LƯ DO CUỘC ĐẢO CHÁNH NGÀY 1-11-1963
- Trần Gia Phụng
Cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm
ngày 1-11-1963 có thể bắt nguồn từ các lư do
chính sau đây: tập trung quyền lực, vấn đề tôn
giáo và sự can thiệp của Hoa Kỳ.
1.- TẬP TRUNG QUYỀN LỰC
Sau khi cầm quyền ngày 7-7-1954, chính phủ của
thủ tướng Diệm ổn định t́nh h́nh, đánh các đảng
phái chính trị ở miền Trung, dẹp vụ B́nh Xuyên,
loại lực lượng vơ trang các giáo phái ở miền Nam,
tổ chức Trưng cầu dân ư ngày 23-10-1955, truất
phế Bảo Đại, tự tuyên bố thành lập nền Cộng Ḥa
và tự tuyên bố trở thành tổng thống đầu tiên của
Việt Nam Cộng Ḥa. (1)
Tuy nền Cộng ḥa được phân nhiệm rơ ràng, chính
phủ trung ương gồm nhiều bộ trưởng điều hành
việc nước, đồng thời tản quyền cho các ṭa đại
biểu tại các vùng (Trung nguyên Trung phần, Cao
nguyên Trung phần, Miền Đông Nam phần, Miền Tây
Nam phần), nhưng ngoài tổng thống Diệm, quyền
hành nằm trong tay một số người là các ông bà
Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn, và một số ít người
thân tín. Tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục không
chính thức giữ một chức vụ hành chánh hay chính
trị nào, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến tổng thống
Diệm, đến các bộ trưởng trong chính phủ và các
viên chức địa phương. Lúc đó, dư luận cho rằng
tổng thống Diệm chủ trương độc tài và gia đ́nh
trị.
V́ vậy, chính phủ Diệm càng ngày càng bị phản
đối, nổi bật nhất là các vụ: 1) Ngày 26-4-1960,
18 chính khách tên tuổi trong Uỷ Ban Tiến Bộ Và
Tự Do họp tại khách sạn Caravelle ở Sài G̣n, ra
kháng thư công khai phản đối chế độ Ngô Đ́nh
Diệm độc tài. 2) Ngày 11-11-1960 của nhóm Nguyễn
Chánh Thi, Vương Văn Đông đảo chánh hụt. 3) Ngày
27-2-1962, hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm
Phú Quốc ném bom dinh Độc Lập.
Về phía chính phủ, tổng thống Diệm càng ngày
càng tập trung quyền lực, chỉ tin dùng những
người trong gia đ́nh và trong đảng Cần Lao,
không mở rộng thành phần chính phủ. Chính phủ
càng ngày càng trở nên cứng rắn với những thành
phần không đồng chính kiến. Ngày 5-7-1963, Ṭa
án Quân sự đặc biệt nhóm họp tại Sài G̣n, bắt
đầu xét xử 19 quân nhân và 34 nhân sĩ liên can
đến cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960. Kết quả,
ngày 11-7-1963, ṭa tuyên 20 án cấm cố và 14
trường hợp tha bổng. Hôm sau, ngày 12-7-1963 ṭa
xử các quân nhân và nhân sĩ vắng mặt. Trong số
những người được tha bổng, có nhà văn Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam.
Tuy không bị bắt giam và chỉ bị gọi ra ṭa xét
xử, Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự tử ngày
7-7-1963. Trước khi quyên sinh, Nhất Linh đă để
lại những ḍng tuyệt mệnh như sau: “Đời tôi để
lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt
bớ và xử tội tất cả các phần tử Đối lập Quốc Gia
là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay Cộng
sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy ḿnh cũng như
Ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo
những người chà đạp mọi thứ tự do.” (1)
Vụ tự tử của Nguyễn Tường Tam và vụ tự thiêu của
thượng tọa Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963 (tŕnh
bày phía dưới), mở đầu một loạt tự thiêu của các
tăng ni khác, là những phản kháng công khai mạnh
mẽ nhất đối với chế độ của tổng thống Diệm.
2.- DỤ SỐ 10 VÀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Chính sách tôn giáo của chính phủ Diệm dựa trên
Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành ngày
6-8-1950 dưới thời quốc trưởng Bảo Đại. Dụ nầy
ấn định quy chế các hiệp hội, gồm có 5 chương,
45 điều. Điều 1 của dụ nầy sắp các tôn giáo, trừ
Ky-Tô giáo, vào loại hiệp hội thường (như hội
thể thao, hội đua ngựa...); trong khi điều 45
của dụ nầy cho biết sẽ ấn định quy chế đặc biệt
cho các hội truyền đạo Ky-Tô và các hội Hoa kiều. (2)
Dụ nầy cũng quy định các tôn giáo và hội đoàn
chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng,
hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi.
Dụ nầy rơ ràng không công bằng giữa các tôn giáo.
Ngoài đạo Thờ cúng ông bà, người Việt theo các
đạo chính: Phật giáo, Nho giáo, Lăo giáo, Ky-Tô
giáo, Cao Đài giáo và Phật giáo Ḥa Hảo (PGHH).
Trong các đạo trên đây, tổng số tín đồ Phật giáo,
Nho giáo, Lăo giáo, Cao Đài giáo và PGHH chiếm
tỷ lệ rất lớn trên tổng dân số Việt Nam, có thể
lên đến trên 80% dân số, th́ bị xếp như các hiệp
hội, trong khi Ky-Tô giáo với số lượng tín đồ ít,
th́ được hứa hẹn một quy chế đặc biệt. Dầu vậy,
do sự uyển chuyển của các nhà cầm quyền thời
quốc trưởng Bảo Đại, dụ nầy không được thi hành,
nên chưa xảy ra cuộc chống đối mạnh mẽ nào.
Cần chú ư là sau dụ số 10 ngày 6-8-1950 cho đến
đầu thập niên 60, t́nh h́nh tôn giáo Việt Nam
thay đổi rất nhiều, nhưng dụ số 10 ngày 6-8-1950
vẫn không được điều chỉnh. Càng ngày hệ thống tổ
chức tín đồ các đạo Phật giáo, Cao Đài giáo và
PGHH càng có quy củ. Riêng Phật giáo, ngày
6-5-1951, các hội Phật học trên toàn cơi Việt
Nam họp tại chùa Từ Đàm (Huế), thành lập Tổng
Hội Phật giáo Việt Nam, thông qua bản điều lệ,
nội quy, bầu ban quản trị và suy cử ḥa thượng
Thích Tịnh Khiết làm tổng hội chủ.
Trong thời gian đầu của chế độ VNCH, dụ nầy hầu
như không được áp dụng. Ngày 6-5-1963, hai ngày
trước lễ Phật đản, đổng lư văn pḥng Phủ tổng
thống gởi công điện yêu cầu các địa phương không
được treo cờ ngoài khuôn viên của chùa, (3) theo
đúng tinh thần dụ số 10 ngày 6-8-1950. Công điện
nầy chẳng những làm cho giới Phật tử bất b́nh,
mà c̣n làm cho dân chúng nói chung, dù không
phải là tín đồ Phật giáo, cũng không bằng ḷng,
v́ trước đó trong các dịp lễ Ky-Tô giáo, cờ Ṭa
thánh Vatican (màu vàng và trắng) được treo tự
do mà không bị chính phủ cấm đoán.
Trong các đạo trên đây, trên lănh thổ VNCH, Cao
Đài giáo và PGHH phát triển mạnh ở các tỉnh miền
Nam, thuộc đồng bằng sông Cửu Long; Phật giáo
thịnh hành ở các tỉnh miền bắc VNCH, nhất là Huế,
nơi có nhiều chùa được thành lập từ thế kỷ 17
trở đi.
Về phía Ky-Tô giáo, lúc bấy giờ tổng giám mục
địa phận Huế là Ngô Đ́nh Thục, anh của tổng
thống Diệm. Ngô Đ́nh Thục thụ phong giám mục tại
Huế năm 1938, được cử làm giám mục đầu tiên địa
phận Vĩnh Long. Năm 1961, Ngô Đ́nh Thục được đổi
ra làm tổng giám mục tổng giáo phận Huế. Tính
đến năm 1963, ông Thục được thâm niên giám mục
25 năm.
Lúc đó dư luận cho rằng nhân dịp lễ ngân khánh
(25 năm) của ḿnh, tổng giám mục Thục vận động
để được Ṭa thánh La Mă phong chức hồng y. (4) Dư luận nầy c̣n thêm rằng ông Thục tŕnh với Ṭa
thánh Vatican rằng số tín đồ trong tổng giáo
phận Huế, lúc đó gồm hai tỉnh Thừa Thiên và
Quảng Trị, do ông cai quản chiếm 80% dân số khu
vực. Tháng 5-1963, Ṭa thánh cử một phái đoàn
điều tra đến Huế, th́ dân chúng Phật tử đang
treo cờ mừng Phật đản. Kết luận sơ khởi của phái
đoàn là chỉ có 20% dân chúng địa phận Huế theo
Ky-Tô giáo chứ không phải 80%. (5) Vào ngày
7-5-1963, sau khi thăm viếng nhà thờ La Vang (Quảng
Trị) và trở về Huế, tổng giám mục Thục nhận thấy
dọc đường dân chúng treo nhiều cờ Phật giáo để
đón mừng Phật đản (8-5-1963). Tổng giám mục Thục
cho mời viên đại biểu chính phủ tại Trung nguyên
Trung phần là Hồ Đắc Khương đến Ṭa tổng giám
mục Huế khiển trách là tại sao ṭa đại biểu
chính phủ lại để tín đồ Phật giáo treo cờ ngoài
đường, trái với quy định của chính phủ v́ quy
định nầy chỉ cho phép treo cờ trong khuôn viên
của chùa mà thôi.
Hồ Đắc Khương gởi khẩn điện về Sài G̣n xin ư
kiến. Điện văn trả lời của phủ tổng thống “xác
nhận rằng nghị định cấm treo cờ tôn giáo hay
đảng phái bên ngoài khuôn viên và trụ sở vẫn c̣n
giá trị”. Dựa vào công điện nầy, Hồ Đắc Khương
“ra lệnh cho chính quyền địa phương tại miền
Trung phải triệt hạ cờ Phật giáo”. (CVL, sđd. tr
229.) Từ đó, bùng nổ cuộc phản đối.
Tối Phật đản 8-5-1963, khi dân chúng tụ tập ở
Đài phát thanh Huế để theo dơi buổi tường thuật
Lễ Phật đản ngày hôm đó, một tiếng nổ bùng lên,
làm thiệt mạng 8 người và bị thương 15 người.
Tin tức về vụ nổ được lan truyền nhanh chóng.
Người ta không biết đích xác ai gây ra vụ nổ.
Chính quyền đổ lỗi cho khủng bố Việt Cộng. Dân
chúng đổ lỗi cho chính quyền Huế ném chất nổ để
giải tán đồng bào Phật tử. (6) Dù ai gây ra vụ nổ,
vụ nổ đă làm cho 8 người thiệt mạng. Tức th́,
làn sóng phản đối chính quyền càng ngày càng
dâng cao và càng trở nên bạo động.
Trước hết, ngày 9-5-1963, tại Sài G̣n, Ủy Ban
Liên Phái bảo Vệ Phật Giáo được thành lập, do
thượng thọa Thích Tâm Châu làm chủ tịch, Mai Thọ
Truyền làm tổng thư kư, văn pḥng đặt tại chùa
Xá Lợi, trên đường Bà Huyện Thanh Quan. Ủy ban
gồm 11 hội đoàn Phật giáo.
Sau lễ Phật đản, Hồ Đắc Khương, đại biểu chính
phủ ở Trung nguyên Trung phần bị thay thế ngày
1-6-1963. Người được bổ nhiệm đến thay là Nguyễn
Xuân Khương, nguyên tổng giám đốc Điền địa.
Nguyễn Văn Đẳng tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên,
cùng thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng nội an
tỉnh Thừa Thiên, bị triệu về đợi lệnh tại bộ Nội
vụ ở Sài G̣n. (Đoàn Thêm, sđd. tr.349.) Một quan
chức khác cũng bị thay thế là thiếu tướng Lê Văn
Nghiêm, tư lệnh quân đoàn I, được thay ngày
16-9-1963 bằng một đại tá mới thăng thiếu tướng
là Đỗ Cao Trí. Trong khi đó, Ngày 4-6-1963, tổng
thống Diệm thành lập Ủy ban Liên bộ của chính
phủ để nghiên cứu những yêu cầu của Phật giáo,
do phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu.
Ngày 11-6-1963, tại thủ đô Sài G̣n, thượng tọa
Thích Quảng Đức tự thiêu ở ngă tư đường Phan
Đ́nh Phùng và Lê Văn Duyệt, để phản đối chính
phủ. H́nh ảnh Thích Quảng Đức tự thiêu trong
ngọn lửa bập bùng làm rúng động toàn thể dân
chúng Việt Nam và dân chúng thế giới. Sau các
cuộc họp giữa Uỷ ban Liên bộ của chính phủ và
phái đoàn Uỷ ban Liên phái Phật giáo do thượng
tọa Thích Thiện Minh cầm đầu từ 14-6 đến
16-6-1963, chính phủ Diệm nhượng bộ, đồng ư để
Phật tử tự do treo cờ và tạm ngưng áp dụng sắc
dụ số 10 ngày 6-8-1950.
Ngày 9 và 29-7-1963, bộ Nội vụ liên tiếp ra hai
nghị định công nhận cờ Phật giáo và việc treo cờ
Phật giáo. Tuy nhiên, một mặt những cuộc tập họp
về phía Phật giáo ở Sài G̣n và ở các địa phương
chẳng những bị cản trở, mà một số tín đồ c̣n bị
bắt, một mặt chính phủ tổ chức những hội đoàn
thân chính phủ, lên tiếng phản đối Phật giáo. V́
vậy, mâu thuẫn giữa hai bên vẫn chưa được giải
quyết. Chắc chắn mâu thuẫn nầy c̣n bị Việt Cộng
lợi dụng nhằm đào sâu hố chia rẽ giữa chính
quyền với dân chúng, và giữa các tôn giáo với
nhau.
Ngày 1-8-1963, trả lời phỏng vấn của đài CBS
(Columbia Broadcasting System, Hoa Kỳ), bà Ngô
Đ́nh Nhu tố cáo các lănh tụ Phật giáo đang mưu
toan lật đổ chính phủ và tự thiêu chỉ là việc
“nướng thịt sư” (barbecue a bonze). (CĐ, nb I-C,
sđd. tr. 312.) Tiếp theo đó, ngày 3-8-1963, khi
phát biểu tại lễ măn khóa huấn luyện bán quân sự
của đoàn Thanh Nữ Cộng Ḥa, bà Nhu lên án những
vụ tranh đấu về tôn giáo. Lời lẽ của bà Nhu được
thân phụ bà là Trần Văn Chương, đại sứ Việt Nam
tại Hoa Kỳ, gọi là “thiếu lễ độ” đối với Phật
giáo.(Đoàn Thêm, tr. 357.)
Những ư kiến như trên chẳng những làm cho mối
liên lạc giữa chính phủ Diệm với tín đồ Phật
giáo càng thêm xấu đi, mà c̣n làm cho cả những
người dân b́nh thường cũng bất b́nh với chế độ.
Sau ư kiến của bà Nhu, trong tháng 8-1963, liên
tiếp xảy ra nhiều cuộc phản đối chính phủ, trong
đó quan trọng nhất là các vụ tư thiêu của các
tăng ni Phật giáo.
Ngày 4-8-1963, tại Phan Thiết (B́nh Thuận), đại
đức Thích Nguyên Hương, thế danh là Huỳnh Văn Lễ,
tự thiêu trước dinh tỉnh trưởng. Khuya 12-8, tại
chùa Xá Lợi ở Sài G̣n, nữ sinh Mai Tuyết An, 18
tuổi cầm dao chặt bàn tay trái để phản đối bà
Ngô Đ́nh Nhu; máu ra nhiều nhưng tay không đứt.
Ngày 13-8-1963, đại đức Thích Thanh Tuệ, thế
danh là Bùi Huy Chương, tự thiêu tại chùa Phước
Duyên, Hương Trà, Thừa Thiên. Ngày 15-8-1963, ni
sư Thích Nữ Diệu Quang, thế danh là Nguyễn Thị
Thu, tự thiêu tại Ninh Ḥa (Khánh Ḥa). Ngày
16-8-1963, thượng tọa Thích Tiêu Diêu, thế danh
Đoàn Mễ, tự thiêu ở chùa Từ Đàm, Huế.
Cũng trong ngày 16-8-1963, tại Huế, theo lệnh
của tổng thống Diệm, linh mục Cao Văn Luận, viện
trưởng viện Đại học Huế, bị giải nhiệm và giáo
sư Trần Hữu Thế được cử lên thay. (CVL, tr.
261-263.) Sự thay đổi nầy khiến cho nhiều khoa
trưởng và giáo sư đại học từ chức, và giới sinh
viên phẫn nộ mạnh mẽ.
Dầu càng ngày dân chúng càng phản đối và t́nh
h́nh xă hội càng ngày càng xáo trộn, chính phủ
Diệm vẫn không nhượng bộ. (7) Ngày 18-8-1963,
mười tướng lănh cao cấp đề nghị với chính phủ là
nên ban hành thiết quân luật, để tái lập trật tự.
Dựa vào đề nghị đó, tổng thống Diệm liền quyết
định thiết quân luật trên toàn quốc kể từ 0 giờ
sáng 21-8-1963. Quyết định nầy do quyền tổng
tham mưu trưởng Quân đội VNCH, trung tướng Trần
Văn Đôn, kư tên.
Điều quan trọng trong vụ thiết quân luật nầy là
khoảng nửa giờ sau khi được ban hành, nghĩa là
qua sáng 21-8-1963, chính phủ ra lệnh cho ruồng
bố chùa chiền trên toàn quốc, bắt hết các tăng
ni lănh tụ tranh đấu chống chính phủ. Riêng tại
Sài G̣n, Lực Lượng Đặc Biệt tấn công chùa Xá Lợi
trên đường Bà Huyện Thanh Quan. Các lănh tụ Phật
giáo đều bị bắt, trừ vài người trốn thoát.
Thượng tọa Thích Trí Quang cũng bị bắt, nhưng
sau đó ông trốn được vào Ṭa đại sứ Hoa Kỳ ngày
23-8-1963. (8) Tân đại sứ Henry Cabot Lodge vừa
đến Sài G̣n ngày 22-8-1963.
Sau vụ tấn công chùa, t́nh h́nh càng thêm rối
loạn. Ngày 21-8-1963, Trần Văn Chương đại sứ
Việt Nam tại Hoa Kỳ bị chính phủ Diệm băi nhiệm
và ngược lại Trần Văn Chương tuyên bố từ chức.
Bà Trần Văn Chương tên thật là Thân Thị Nam Trân
từ chức quan sát Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc.
Chiều ngày 22-8-1963, tại Sài G̣n, Vũ Văn Mẫu từ
chức ngoại trưởng.
Lúc đó, bản tin đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA =
Voice of America) loan báo rằng quân đội đă tấn
công chùa, nên trung tướng Trần Văn Đôn cho mời
trung tá Lucien Conein, nhân viên CIA, đến gặp.
Lúc đó trên danh nghĩa chính thức, Lucien Conein
là cố vấn bộ Nội vụ VNCH. Trong cuộc nói chuyện
với Conein vào tối 23-8-1963 tại bộ TTM, tướng
Đôn cho biết rằng quân đội không tham gia vào
việc đánh phá các chùa mà chính là Cảnh sát đặc
biệt của chính phủ. Khi Conein hỏi “Các tướng
lănh Việt Nam có ư định đảo chánh không?”, th́
tướng Đôn dè dặt trả lời “sẽ nói chuyện sau”. (9)
Từ đó, Conein thường liên lạc và ḍ hỏi các
tướng lănh Việt Nam.
Ngày 24-8-1963, tổng thống Diệm cử Trương Công
Cừu làm bộ trưởng Ngoại giao thay Vũ Văn Mẫu và
cũng trong ngày nầy, chính phủ ra lệnh đóng cửa
các trường học ở Sài G̣n, nhưng sinh viên học
sinh vẫn tiếp tục phản đối chính phủ. (Các
trường học mở cửa lại ngày 4-9-1963.) Ngày
25-8-1963, khoảng 300 sinh viên học sinh biểu
t́nh tại công trường Diên Hồng, trước chợ Bến
Thành. Đoàn biểu t́nh bị đàn áp, một nữ sinh tên
là Quách Thị Trang bị bắn chết. Quách Thi Trang,
pháp danh Diệu Nghiêm, khoảng 15 tuổi, nữ sinh
tư thục Trường Sơn (Sài G̣n).
Cũng trước chợ Bến Thành, ngày 5-10-1963, đại
đức Thích Quảng Hương, thế danh Nguyễn Ngọc Kỳ,
tự thiêu để phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo
của chính phủ Diệm, theo như huyết thư mà đại
đức để lại. Sau Thích Quảng Hương, đại đức Thích
Thiện Mỹ, thế danh Hoàng Miều (1940-1963), tự
thiêu trước nhà thờ Đức Bà, Sài G̣n.
Trên thế giới, ngày 9-8-1963, Cambodia, Ceylon
(sau đổi thành Sri Lanka), Nepal đưa vấn đề Phật
giáo Việt Nam ra trước Liên Hiệp Quốc (LHQ). Đại
hội đồng LHQ ngày 8-10-1963 quyết định gởi một
phái đoàn điều tra đến Việt Nam. Phái đoàn LHQ
đến Sài G̣n ngày 24-10-1963. Hôm sau, phái đoàn
đến gặp tổng thống Diệm và tổ chức họp báo. (Đoàn
Thêm, sđd. tr. 364) Phái đoàn chưa hoàn tất công
việc điều tra, th́ chính phủ Diệm sụp đổ ngày
1-11-1963.
3.- VAI TR̉ CỦA NGƯỜI HOA KỲ
Không riêng Hoa Kỳ, tất cả các nước bỏ tiền ra
viện trợ, đều muốn công cuộc viện trợ đạt hiệu
quả và nhất là muốn dựa trên viện trợ để can
thiệp vào công việc nội bộ của nước nhận viện
trợ; hướng dẫn hoặc điều khiển đường lối của
nước đó theo chủ trương của nước viện trợ. Ngược
lại, những nước nhận viện trợ luôn luôn muốn duy
tŕ chủ quyền quốc gia đối với các nước viện trợ,
chống lại sự can thiệp của nước chủ viện.
T́nh trạng giữa Hoa Kỳ và VNCH cũng vậy. Hoa Kỳ
viện trợ cho VNCH để chống cộng, nhưng không
phải chống cộng theo đường lối VNCH, mà là chống
cộng theo đường lối Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một cường
quốc trên thế giới và Hoa Kỳ muốn giữ thăng bằng
ngoại giao với tất cả các nước. Người Hoa Kỳ nổi
tiếng thực dụng, nên chính phủ Hoa Kỳ cũng phải
thực dụng theo quyền lợi của tư bản Hoa Kỳ, mới
có thể được tái cử. Từ đó, giữa chính phủ Hoa Kỳ
và chính phủ VNCH xảy ra những mâu thuẫn trong
cách thức tiến hành viện trợ và chống cộng.
Một điểm cần chú ư là dầu Hoa Kỳ viện trợ cho
VNCH, nhưng trong nội bộ chính phủ Hoa Kỳ, không
phải ai cũng đều ủng hộ tổng thống Diệm. Những
người Mỹ ủng hộ ông Diệm cho rằng chính phủ Diệm
chống cộng hữu hiệu, hoặc chưa t́m ra được một
người khác có khả năng hơn ông Diệm để thay thế.
Những người Mỹ chống ông Diệm cho rằng chính phủ
Diệm tham nhũng, đàn áp đối lập, không chống
cộng hữu hiệu. Một điều quan trọng hơn cả đối
với người Mỹ, nhưng người Mỹ tránh nói công khai,
là ông Diệm không dễ dàng tuân theo đường lối
của Mỹ, và ông Diệm bảo vệ chủ quyền quốc gia
khá cứng rắn, đến độ bảo thủ,.
Sau khi lên cầm quyền vào tháng 1-1961, tổng
thống John F. Kennedy gởi phó tổng thống Lyndon
Johnson sang Việt Nam ngày 11-5-1961. Trong cuộc
hội kiến với phó tổng thống Mỹ, tổng thống Diệm
tuyên bố không chấp nhận việc Mỹ gởi quân chiến
đấu đến Việt Nam, mà chỉ yêu cầu Mỹ gởi cố vấn
sang huấn luyện mà thôi. (Chính Đạo, sđd. I-C,
tt. 223-224.) Sau đó, trong một cuộc tiếp kiến
đại sứ Frederick Nolting (đại sứ từ 10-5-1961),
khi Nolting đề nghị để cho Hoa Kỳ chia sẻ những
quyết định về chính trị, quân sự và kinh tế,
tổng thống Diệm trả lời rằng “chúng tôi không
muốn trở thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ ”. (10)
Có tài liệu cho rằng từ năm 1961, Hoa Kỳ muốn
thành lập căn cứ không quân và hải quân tại Cam
Ranh, nhưng tổng thống Diệm không chấp thuận. (11)
Quả thật, cho đến năm 1964, sau khi tổng thống
Diệm bị sát hại, th́ Đệ thất hạm đội của Hoa Kỳ
mới đưa được một vài đơn vị vào tiền thám tại
đây, và từ 1965 Hoa Kỳ chính thức thành lập căn
cứ Hải quân. Lúc đó, căn cứ nầy kiểm soát hoạt
động toàn vùng biển Việt Nam và Đông Nam Á.
Tại Hoa Kỳ, khi c̣n tại chức, tổng thống Dwight
Eisenhower chủ trương ủng hộ chính phủ hoàng gia
Lào, đánh dẹp Pathet Lào, chận đứng các cuộc nổi
dậy của cộng sản. Lên thay Eisenhower, Kennedy
thay luôn chính sách về Lào. Kennedy giao cho
Averell Harriman, mưu t́m một giải pháp chính
trị để giải quyết chiến tranh ở Lào. Harriman là
phụ tá ngoại trưởng đặc trách Viễn đông (Assistant
Secretary of State for Far Eastern Affairs) từ
tháng 1 đến tháng 11-1961, và trở thành thứ
trưởng Ngoại giao đặc trách về chính trị (Under
Secretary of State for Political Affairs).
Harriman vận động triệu tập hội nghị quốc tế tại
Genève nhằm trung lập hóa nước Lào.(12) Hội nghị
bắt đầu từ 16-5-1961 đến 23-7-1962, đưa đến hiệp
định công nhận Lào là một nước độc lập và trung
lập, do hoàng thân Souvanna Phouma làm thủ tướng.
Hiệp định trung lập nước Lào bị chính phủ Diệm
phản đối, v́ chính phủ Diệm lo ngại rằng Lào sẽ
không đủ khả năng tự bảo vệ biên giới chống lại
sự xâm nhập của cộng sản Việt Nam, tạo cơ hội
cho quân Bắc Việt vào đất Lào, để rồi theo đường
Trường Sơn, xuống quấy phá Nam Việt. Lúc đầu,
tổng thống Diệm không chịu kư vào bản hiệp định
trung lập hóa nước Lào. Điều nầy làm cho
Harriman tức giận và căm ghét tổng thống Diệm.
Tổng thống Kennedy liền gởi thư cho tổng thống
Diệm, bảo đảm rằng Hoa Kỳ sẽ không trung lập hóa
Nam Việt, và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ cho Nam
Việt, để chống cộng sản. Do áp lực từ phía Hoa
Kỳ, tổng thống Diệm đành nhượng bộ, chấp nhận
cho ngoại trưởng VNCH kư vào hiệp định nầy.
(Mark Moyar, tt. 163-164.)
Bên cạnh đó, từ giữa năm 1962, chính phủ Hoa Kỳ
khá bận tâm về các nguồn tin cho rằng chính phủ
Diệm đang ngầm liên lạc với nhà nước cộng sản Hà
Nội. Sự việc nầy bắt đầu vào mùa hè năm 1962,
khi cố vấn Ngô Đ́nh Nhu cầm đầu phái đoàn Việt
Nam qua Maroc (Morocco), thăm xă giao nước nầy.
Tại đây, ông Nhu gặp Antoine Pinay, lúc đó làm
bộ trưởng Phủ tổng thống Pháp. Pinay đề nghị một
cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Hà Nội và Sài G̣n để
bàn chuyện hiệp thương Nam Bắc. Về lại Việt Nam,
Ngô Đ́nh Nhu mượn cớ đi săn cọp, đă bí mật gặp
tại B́nh Tuy một nhân vật cao cấp của cộng sản
là Phạm Hùng, ủy viên Bộ chính trị đảng Lao Đông.(13)
Từ tháng 8-1962, Joseph A. Mendenhall, cố vấn
chính trị Ṭa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n, đă đề
nghị loại bỏ tổng thống Diệm, vợ chồng Ngô Đ́nh
Nhu và những người trong gia đ́nh ông Diệm, bằng
một số nhân vật khác, v́ các ông Diệm Nhu không
chịu thay đổi lề lối làm việc dù bị Hoa Kỳ áp
lực. (Chính Đạo, nb. I-C, sđd. tt. 256-257.) Lề
lối làm việc ở đây có nghĩa là chủ trương chính
sách của tổng thống VNCH. Như thế, có nghĩa là
người Hoa Kỳ có ư định loại bỏ tổng thống Diệm
trước khi xảy ra biến cố Phật giáo vào tháng
5-1963.
Vào dịp Tết quư măo (25-1-1963), chủ tịch Bắc
Việt là Hồ Chí Minh gởi một cành đào tặng tổng
thống Nam Việt là Ngô Đ́nh Diệm. Cành đào nầy
được trưng bày trong Pḥng khánh tiết Dinh Độc
Lập và trên cành đào có danh thiếp chúc Tết của
Hồ Chí Minh.(14)
Sau khi được đề cử làm ngoại trưởng ngày
24-8-1963, Trương Công Cừu mở cuộc tiếp tân đầu
tiên ngày 25-8-1963 nhằm ra mắt ngoại giao đoàn
tại Sài G̣n, đồng thời đón tiếp tân đại sứ Hoa
Kỳ Henry Cabot Lodge. Trong buổi tiếp tân nầy,
cố vấn Ngô Đ́nh Nhu lần thứ nhất gặp Mieczylslaw
Maneli, trưởng đoàn Ba Lan (Poland) trong Ủy ban
Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến. Ngô Đ́nh Nhu c̣n
gặp Maneli lần thứ hai tại dinh Gia Long ngày
2-9-1963 bàn việc liên lạc với Hà Nội. (Chính
Đạo, sđd. tr. 325 và tr. 339.)
Chắc chắn t́nh báo Mỹ không bỏ sót chuyện Ngô
Đ́nh Nhu liên lạc với cộng sản và chuyện cành
đào Hà Nội ở Dinh Độc Lập trong dịp Tết năm
1963. Để nắm vững t́nh h́nh, cuối tháng 9-1963,
tổng thống Kennedy gởi bộ trưởng Quốc pḥng
Robert McNamara cùng tướng Maxwell Taylor qua
Sài G̣n. Ngày 29-9-1963, hai ông gặp tổng thống
Diệm. McNamara nói thẳng với tổng thống Diệm
rằng việc đàn áp Phật tử gây trở ngại cho nỗ lực
chống cộng và phàn nàn về những tuyên bố của bà
Ngô Đ́nh Nhu. Tổng thống Diệm tránh các vấn đề
do McNamara đưa ra.
Trong khi đó, báo chí Hoa Kỳ liên tục chỉ trích
chính phủ Diệm, nhất là từ sau biến cố Phật giáo
ở Huế (tháng 5-1963) và sau vụ chính phủ Diệm ra
lệnh tấn công các chùa (tháng 8-1963). Dư luận
Hoa Kỳ cho rằng tổng thống Diệm chủ trương độc
tài gia đ́nh trị, càng ngày càng mất ḷng dân,
càng ngày càng kém hữu hiệu trong việc điều hành
đất nước và chống lại du kích cộng sản. (Chính
Đạo, nb. I-C, sđd. tt. 357-361.)
Năm 1963 là năm trước của năm bầu cử tổng thống
Hoa Kỳ (1964). Dư luận báo chí Hoa Kỳ năm 1963
rất quan trọng, có thể ảnh hưởng đến kết quả bầu
cử trong năm sau (1964). Tổng thống Kennedy lo
ngại t́nh h́nh Việt Nam ảnh hưởng xấu đến cuộc
tái tranh cử của ông vào năm 1964.
V́ tất cả những lư do trên, chính phủ Kennedy
muốn t́m một giải pháp mới, nhằm thay đổi t́nh
h́nh tại ViệtNam theo chiều hướng có lợi cho Hoa
Kỳ, và có lợi cho sự tái tranh cử của Kennedy.
4.- MẬT ĐIỆN SỐ 243 NGÀY THỨ BẢY 24-8-1963
Theo Trần Văn Đôn, nhóm đảo chánh của các ông
không cho người Mỹ biết về dự tính đảo chánh.
(TVĐ, sđd. tr. 209.) Tuy nhiên, người Mỹ chẳng
những biết việc nầy, mà c̣n yểm trợ việc nầy, v́
cũng Trần Văn Đôn kể rằng nhóm các ông kết nạp
được Trần Thiện Khiêm vào tổ chức đảo chánh là
nhờ người Mỹ. (TVĐ, sđd. tr. 193.) Như thế nghĩa
là người Hoa Kỳ giữ một vai tṛ quan trọng trong
việc đứng làm trung gian liên kết nhân sự cho
nhóm dự tính đảo chánh.
Thật ra, như đă tŕnh bày ở trên, người Hoa Kỳ
đă nghĩ đến việc thay đổi nhà lănh đạo VNCH từ
hơn một năm trước qua đề nghị của Joseph
Mendenhall, cố vấn chính trị Ṭa đại sứ Hoa Kỳ
tại Sài G̣n, trong phiếu tŕnh đề ngày
16-8-1962.
Sau biến cố Phật giáo ngày 8-5-1963 ở Huế, người
đứng đầu Nhóm nghiên cứu Việt Nam thuộc Ṭa đại
sứ Hoa Kỳ, Ben Wood, soạn một kế hoạch khẩn cấp
ngày 23-5-1963 về các cách thay đổi chính phủ
Diệm. Sau khi Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngày
11-6-1963, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ thị ngày
14-6-1963 cho Ṭa đại sứ Sài G̣n xúc tiến kế
hoạch thay tổng thống Diệm.
Ngày 27- 6-1963, tổng thống Kennedy công bố
quyết định thay đổi đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Thay đổi đại sứ trong lúc t́nh h́nh căng thẳng
là dấu hiệu thay đổi chính sách, nhưng để yên
ḷng chính phủ Việt Nam, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
yêu cầu ṭa đại sứ tại Sài G̣n cho tổng thống
Diệm biết rằng chính sách của Hoa Kỳ không thay
đổi, tiếp tục ủng hộ chính phủ Việt Nam chống
cộng sản. (Chính Đạo, nb. I-C, sđd. tr. 302.)
Tiếp tục ủng hộ công cuộc chống cộng của Việt
Nam, không có nghĩa là ủng hộ cá nhân người điều
hành chính phủ.
Ngày 22-8-1963, tân đại sứ Henry Cabot Lodge đến
Sài G̣n và tŕnh uỷ nhiệm thư ngày 26-8-1963.
Trước đó hai ngày, 24-8-1963, Lodge gởi về
Washington DC một điện văn báo cáo rằng ông Nhu
là người ra lệnh tấn công chùa và nói về dự tính
đảo chánh của một số tướng lănh.
Ngày 24-8-1963 là thứ Bảy, tổng thống Kennedy,
bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk, bộ trưởng Quốc
pḥng MacNamara, giám đốc CIA McCone đều đi nghỉ
cuối tuần. Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, xử
lư thường vụ ngoại trưởng, cùng Harriman (thứ
trưởng Ngoại giao), Hilsman (phụ tá ngoại
trưởng), Forrestal (phụ tá tổng thống) đồng soạn
và kư tên mật điện 243 gởi cho Ṭa đại sứ Hoa Kỳ
ở Sài G̣n cùng trong ngày 24-8-1963, rồi chuyển
cho tổng thống Kennedy và ngoại trưởng Rusk. Hai
ông nầy đồng ư cho gởi đi. Nội dung đoạn cuối
điện văn rất quan trọng, được dịch như sau:
“Chính phủ Hoa kỳ không thể dung dưỡng t́nh
trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu.
Ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ
của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ
và các chính trị gia có tư cách.
“Nếu ông [tức đại sứ Lodge] cố gắng hết sức,
nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối th́ chúng
ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là
ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại
được.”(15)
Bức mật điện số 243 ngày 24-8-1963 trên đây của
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ thị cho tân đại sứ
Cabot Lodge yêu cầu tổng thống Diệm phải loại bỏ
cố vấn Nhu. (Đây là điều mà người Mỹ biết ông
Diệm không bao giờ chịu làm.) Nếu ông Diệm không
chấp thuận, th́ loại bỏ luôn ông Diệm. Nói cách
khác, bức mật điện nầy ngầm cho phép đại sứ
Lodge, nếu cần, có thể tiến hành đảo chánh, lật
đổ tổng thống Diệm. Cần chú ư: Averell Harriman,
người chủ trương trung lập hóa Lào, bị tổng
thống Diệm phản đối, là một trong bốn người soạn
bản mật điện 243. Hariman rất căm ghét tổng
thống Diệm. Phải chăng đây là dịp Harriman kiếm
cách trả thù, v́ bản mật điện nầy có thể xem là
tờ khai tử chế độ tổng thống Ngô Đ́nh Diệm?
KẾT LUẬN
Trong công cuộc cai trị, về đối nội, chính phủ
Diệm chủ trương tập trung quyền lực, bị lên án
là độc tài gia đ́nh trị. Chính phủ Diệm lại áp
dụng một cách cứng rắn luật số 10 năm 1950 từ
thời chính phủ Trần Văn Hữu, không công bằng
giữa các tôn giáo. Trong di chúc để lại cho con
là vua Minh Mạng năm 1819, vua Gia Long đă dặn:
“Không được ngược đăi tôn giáo, v́ đó là nguyên
nhân gây rối loạn và đôi khi làm mất nước.”(16)
Dầu chế độ Ngô Đ́nh Diệm chưa đến mức ngược đăi
tôn giáo, nhưng việc thi hành một cách cứng rắn
dụ số 10 đă làm bùng lên cuộc đấu tranh của giới
Phật giáo, là thành phần chiếm đại đa số dân
chúng Việt Nam. Lúc đó, chắc chắn có nhiều thành
phần từ nhiều phía lợi dụng cuộc phản đối của
Phật giáo để phá rối chính phủ Diệm và phá rối
VNCH. Trong khi đó, dù tổng thống Diệm và chính
phủ tỏ thiện chí để giải quyết khủng hoảng, th́
vẫn có một số người trong chính quyền thiếu sáng
suốt, gây thêm nhiều chia rẽ giữa chính phủ và
dân chúng, như những lời tuyên bố của bà Ngô
Đ́nh Nhu. Cứ thế mâu thuẫn giữa hai bên càng
ngày càng gay gắt thêm.
Về đối ngoại, chính phủ Diệm chủ trương độc lập
với người Mỹ, trong khi người Mỹ muốn kiểm soát
chính phủ VNCH. Hai ông Diệm và Nhu lại có sáng
kiến ngoại giao trực tiếp với Bắc Việt để giải
quyết chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc với
nhau, chẳng những làm cho dư luận Việt hoang
mang, mà c̣n làm cho chính phủ Mỹ nghi ngờ và
bất b́nh, v́ người Mỹ bị hai ông đặt ra ngoài
cuộc thương thuyết.
Người Mỹ không quan tâm đến quyền lợi của người
Việt mà chỉ lo lắng cho quyền lợi của Mỹ. Vấn đề
Phật giáo và đối lập chính trị tại Việt Nam chỉ
quan trọng đối với người Việt, chứ khôngquan trọng
đối với người Mỹ. Người Mỹ dựa vào những vấn đề
nầy, xúi giục và yểm trợ các tướng lănh đảo
chánh lật đổ ông Diệm, v́ quyền lợi của Mỹ và v́
việc tái tranh cử của Kennedy mà thôi. Sự tiếp
tay của Ṭa đại sứ Mỹ và của đại sứ Henry Cabot
Lodge đă góp phần quyết định trong sự thành công
của cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963. (Trích: Việt
sử đại cương tập 6.)
TRẦN GIA PHỤNG
(phungtrangia@yahoo.com)
CHÚ THÍCH
Hai câu của cuộc trưng cầu dân ư chỉ hỏi truất
phế hay không truất phế Bảo Đại và chấp thuận
hay không chấp thuận Ngô Đ́nh Diệm làm quốc
trưởng để đặt nền móng dân chủ, chứ không nói
đến việc thành lập nền Cộng ḥa và nhất là không
nói đến việc chọn Ngô Đ́nh Diệm làm tổng thống.
Nhiều tác giả, Nhất Linh, Người nghệ sĩ - Người
chiến sĩ, California: Nxb. Thế Kỷ, 2004, tr.
125.
Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua: Việc từng ngày
(1945-1964), Sài G̣n 1966, Xuân Thu California,
tái bản không đề năm, tr. 75.(Viết tắt: Đoàn
Thêm, sđd. tr.)
Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (Tập
I-C: 1955-1963), Nxb. Văn Hoá, Houston, 2000,
tr. 278. (Viết tắt: Chính Đạo, I-C, sđd. tr.)
Linh mục Cao Văn Luận, Bên gịng lịch sử Việt
Nam, 1940-1975, Sacramento: TANTU Research,
1983, tr. 224, tr. 229. Cần chú ư các điểm: Cao
Văn Luận là người đồng đạo với Ngô Đ́nh Thục và
Ngô Đ́nh Diệm. Lúc đó LM Cao Văn Luận đang làm
viện trưởng Viện Đại học Huế. V́ là linh mục và
là viện trưởng Viện Đại học, nên LM Cao Văn Luận
có điều kiện để tiếp cận các viên chức hành
chánh và biết rơ các tin tức về biến cố nầy.
(Viết tắt: CVL, sđd. tr.)
Chính Đạo, Tôn giáo & chính trị, Phật giáo,
1963-1967, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 25.
Có 4 dư luận khác nhau: 1) Dư luận thứ nhất cho
rằng thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng nội an,
ra lệnh cho lực lượng dưới quyền ném chất nổ để
giải tán đồng bào và gây thương vong. 2) Dư luật
thứ hai cho rằng Việt cộng lợi dụng sự bất b́nh
của dân chúng, cho nổ lựu đạn gây chết người rồi
đổ lỗi cho chính quyền, nhằm đẩy cao ḷng bất
măn của dân chúng đối với chính quyền. 3) Một ư
kiến khác lúc đó cho rằng cả phía chính quyền
Việt Nam Cộng Ḥa lẫn phía du kích cộng sản cũng
đều chưa có loại vơ khí gây nổ nầy, nhưng người
ta không biết là của ai? 4) Ư kiến cuối cùng cho
rằng người Mỹ liên hệ đến vụ nổ nầy. (dư luận
cuối cùng nầy, theo Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị
Nhân Đức, Những ngày cuối cùng của tổng thống
Diệm, San Jose: Nxb. Quang Vinh & Kim Loan &
Quang Hiếu, in lần thứ hai, 2003, tt. 221-222.)
Theo lời linh mục Cao Văn Luận, sau khi bị giải
nhiệm chức viện trưởng Viện Đại học Huế, linh
mục vào Sài G̣n và đến gặp giám mục khâm sứ Ṭa
thánh La Mă tại Việt Nam. Ông được giám mục khâm
sứ Ṭa thánh La Mă cho biết có lúc ông Diệm theo
lời khuyên của Đức giáo hoàng, dự tính băi bỏ
những biện pháp cứng rắn đối với Phật giáo.
“Nhưng sau một phiên họp Hội đồng gia tộc thu
hẹp không có bà Nhu, ông Cẩn, chỉ có ba người là
ông Diệm, ông Nhu và Đức cha Thục, tổng Thống
quyết định dùng biện pháp cứng rắn như đă ban
hành ngày 21-8-1963.” (trích nguyên văn, L.M.
Cao Văn Luận, sđd. tr. 271.)
Theo lời thượng tọa Thích Trí Quang, khi chùa Xá
Lợi bị tấn công, ông bị bắt cùng với một số tăng
ni và bị đưa về đồn Rạch Cát. (Trước 1975, Rạch
Cát thuộc quận B́nh Chánh, nay thuộc quận B́nh
Tân, TpHCM.) Khi các tu sĩ Nam tông được thả ra,
Thích Trí Quang thay áo một tu sĩ Nam tông, đến
chùa Pháp Quang (chùa Nam tông) và thừa cơ hội
trốn vào ṭa đại sứ Hoa Kỳ lúc đó c̣n ở trên
đường Hàm Nghi. (Theo Thích Trí Quang, “Từ Rạch
Cát tới ṭa đại sứ”.
Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, California:
Nxb. Xuân Thu, 1989, tr. 173.(TVĐ, sđd. tr.)
Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, sđd. tr.
532. Tác giả Hoàng Ngọc Thành trích dẫn Richard
Reeves, President Kennedy, Profile of Power, New
York: Simon & Schuster, 1993, tr. 651.
Nguyễn Trân, Công và tội, những sự thật lịch sử,
California: Nxb. Xuân Thu, 1992, tr. 478.
Mark Moyar, Triumph Forsaken, the Vietnam War,
1954-1965, Cambridge: Cambridge University
Press, 2006, tr. 128. (Viết tắt: Mark Moyar,
sđd. tr.)
Theo lời kể của ông Cao Xuân Vỹ, hiện đang sinh
sống tại California với ông Minh Vơ. (Minh Vơ,
“Ba giờ nghe một nhân chứng”, Đàn Chim Việt,
ngày 18-07-2007.) Lúc đó, ông Cao Xuân Vỹ là
tổng giám đốc Thanh Niên, và là phó tổng thủ
lănh Thanh Niên Cộng Ḥa. Ngô Đ́nh Nhu là tổng
thủ lănh. Ngoài ra, theo Trần Văn Đôn, sđd.
tt.183-184, đầu tháng 2-1963, trung tá Lê Văn
Bường, tỉnh trưởng B́nh Tuy dùng xe Dodge 4x4
chở Ngô Đ́nh Nhu đến quận Tánh Linh, tỉnh B́nh
Tuy. Tới điểm hẹn, ông Nhu một ḿnh gặp Phạm
Hùng.
Minh Vơ, “Hoa đào và máu đào”, điện báo Đàn Chim
Việt, ngày 31-10-2007. Trong bài nầy, Minh Vơ
dẫn chứng tài liệu của Francis X. Winter, The
Year of the Hare [Năm con thỏ], Athens:
University Georgia Press, 1997, tr. 12.[ Năm Con
Thỏ theo người Trung Hoa, tức Năm Con Mèo, ở đây
là năm Quư Măo (1963).] Minh Vơ c̣n cho biết
thêm hai nhân chứng: 1) Ông Lê Châu Lộc, tùy
viên của tổng thống Diệm, hiện sinh sống ở
California, kể lại rằng tự tay ông Lộc đă nhận
cành đào đó từ trụ sở Uỷ Hội Quốc tế Kiểm Soát
Đ́nh Chiến (ICC). 2) Ông Quách Ṭng Đức, đổng lư
văn pḥng Phủ tổng thống đă xác nhận việc cành
đào trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh,
đăng nhiều báo ở Mỹ.
Xin xem bản dịch điện văn phía dưới.
Adrien Launay, Histoire de la Mission de
Cochinchine 1658-1823, Documents historiques,
volume III, Paris: Librairie Orientale et
Américaine, Maisonneuve Frères, Éditeurs, 1925,
tr. 436.
BẢN DỊCH ĐIỆN VĂN SỐ 243 NGÀY 24-8-1963
"Bộ Ngoại Giao gởi Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n để
thi hành ngay lập tức.
Tối Mật. Không được phép phổ biến.
Chỉ đích thân Đại Sứ Lodge mới được phép đọc mà
thôi. Đối với CINPAC/POLAD th́ chỉ Đô Đốc Felt
được phép đọc mà thôi.
Theo CAS Sài G̣n 0265 báo cáo về quan điểm của
Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon 329.
[Các con số là những kư hiệu mật mă.]
Bây giờ th́ rơ là hoặc quân đội đề nghị lệnh
thiết quân luật hoặc ông Nhu đă lừa họ. Ông Nhu
đă lợi dụng t́nh trạng đó để tấn công chùa chiền
bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá
Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân
Việt Nam và thế giới ngỡ lầm rằng quân đội làm.
Hơn nữa, cũng thật quá rơ là ông Nhu đă âm mưu
sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.
Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng t́nh trạng
mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông
Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của
ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và
các chính trị gia có tư cách.
Nếu ông [tức Đại Sứ Lodge] cố gắng hết sức,
nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối th́ chúng
ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là
ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại
được.
Kư tên: Hilsman, Forrestal, Ball, W.Everell
Hariman ".