứ mỗi ba gia đ́nh tại Miền
Nam, có một gia đ́nh có người phải đi tù cải tạo. Và trong số
một triệu người tù kể trên, đă có 165,000 người chết v́ bị hành
hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết v́ bệnh
không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của
165,000 nạn nhân này vẫn c̣n bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng
núi, không trả lại cho gia đ́nh họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng
mới biết rơ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của
họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài
người đă và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà chánh
phạm là tên Lê Duẩn… và ba tên đồng phạm hiện nay là Nông Đức
Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng.
Điều 7 của Đạo Luật Rome đă định nghĩa tội Thủ Tiêu Mất Tích
Người “Enforced Disappearance of Persons” như sau:
Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là bắt giữ, giam giữ hay bắt
cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của
một quốc gia hoặc một tổ chức chính trị, sau đó không nh́n nhận
sự tước đoạt tự do của người ta và cũng không thông báo tin tức
về số phận hoặc nơi giam giữ với chủ tâm tước đi quyền được luật
pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài.
“Enforced disappearance of persons means the arrest, detention
or abduction of persons by, or with the authorization, support
or acquiescence of a State or a political organization, followed
by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to
give information on the fate or whereabouts of those persons,
with the intention of removing them from the protection of the
law for a prolonged period of time.”
Theo định nghĩa trên đây, Việt Cộng đă phạm tội ác thủ tiêu mất
tích người khi chúng lạm danh chính quyền của quốc gia để đưa ra
những thông cáo lừa gạt để bắt và giam giữ một cách phi pháp -
dưới cái ngụy danh “học tập cải tạo” – và hành hạ cho tới chết
bằng những đ̣n thù của chúng, và tiếp tục chôn giấu hài cốt của
165,000 quân dân cán chính VNCH trong vùng rừng núi với chủ tâm
thủ tiêu mất tích. Đây là một tội ác chống loài người (a crime
against humanity). Tội ác này thuộc quyền xét xử của Toà Án H́nh
Sự Quốc Tế.
Ngoài tội ác đối với những người đă chết, cộng sản c̣n phạm thêm
một tội ác chống loài người nữa đối với thân nhân của những
người đă chết. Đó là hành động độc ác (inhumane act) với chủ tâm
gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các nạn
nhân. Hăy tự đặt ḿnh vào hoàn cảnh của những người mẹ, người vợ,
người con… đă có con, có chồng, có cha…bị giam cầm hành hạ cho
tới chết và thân xác bị chôn giấu tại một xó thâm sơn cùng cốc
nào đó và tuyệt vô âm tín suốt 35 năm nay mới thấu được nỗi
thống khổ trong tâm can họ!
Điều 7 của Đạo Luật Rome đă định nghĩa những hành động độc ác
của tội ác chống loài người này như sau:
Những hành động độc ác có cùng một tính cách với chủ tâm gây
thống khổ hay thương tích nghiêm trọng cho thân xác hay cho sức
khoẻ về thể chất và tinh thần. “Other inhumane acts of a similar
character intentionally causing great suffering or serious
injury to body or to mental or to physical health.”
Theo định nghĩa trên đây, cộng sản đă phạm tội ác chống loài
người khi chúng chôn giấu trong rừng sâu 165,000 bộ hài cốt của
quân dân cán chính VNCH đă chết dưới đ̣n thù của chúng với chủ
tâm gây thống khổ “intentionally causing great suffering” suốt
đời cho thân nhân của họ. Đây là cung cách trả thù phi pháp (extrajudicial
retribution) của quân thảo khấu sống ngoài ṿng pháp luật. Tội
ác này cũng thuộc quyền xét xử của ICC.
Bổn phận của chúng ta, những người tù c̣n sống sót sau cơn đại
hồng thủy là phải cất tiếng nói công chính, nêu rơ tội ác của
chúng để mang bọn tội phạm này ra trước công lư và mang công lư
đến cho những nạn nhân của chúng. Đây là bổn phận phải làm để
trả lại danh dự cho 165,000 quân dân cán chính VNCH đă bị sát
hại v́ đ̣n thù của Việt Cộng trong những cái gọi là trại cải tạo
và để xoa dịu một phần nỗi đau thương của thân nhân những nạn
nhân.
Hai tội ác chống loài người trên đây của Việt Cộng là những tội
ác h́nh sự có tính quốc tế và. được dự liệu tại Đạo Luật Rome.
Trước khi đưa bọn tội phạm ra xét xử trước công lư, xin tŕnh
bày tóm lược về Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.
Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The Rome Statute of
the International Criminal Court)
Sau một thời gian dài cố gắng thành lập một Toà Án H́nh Sự Quốc
Tế để xét xử và trừng phạt các cá nhân phạm bốn loại tội ác
nghiêm trọng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm gồm: 1/
tội ác diệt chủng (the crime of genocide), 2/ tội ác chống nhân
loại (crimes against humanity, 3/ tội ác xâm lược (the crime of
aggression), 4/ và tội ác chiến tranh (war crimes), cuối cùng
th́ một hội nghị đă được Liên Hiệp Quốc triệu tập tại Rome,
Italy trong thời gian từ ngày 15/6/1989 đến ngày 17/7 /1989 với
160 quốc gia tham dự. Sau năm tuần lễ thảo luận và điều đ́nh
căng thẳng, 120 quốc gia đă bỏ phiếu chấp thuận Đạo Luật Rome
của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế cùng với bẩy quốc gia bỏ phiếu chống
(Hoa Kỳ, Do Thái, Trung Cộng, Iraq, Qatar…) và 21 quốc gia bỏ
phiếu trắng. Đạo Luật Rome gồm có – ngoài Lời Mở Đầu (Preamble)
– 13 Phần (Part) với 28 Điều (Article). Các Điều 6, 7 và 8 liệt
kê và định nghĩa các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại
và tội ác chiến tranh. Các Điều c̣n lại nói về quyền hạn, tổ
chức và điều hành… của Toà Án.
Theo quy định, Đạo Luật Rome sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc
gia phê chuẩn. Senegal là quốc gia phê chuẩn đầu tiên và quốc
gia thứ 66 đă phê chuẩn vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Đạo Luật
Rome có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2002. Toà Án H́nh Sự Quốc Tế
cũng được mở ra trong năm đó tại The Hague, Netherlands. Hiện
nay đă có 110 quốc gia phê chuẩn Đạo Luật Rome và trở thành quốc
gia hội viên (State party) của đạo luật này. Quốc hội Hoa Kỳ đă
không phê chuẩn đạo luật này, nên Hoa Kỳ không phải là quốc gia
hội viên của Đạo Luật Rome.
Toà Án H́nh Sự Quốc Tế là một tổ chức quốc tế độc lập, không
trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Điều này có nghĩa là Toà Án H́nh Sự
Quốc Tế độc lập về quyền tài phán, xét xử. Kể từ ngày 1-7-2002
trở đi, các quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome phải chấp nhận
quyền xét xử (jurisdiction) của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế về những
tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome khi những tội ác đó diễn
ra tại các nước hội viên. Công dân của các quốc gia không phải
hội viên (non State party) gây tội ác trên lănh thổ của các quốc
gia hội viên cũng phải chịu sự xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.
Công Tố Viên Trưởng của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The ICC’s Chief
Prosecutor) bắt đầu thụ lư và mở một cuộc điều tra về một vụ án
khi nhận được tin tức về tội ác đang diễn ra do các quốc gia hội
viên hoặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chuyển tới. Ngoài hai
nơi cung cấp tin tức nói trên, Công Tố Viên c̣n có thể nhận tin
tức từ các nguồn cung cấp khác như các cá nhân hay các tổ chức
ngoài chính phủ (non-governmental organizations).
Khi tội ác diễn ra trên lănh thổ của một quốc gia không phải hội
viên, chỉ có Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mới có quyền chuyển
thông tin về những tội ác đó cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ
lư. Đây là trường hợp đă được áp dụng đối với Sudan, một quốc
gia không phải hội viên. Bằng Nghị Quyết số 1593 năm 2005, Hội
Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đă chuyển tới Toà Án H́nh Sự Quốc Tế
t́nh trạng tội ác đă và đang diễn ra tại Darfur. Pḥng công tố
đă mở các cuộc điều tra, và ngày 14-7-2008, Toà Án đă ban hành
trát bắt giữ Ahmad Muhammed Harun (Ahmed Haroun), Bộ Trưởng Nội
Vụ của Sudan và Ali Muhammed Ali Abd-Al-Rahman (a.k.a Ali
Kushayb), một tư lệnh dân sự. Hai người này bị quy trách nhiệm
về các tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh đă và đang
diễn ra tại Darfur. Chính quyền Sudan đă từ chối bắt giữ và giải
giao hai nhân vật nói trên cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.
Ngày 14-7-2008, Công Tố Viên Luis Mereno-Ocampo đă tŕnh bày
những chứng cứ chứng minh rằng Tổng Thống Sudan phải chịu trách
nhiệm về các tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác
chống nhân loại đă và đang diễn ra tại Darfur. Ngày 4-3-2009,
Toà Án H́nh Sự Quốc Tế đă ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Omar
Hassan Al-Bashir của Sudan để trả lời trước công lư về năm tội
ác chống nhân loại được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome: 1/
Tội giết người (Murder), 2/ Tội huỷ diệt chủng tộc
(Extermination), 3/ Tội cưỡng bức chuyển vùng cư trú (Forcible
transfer), 4/ Tội hành hạ (Torture), 5/ Tội hiếp dâm (Rape),
và hai tội ác chiến tranh được dự liệu tại Điều 8 của Đạo Luật
Rome: 1/ Tội cướp bóc (Pillaging), 2/ Tội trực tiếp tấn công có
chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào
trong cuộc tranh chấp thù địch.
Cùng với việc ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Bashir, Toà Án
H́nh Sự Quốc Tế cũng gửi một công văn yêu cầu nhà cầm quyền
Sudan giải giao Tổng Thống Bashir cho Toà Án. Theo Nghị Quyết số
1593 năm 2005 của Hội Đồng Bảo An LHQ đă nói ở trên, chính quyền
Sudan có bổn phận phải hợp tác với Toà Án. Tuy nhiên, không có
hy vọng chính quyền Sudan sẽ bắt và giải giao Tổng Thống Sudan
cho Toà Án. Chính quyền này đă nhiều lần tuyên bố rằng họ không
nh́n nhận thẩm quyền của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.
Nếu Tổng Thống Bashir không ra tŕnh diện hoặc chính quyền Sudan
không giải giao ông này cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế, ông ta sẽ bị
coi như một kẻ đang đào tẩu, trốn tránh công lư (a fugitive from
justice). Và kể từ nay, khi nào ông Bashir bước chân ra khỏi
Sudan, đến một quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome và ngay cả
những quốc gia không phải hội viên nhưng sẵn sàng hợp tác với
Toà Án, ông ta sẽ bị bắt và giải giao cho Toà Án để trả lời
trước công lư về những tội ác mà ông ta phải chịu trách nhiệm.
Một điều quan trọng cần ghi nhận rằng lệnh bắt giữ để đưa ra toà
án xét xử một tổng thống đang tại chức v́ những tội ác chống
nhân loại, tội ác chiến tranh…là hồi chuông cảnh báo nghiêm khắc
cho những kẻ cầm quyền đang phạm những tội ác chống nhân loại có
tổ chức quy mô tại Việt Nam như những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn
Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng rằng chúng sẽ phải đối diện với
công lư bất kể quyền lực và cương vị của chúng.
Tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH đă hiển
nhiên không thể chối căi. Ngoại trừ một số rất ít hài cốt của họ
đă đuợc thân nhân t́m cách chạy chọt cải táng, tuyệt đại đa số
165,000 bộ hài cốt c̣n lại đă và đang bị cộng sản chôn giấu để
thủ tiêu với chủ tâm trả thù. Chánh phạm của tội ác chống loài
người này là tên Lê Duẩn và các thủ phạm tiếp theo là những tên
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Vơ Văn Kiệt,
Phan Văn Khải…và ba tên ṭng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh,
Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Ngoại trừ những tên đă
chết, tất cả những tên c̣n sống - sớm hay muộn - sẽ phải ra
trước vành móng ngựa để trả lời về những tội ác giam cầm phi
pháp và thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và
nhiều tội ác khác mà chúng đă phạm đối với dân tộc Việt Nam
trong suốt thời gian kể từ khi chúng cướp được chính quyền bằng
khủng bố từ ngày 19/8/1945. Đảng cộng sản VN, một chi bộ của Đệ
Tam Quốc Tế, là một tổ chức tội ác tay sai có tính quốc tế. Sớm
hay muộn, tội ác phải bị trừng phạt.
Ngụy quyền Việt Cộng không kư và phê chuẩn Đạo Luật Rome, nên
cộng đồng người Việt hải ngoại không thể trực tiếp chuyển các
tội ác chống nhân loại của chúng cho Công Tố Viên của Toà Án
H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Tuy nhiên, chúng ta có thể tố cáo tội
ác của chúng đến Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ (United Nations Human
Rights Council) để yêu cầu uỷ ban này mở cuộc điều tra về tội ác
thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và chuyển
thông tin về những tội ác này cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc
để chuyển tiếp tới Toà Án Sự H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Sự kiện
này đă có tiền lệ và chúng ta có thể áp dụng.
Trước dư luận quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế về tội ác
trong cuộc chiến tại Gaza, ngày 3-4-09, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ đă
mở một cuộc điều tra về tội ác chiến tranh đă diễn ra tại dải
Gaza trong cuộc chiến 22 ngày từ 27-12- 2008 tới 18-1- 2009.
Toán điều tra gồm bốn chuyên viên cầm đầu bởi Thẩm Phán
Richard Goldstone. Sau năm tháng điều tra, ngày 29-9-2009, Thẩm
Phán Richard Goldstone đă tŕnh cho Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp
Quốc tại Geneva báo cáo kết quả điều tra gồm 575 trang và kết
luận rằng cả Do Thái và Palestine cùng phạm tội ác chiến tranh
mang tính chất tội ác chống loài người. Báo cáo yêu cầu Hội Đồng
Bảo An LHQ đ̣i hỏi cả hai bên trong cuộc chiến - trong thời hạn
sáu tháng - phải điều tra và xét xử những kẻ phạm tội. Nếu hai
phe không thi hành, tội ác sẽ được chuyển cho Toà Án H́nh Sự
Quốc Tế để thụ lư.
Ngoài sự kiện kể trên, sau đây là hai trựng hợp điển h́nh về
pháp lư quốc tế mà người Việt hải ngoại có thể áp dụng đối với
những tên đầu sỏ Việt Cộng khi chúng ra khỏi nước.
Ngày 14/12/09, trang mạng của báo Guadian.co.uk đă đưa tin về
việc Ông Moshe Yaalon, Phó Thủ Tướng Do Thái, đă quyết định
không đến tham dự một buổi lễ gây quỹ tại Luân Đôn trong tháng
11/09, sau khi được cảnh báo rằng ông ta có thể bị bắt giữ v́ bị
cho là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Quyết định của ông
ta được đưa ra trong Tháng 10/09, một tuần lễ sau khi các luật
sư của 16 người Palestine đă không thành công trong việc vận
động một toà án tại Anh ban hành trát bắt giữ Ông Ehud Barak, Bộ
Trưởng Quốc Pḥng Do Thái, khi ông này viếng thăm Anh v́ bị cho
là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza.
Cũng nguồn tin nói trên cho biết ngày Thứ Bẩy 12/12/09, một toà
án tại Luân Đôn đă ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni, cựu Bộ
Trưởng Ngoại Giao Do Thái, cũng bị cho là đă phạm tội ác chiến
tranh tại Gaza. Lệnh bắt giữ này đă được hủy bỏ vào ngày Thứ Hai
14/12/09 sau khi được biết Bà Tzipi Livni đă hủy bỏ, không tham
dự một buổi hội họp tại Luân Đôn vào ngày Chủ Nhật 13/12/09. Toà
án đă ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni chiếu theo yêu cầu
của các luật sư đại diện cho các nạn nhân người Palestine trong
cuộc chiến tại Gaza. Bà Tzipi Livni là thành viên của nội các
chiến tranh và bộ trưởng ngoại giao của Do Thái khi diễn ra cuộc
tấn công vào dải Gaza vào cuối năm 2008.
Khi những người Palestine vận động một toà án của Anh quốc ban
hành trát bắt giam Ông Bộ Trưởng Quốc Pḥng và Bà cựu Bộ Trưởng
Ngoại Giao Do Thái khi hai người này đến Anh quốc, họ đă dựa
trên nguyên tắc pháp lư quốc tế về quyền xét xử phổ biến
“universal jurisdiction or universality principle.” Quyền này
dựa trên lập luận rằng tội ác đă phạm được coi như một tội ác
chống lại tất cả “a crime against all” và bất cứ quốc gia nào
cũng có quyền trừng phạt. Do đó, những nạn nhân và cũng là thân
nhân của những người đă bị Việt Cộng thủ tiêu mất tích cũng có
thể vận động để áp dụng nguyên tắc pháp lư quốc tế này đối với
những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… khi
chúng bước chân ra khỏi nước và đến những quốc gia có áp dụng
nguyên tắc pháp lư quốc tế về quyền xét xử phổ biến.
Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam là tổ chức chính danh
nhất đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại để yêu cầu Uỷ
Ban Nhân Quyền LHQ điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000
quân dân cán chính VNCH. Nếu Việt Cộng từ chối không cho Uỷ Ban
Nhân Quyền LHQ vào Việt Nam để mở cuộc điều tra này, điều đó
chứng tỏ rằng chúng t́m cách chốn tránh tội ác của chúng.
Nếu chúng ta vận động mà LHQ - một tổ chức giữ vai tṛ quan
trọng trong việc h́nh thành Toà Án H́nh Sự Quốc Tế - v́ một lư
do nào đó, không chuyển những tội ác chống loài người của Việt
Cộng cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư, chúng ta vẫn c̣n cách
đưa bọn tội phạm này ra trước công lư. Sớm hay muộn, chế độ cộng
sản vô tổ quốc, phi dân tộc sẽ bị huỷ diệt. Chính những tên đầu
sỏ đang tiếm quyền trong nưóc cũng đang thú nhận rằng chế độ của
chúng đang tự diễn biến, đang tự chuyển hoá để tự huỷ diệt…Ngày
đó không c̣n xa và một chính quyền chính thống của toàn dân Việt
Nam sẽ hợp tác với LHQ để tổ chức một toà án h́nh sự đặc biệt có
tính quốc tế như Toà Án Đặc Biệt tại Cam Bốt có tên Anh ngữ là
Extraordinary Chamber in the Courts of Cambodia (viết tắt là
ECCC) đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang
v́ các tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội ác
diệt chủng. Đây là một tiền lệ sẽ được thực thi tại Việt Nam sau
này để xét xử những tên chánh phạm Việt Cộng đă phạm bốn nhóm
tội ác có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome trong suốt
những năm tiếm quyền của chúng.
Mang Việt Cộng, bọn tội phạm có tính quốc tế, ra trước công lư
và mang công lư tới các nạn nhân của chúng là điều cần thiết bởi
v́ công lư là một thành tố không thể thiếu trong tiến tŕnh hoà
giải dân tộc. “Justice is an indispensable ingredient of the
process of national reconciliation.” Dân tộc Việt Nam đă bị phân
hoá và chia rẽ, xă hội Việt Nam đă bị băng hoại trầm trọng bởi
những di sản độc hại mà chế độ phi nhân cộng sản đă để lại cho
dân tộc suốt 80 năm nay kể từ khi Hồ Chí Minh lén lút du nhập
cái chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Mang bọn tội phạm này ra
trước công lư là để mang lại hoà b́nh cho xă hội. “Justice and
peace go hand in hand.” Sau hết, mang bọn tội phạm Việt Cộng ra
trước công lư là một bài học cho các thế hệ tương lai để tránh
những vết xe đổ của lịch sử.
Đi Vào Bất Tử
165,000 quân dân cán chính VNCH đă chết dưới đ̣n thù của cộng
sản trong các trại tù cải tạo phải được tôn vinh là những người
đă hy sinh v́ chính nghĩa quốc gia dân tộc. Tổ quốc sẽ ghi ơn
họ như đă ghi ơn những người chiến sĩ QLVNCH đă chiến đấu và hy
sinh ngoài mặt trận để bảo vệ quê hương. Về phương diện tâm
linh, tôi không tin rằng những người này đă chết mà chỉ tan mờ
đi như h́nh ảnh những người lính trong cái điệp khúc của khúc
ballad nổi tiếng một thời mà Đại Tướng Douglas MacArthur đă nhắc
đến trong phần cuối của bài diễn văn từ biệt đọc tại Lưỡng Viện
Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19-4-1951. Xin ghi lại nguyên văn và không
chuyển ngữ:
“Old soldiers never die; they just faded away.”
Cũng xin ghi lại đây và không chuyển ngữ câu kết của bài diễn
văn từ biệt nổi tiếng đă đi vào lịch sử của Đại Tướng MacArthur
để những người lính chúng ta chiêm nghiệm.
“And like the old soldier of that ballad, I now close my
military career and just fade away, a soldier who tried to do
his duty as God gave him the light to see that duty.”
“Good bye,”
Đây cũng chính là h́nh ảnh của những chiến binh QLVNCH, những
người đă đi chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc dưới ánh hào quang dẫn
đường của Tổ Tiên Lạc Việt và đi vào bất tử.
Và những h́nh ảnh hiên ngang đi vào bất tử của người chiến binh
QLVNCH khi bị sa cơ trong tay quân thù cũng đă được nhà thơ Cung
Trầm Tưởng ghi lại trong bài hành Vạn Vạn Lư được viết tại một
trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn vào năm 1977.
VẠN VẠN LƯ
(Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)
Cung Trầm Tưởng
Ngồi trùm lần bóng tối Mưa về gióng lê thê
Nh́n mây đi lang thang Nai kêu nguồn đâu đó
Mây giăng xám hàng hàng Xưa nay tù ngục đỏ
Trời vào đông ảm đạm Mấy ai đă trở về
Chấn song đan u ám Vỗ vỗ rơi tàn thuốc
Sần sùi nhớp nhúa đen Phà khói vào mông lung
Ran ran nhạc dế mèn Hư vô đẹp năo nùng
Nhởn nhơ cười chẫu chuộc Nụ hôn đời khốc liệt
Vỗ vỗ rơi tàn thuốc Cơi sầu ta tinh khiết
Phà khói vào hơi sương Thép quắc vầng trán cao
Xa xưa trống lên đường Phong sương dệt chiến bào
Tiếng quân hô hào sảng Với máu xe làm chỉ
Nẻo cồn vàng băi trắng Đă đi trăm hùng vĩ
Sa trường hề sa trường Xông pha lắm đoạn trường
Tiết tháo quắc đao thương Về làm đá hoa cương
Chinh nhân ngàn dặm ruổi Gửi đời sau tạc tượng
Gió lên như địch thổi Uống uốngnguyên hàm lượng
Đưa ai qua trường giang Sương trong cất đầy ṿ
Nay cô liêu bạt ngàn Sầu này thước nào đo
Tiễn ta vào bất tử Khi đao rơi kiếm gẫy
Đau thương là vinh dự Gió về lay lau dậy
Chân đi hất hồng trần Sơn khê khói mịt mù
Anh hùng phải gian truân Ngà ngà nhấp thiên thu
Hy sinh là tất yếu Bay…bay…vạn vạn lư
Ngựa phi ḍn nước kiệu… Tráng sĩ hề tráng sĩ!
Cung Trầm Tưởng
Hoàng Liên Sơn, 1977
Trong khi viết bài này, tôi luôn luôn nghĩ đến những người bạn
tù đă chết v́ đ̣n thù của cộng sản trong đó có anh bạn tại trại
6, liên trại 2 tại Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi cùng thuộc đội “lao
động nặng.” Anh nằm cách tôi một người bạn. Vào một tháng cuối
năm 1977, cả đội tù chúng tôi khoảng 50 người phải đi phát quang
một khu đồi rộng 300 mẫu để trồng khoai ḿ. Khu đồi này cách
trại giam khoảng 15km đường rừng. Ban ngày đi làm khổ sai; đêm
đông về, đói và lạnh, chúng tôi phải ngủ trong những túp lều
trống gió, mái che bằng những tấm nylon cá nhân, dựng tại chân
đồi. Tuy là lính nhưng dáng người anh nho nhă. Trong đầu anh
chứa cả một bộ từ điển bách khoa. Năm đó anh chừng 45 tuổi. Sau
hai tháng khổ sai tại khu đồi 300, trở lại trại tù ít ngày th́
anh chết v́ suy dinh dưỡng và kiệt sức nhưng tinh thần anh luôn
luôn vững mạnh. Giờ này, thân xác anh có thể c̣n đang bị cộng
sản chôn giấu tại một góc rừng nào đó trong vùng Hoàng Liên Sơn
trong nỗi đau khôn nguôi của vợ con anh. Tên anh là Đặng Vũ
Ruyến, Trung Tá, Chánh Sở Địa H́nh tại Đà Lạt.
Kể từ ngày đó đến nay đă hơn 30 năm, mỗi khi nhớ đến Anh, tôi
vẫn không tin là Anh đă chết mà Anh đang bay…bay vào Vạn Vạn Lư,
và…fade away…vào nơi bất tử.
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 1 năm 2010
SanJose, California
Tài liệu tham khảo:
- http://untreaty.un.org/cod/icc/statute/99_corr/2.htm,
The Rome Statute of the ICC
- http://www.geocities.com/cabvoltaire.geo/MacAthure, Douglas MacAthur’s Farwell Speech to Congress
- http://www.opinionjournal.com/best/?id=110010372, The
Wall Street Journal, from the WSJ Opinion Archives by James Tananto
- http://un.org/en/law/index.shtml, International law,
international Courts …
- http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/specialsession/9/FactFindingMission.htm,
United Nations Fact Finding Mission on the Gaza conflict
--------------------------------------------
Nhà Tù Cộng Sản Việt Nam
Hành hạ, tù đày và sức khỏe. ... Người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với “Sen Đầm Quốc Tế Mỹ” vừa nghi kỵ nhưng vừa trục lợi với “Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm”. Đă 30 năm rồi người ta vẫn linh đ́nh ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong ngoài nước, th́ phải chăng “nói vậy mà không làm vậy”. Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy ḍng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên t́m tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta t́m cách phá hủy. Thiết nghĩ rằng, những người cộng sản đă quá vô cảm, chẳng c̣n một chút t́nh người. .... “Buồng trống trơn không có thứ ǵ ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó....Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau...
---------------------------------------------------------------
Hành Hạ, Tù Đày Và Sức Khỏe
Nguyễn Ư
Đức
Câu Chuyện Thầy Lang
Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y
giới chúng tôi đă có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người
mang những tâm trạng rối loạn về thể chất rất đáng để ư. T́m
hiểu căn nguyên của các bệnh t́nh này cũng không mấy khó khăn v́
đa số là nạn nhân của một quá tŕnh bị hành xác triền miên, đă
mấy chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn
c̣n. Đó là những người được mệnh danh là “ Tù Nhân Cải Tạo”.
Sao mà cứ “ăn cơm mới nói chuyện cũ” hoài vậy?
Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai
nhắc tới cuộc chiến ở Việt Nam với các hậu quả của nó. Một trong
những hậu quả bi thảm nhất là sự hành hạ các anh chị em quân cán
chính miền Nam trong nhiều trại tù đầy sau ngày 30/04/1975. Nếu
có ở trong hoàn cảnh của họ th́ ta mới hiểu được những đau đớn
mọi mặt mà họ đă phải trải qua.
Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn
luôn hậm hực với “Sen Đầm Quốc Tế Mỹ” và nghi kỵ nhưng trục lợi
với “Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm”. Đă 30 năm rồi người ta vẫn linh
đ́nh ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng
trong ngoài nước, th́ phải chăng “nói vậy mà không làm vậy”. Và
chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy ḍng chữ
tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên
t́m tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta t́m cách
phá hủy. Thiết nghĩ rằng, những người cộng sản đă quá vô cảm,
chẳng c̣n một chút t́nh người.
Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. V́
chính những nhân vật chủ trương ra lệnh tù đầy “ngụy quân, ngụy
quyền” hồi đó cũng đă lên tiếng nhận có sai lầm chính sách về
chuyện cô lập vô nhân đạo này.
Sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả
thù đẫm máu v́ đă có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng
tới phút chót, người thắng trận miền Bắc đă nghĩ ra một giải
pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm dài lâu hơn.
Quân cán chánh Việt Nam Cộng Ḥa đă được khuyến dụ tŕnh diện để
“học tập” ngắn hạn. Gọi là “t́m hiểu đường lối, chính sách của
nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”.
Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai
nấy trở về với gia đ́nh, phục vụ đất nước.
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy năo, hành xác. Có người
vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù
đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại c̣n một số đáng kể chết
mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đă kể lại
nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy.
Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng ḿnh.
“Rồi mai đây, nếu v́ may mắn nào đó, tôi được sống trong môi
trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả
những ǵ đă xẩy ra, đă khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng
tích khổ đau, hờn hận!”, Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang
152.
Sau đây là một số nhân chứng đă trải qua các cuộc hành xác tù
đầy, kể lại những h́nh thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép
các tác giả trích đăng để thế hệ con cháu trong ngoài nước hiểu
rơ mà tránh đi vào vết xe cũ. Cũng để cảm ơn v́ các ghi chép đă
giúp thầy thuốc hiểu rơ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của
thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc.
Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chi.
Điều kiện sống mất vệ sinh
Vệ sinh trại: Chật chội, ngột ngạt hơi người, mùi hôi của
mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả
ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đă cạn nước, nhiều khi
có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi
cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất…
“Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào
thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy.
Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại...
Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra
một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá
xa. Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu
Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải ḿnh tôi như
vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát.
Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do
Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm
mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc
ǵ bất thường th́ phải chờ lâu tới ba tuần”, Tầng Đầu Địa
Ngục - Linh Mục (LM) Nguyễn Hữu Lễ
Nhà cầu nổi:
“Buồng trống trơn không có thứ ǵ ngoài mấy cái ống bẩu bằng
luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét
để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó....Khi đi đại tiện,
người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống
hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau...
Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc
phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng,
v́ trong lúc “thi hành nghĩa vụ” của bản năng, nói nôm na là “đi
cầu”, người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái ống bẩu.
Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông,
tuột tay làm đổ phân tung toé trong buồng..
V́ đă làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và
thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng
ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám ǵ trong cái buồng giam kín như
cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất
hẹp, không khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ
phải thở ra hít vào buồng phổi ḿnh cái hơi nóng của bầu khí
trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đă đặc quánh lại thành một
thứ chất dẻo, không c̣n là ở thể khí nữa”, Tầng Đầu Địa
Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.
Lao động quá sức
Tù nhân bị ép buộc phải liên tục “hạ quyết tâm” làm những điều
mà trại đặt ra như sau:
“Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ
Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đă khoan hồng
tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho
tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để
đền ơn Đảng, tôi nhất trí:
1-Tích cực học tập cải tạo lao động tốt.
2-Giải phóng mọi t́nh cảm gia đ́nh yếu đuối và t́nh nguyện ở lại
trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận
tiến bộ cho về phục vụ xă hội, phục vụ nhân dân.
3-Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm
chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại.
Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo
khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi
mặt.
4-Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại
đang c̣n ư đồ chống phá cách mạng.
5- Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như
một của cách mạng”. Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học
Máu trang 100.
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được
đi lao động để giác ngộ!
Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: Cuốc đất:
150m2/ngày/người; Trồng ḿ: 5000m2 / 1 ngày/4 người; Khai quang:
300m2/ngày/người; Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước /hai
người một cây, xa 3 cây số đường kính 10 phân, dài 4 thước hai
người năm cây một ngày.
Dọa nạt, nhục mạ
“Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà
ăn cứt, ngày về của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đă lên
lớp cho chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có t́nh trạng
lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để
có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày
trong này mất thôi”, Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh,
trang116.
“Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm cải tạo đề
ra, nhưng nó không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người!
Các anh đừng có giả vờ “nín thở qua sông” để hết cho ba năm th́
về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15
hay 20 năm đó!”, Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 439.
Bỏ đói khát
Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người
tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác
này.
“ Đă hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt
nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có,
mỗi ngày lănh hai chiếc bánh ḿ luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và
một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được
ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và
chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên
nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300
gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí
500 chất bột.”, Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.
Ăn bất cứ thứ ǵ là thịt
“ Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái,
không trắng không đen. Anh t́m sợi dây, buộc đầu con rắn cạp
nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ
rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng
cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống
suối, ḍng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ
ruột, rửa nước suối rối sắt ra từng khúc, bỏ vào lon ghi gô, cho
chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm
tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng
ngồi trên tảng đá sát ḍng suối ăn hết con rắn một cách ngon
lành”, Tạ Tỵ –Đáy Địa Ngục, tr. 439.
Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài
chục con cá ngừ mục thối nấu với rau, từ xa đă ngửi thấy mùi
hôi...Cho ăn để khỏi chết đói, đó là khẩu hiệu của trại.
Có nhiều tù nhân đă nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang
hàng triệu vi trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn
phải quả độc “ đứt thần kinh, sùi bọt mép, lên kinh phong rồi
chết”
“Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là
bạn bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên
ḿnh một cái vừa đựng nước uống ra băi, vừa dùng để nấu canh tại
băi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được t́m thấy ngay tại
hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín
xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái
bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái th́
“canh có người lái”, tù gọi là Protein; con ǵ cũng qui vào chất
thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu: “con ǵ nhúc nhích là ăn
được”; rau ǵ ăn không chết th́ ăn”... Nguyễn Chí Thiệp,
Trại Tù Kiên Giam.
“Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng c̣n 9 kg lương thực
ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ
vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đă đưa cơm vào cổ”. Đến bữa ăn
phải kềm hăm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua
thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức
ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ
thể ḅn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được
sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại
tiện một lần, v́ đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để
ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên
suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”
Nguyễn Chí Thiện - Trại Tù Kiên Giam, trang 35
Thiếu thốn
Chia nhau vài th́a đường: “Anh ta cầm nhanh lấy cái th́a và
với một tư thái rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia
dở và bắt đầu chia lại. Mười người mười phần. Trợ chia thật khéo
nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run làm một vài hạt đường
rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh vội
lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta
bực ḿnh nhưng người ta không thể giành lại những hạt đường đă
dính vào những ngón chân cáu bẩn của kẻ khác. Mỗi người được ba
th́a đường sau ba tháng tù”, Hà Thúc Sinh - Đại Học Máu,
trang 148.
“Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi
ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai
con mắt hoạt động tích cực để t́m nhặt những thứ cần thiết cho
cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm
nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn th́ cái bàn chải đánh răng
cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ
tôi đang cố học”, Tầng Đầu Địa Ngục - LM Nguyễn Hữu
Lễ.
Hành hạ cơ thể
“Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các h́nh thức vi phạm
nguyên tắc mà tù nhân bị “đại ca” ra h́nh phạt tương xứng theo
luật giang hồ tù.
Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt
phải đi vào khuôn phép th́ chỉ cần sử dụng “chưởng” tức là đánh
bằng ḥn đá bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc
đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn th́ “lấy cấp
pha” tức là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân
gót chân. Trường hợp nghiêm trọng th́ đối phương sẽ được “cất”
có nghĩa là giết chết”, Tầng Đầu Địa Ngục - LM Nguyễn
hữu Lễ.
“Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ:
- Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây
lười, không cố gắng, không có kỷ luật ǵ hết!
Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào
thân xác ba người tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đ̣n đau quá chỉ
biết rú lên những câu quen thuộc “Mô Phật”, rồi nhắm mắt, oằn
người lên chịu đựng”, Phạm Quang Giai -Lần cuối bên anh,
trang 247”
Bắt quỳ để trừng phạt
“Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng “ngụy”
vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng
mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nh́n nhau chẳng ai
chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến
đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm
ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ
đi...”, Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang 116.
“ Hai chân tôi bị c̣ng chéo để bức cung. C̣ng chéo hai chân
bị đóng cứng chặt giữa hai cái c̣ng h́nh chữ U và thanh sắt
xuyên. V́ độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra
không thể nằm thẳng lưng, v́ nằm như vậy thân ḿnh căng ra hai
chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị c̣ng
phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm
ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày
hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp th́ hai chân sẽ thẳng ra
nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đă sưng húp v́ ban
đêm bị lắc c̣ng điểm danh”, Trại Tù Kiên Giam -
Nguyễn Chí Thiện, tr 473.
Bệnh xá- Bệnh tật
“Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục,
chân tay bụ bẫm v́ bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác
chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo
gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn
bệnh phù thũng trầm kha...”, Đại Học Máu - Hà Thúc
Sinh, tr. 251.
“Nói là bệnh xá cho xôm tṛ chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có
sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây th́ đă có hai mươi trại
viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó
những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự
giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này
không cùng một trại với tôi.
Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung
như sau: - Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân
dân nhưng đảng và nhà nước ta đă tha tội chết cho anh, anh đau
ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết
điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người
khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá.
Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân
tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá”, AK và
Thập Giá - LM Phan Phát Huồn.
“Tại bệnh viện tôi đă nghe nói và chứng kiến những cuộc “căng
mùng” ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để
tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào
trong mùng. V́ không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào
giường, lại c̣n có các anh hộ lư đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân
khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo
râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có
cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết”, AK và Thập
Giá -LM Phan Phát Huồn.
“Bệnh nhân bị bệnh ǵ gă cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết
ly, tiêu chẩy: xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên.
Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm liên.V́ thế rất nhiều bệnh nhân
chết oan uổng”, Thanh Thương Hoàng, Những Nỗi Đau Đời,
trang 51.
Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác
“Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ư dùng chân móc cú
đá hậu vào khuỷu đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh
vệ tiếp theo cái lao chao của Trác bằng một cú đập mạnh báng
súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc không c̣n đủ
sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác
vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối th́ liền lúc đó tên
này tung người lên dùng một đ̣n hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác
của Trác. Các đồng đội của Trác ngồi trong ṿng tṛn đều nhắm
mắt mỗi khi nh́n thấy tên cảnh vệ dùng những cú giầy đinh nện
mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan ḥa trên hiện
trường sám hối”, Phạm Quang Giai, Lần Cuối Bên Anh,trang
165.
“Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn
pḥng xung quanh. Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên
đèn bật sáng chói, nàng thấy ḿnh đang ở trong một căn pḥng
toàn những dụng cụ tra tấn….Nàng thấy ghê tởm, rồi tự dưng trong
nàng nảy ra một ư định t́m cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng
đang nghĩ…Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại
sát tường, mắt ánh lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc
nách một người đàn ông, kéo sệt trên nền xi-măng. Mặt người đó
tím bầm, hai bên mép ứa máu c̣n chẩy ra ṛng ṛng, tóc rối bù
bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, ḿnh trần trụi bê bết máu, chân
tay mềm nhũn ra…”, Trần Nhu, Địa Ngục Śnh Lầy, trang
163.
Cô lập trong hầm đá
“Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc
ch́a khóa vào ổ rồi quay một ṿng nghe răng rắc. Hắn kéo chiếc
cửa sắt nặng nề ra, để lộ một không gian tối om. Mùi hôi thối từ
trong pḥng xông ra; đồng thời với tiếng hú ma quái ngân dài lê
thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ binh
trở lại chỗ Sâm ra lệnh:
-Vũ Sâm! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp
của mày.
Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật
nhanh, anh lọt hẳn vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nh́n tên
vệ binh lần chót trước khi ch́m hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ
và tăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành một tiếng sầm khô
khan”, Phạm Quang Giai, Lần Cuối Bên Anh, trang 43.
Ngoài ra c̣n nhiều cách hành hạ khác như:
Trói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy
ải ngoài nắng, nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất;
đá đít, bạt tai; giả xử tử bắt uống những thuốc lạ d́m dưới
nước; làm cho nghẹt thở treo lơ lửng trên không; gây tổn thương
cho ngọc hành/ cơ quan sinh dục; tạt phân, nước tiểu lên mặt;
tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân;
không cho ngủ bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn...
Những hành hạ trên đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống
sót.
Kết luận
Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa
tới đau đớn về thể xác và tâm thần nạn nhân.
Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn c̣n được rất nhiều
quốc gia trên thế giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến
cho cơ quan này không ước lượng được số nạn nhân mà chỉ nêu ra
một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, v́ chiến tranh, đàn áp,
tiêu diệt chủng tộc.
Các nhà tâm lư xă hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn,
hoặc đúng ra là để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người
cho tới một mức độ mà sự hồi phục trở nên tốn kém đôi khi không
sao thực hiện được. Mà đa số nạn nhân bị đối sử tàn tệ sau đó
lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ
gặp nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống
mới, ngôn ngữ mới. Đó chính là trường hợp các cựu tù nhân quân
cán chính Việt Nam Cộng Ḥa.
Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc
khác nhau tùy theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ,
phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhă; cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới
sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi thẹn, xấu hổ. Chắc
chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có quyền
đă để lại trên cơ thể tâm hồn họ. Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại
rất lâu, có khi suốt đời. Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm
buồn, những cơn ác mộng sẽ thường trực đến với họ và có nhiều
tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như gia đ́nh. Rồi lại c̣n
những suy nhược tim gan tỳ phế v́ thiếu ăn, thời tiết khắc
nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc. Nhiều ngàn người
hiện nay không thi vào quốc tịch mới được v́ trí nhớ suy kém,
giảm khả năng học ngoại ngữ. Và c̣n cần sự chăm sóc của giới y
tế đồng hương trong nhiều năm c̣n lại của cuộc đời.
Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đă xẩy ra có hy vọng một
phần nào mang họ trở lại cuộc sống b́nh thường. Cũng như một
hành động, một lời nói “sorry”(xin lỗi) từ phía chính quyền hiện
tại. Như người da trắng đă sorry với nô lệ da đen bị kỳ thị, bóc
lột trong thế kỷ trước. Cũng như Giáo hội Công giáo đă nh́n nhận
nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với
những cá nhân hoặc cộng đồng.
Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha
chú, chắc cũng rùng ḿnh kinh sợ. Kinh nghiệm Holaucost vẫn c̣n
ám ảnh lương tâm loài người sau cả trên nửa thế kỷ. Cũng như
thảm cảnh tù đầy “cải tạo” ở Việt Nam vào thập niên 70-80 của
thế kỷ vừa qua.
Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo
tưởng với hào quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà
ḿnh đă áp đặt lên những anh em cùng chung một bọc, Trăm Con
Trăm Trứng Tiên Rồng.
-----------------------------------------
Nghe phỏng vấn Thượng Tọa Thích Thiện Minh về chuyện nhà tù Cộng Sản