Từ
“sâm” là danh từ chung dùng để chỉ cây nhân sâm có tên khoa
học là Panax ginseng C.A. Meyer. Cây thuốc bổ hàng đầu của y
học cổ truyền phương Đông. Nó c̣n được mở rộng để chỉ một số
loài thực vật cùng chi Panax, họ nhân sâm, có tác dụng tương
tự nhân sâm như sâm Hoa Kỳ (American ginseng), sâm Triều
Tiên (Korean ginseng), sâm Nhật Bản (Panax japonicas C.A may),
sâm Việt Nam (Vietnamese ginseng).
Sâm là vị thuốc quư, nhưng nếu dùng không đúng, dùng bừa
băi sẽ gây hại cho sức khỏe.
Có loại tên sâm, nhưng không phải là sâm
Từ “sâm” là danh từ chung dùng để chỉ cây nhân sâm có tên khoa học là Panax ginseng C.A. Meyer. Cây thuốc bổ hàng đầu của y học cổ truyền phương Đông. Nó c̣n được mở rộng để chỉ một số loài thực vật cùng chi Panax, họ nhân sâm, có tác dụng tương tự nhân sâm như sâm Hoa Kỳ (American ginseng), sâm Triều Tiên (Korean ginseng), sâm Nhật Bản (Panax japonicas C.A may), sâm Việt Nam (Vietnamese ginseng).
Panax là chi thực vật có nhiều cây làm thuốc quan trọng,
trong đó có họ nhân sâm, đến nay đă biết 12 loài và một
số dưới loài được công bố trên thế giới. Vùng phân bố
của chi Panax ở bắc bán cầu, từ trung tâm Hymalaya qua
đông bắc Trung Quốc, vùng Viễn đông nước Nga, Triều Tiên,
Nhật Bản đến Bắc Mỹ, nói chung là vùng có khí hậu ôn đới.
Đặc biệt, ở Việt Nam năm 1973 đă phát hiện một loài
Panax mọc hoang trên diện tích rộng, ở độ cao
1.800-2.000m trên dăy Trường Sơn nam, đó là loài sâm
Việt Nam (Panax vietnamensis Ha et Gruhv.), c̣n gọi là
sâm K5, sâm Ngọc Linh. Ngoài ra, ở Việt Nam c̣n phát
hiện loài sâm Vũ Diệp (Panax bipinatifidus) và sâm tam
thất (Panax pseudoginseng) ở các tỉnh miền núi phía Bắc
giáp Trung Quốc.
Có nhiều loại thực vật và vị thuốc cũng có tên “sâm”,
nhưng không phải là sâm theo đúng nghĩa của nó như: đan
sâm – là họ hoa môi; bố chính sâm – họ bông; sâm ḅng
bong – họ lưỡi rắn; sâm cau – họ sâm cau; sâm cuốn chiếu
– họ lan; sâm đại hành – họ lá đơn; huyền sâm – họ mỏm
sói…
Do sâm là một loại dược liệu quư hiếm, nên người ta c̣n
đặt ra những cái tên như hải sâm, thiên sâm, thổ sâm…
nhưng tất cả đều không phải là sâm.
Những cấm kỵ khi dùng sâm
Nhân sâm khi bào chế khác nhau sẽ có vị khí khác nhau. Sâm củ to khi được làm chín kỹ gọi là hồng sâm có khí ôn. Sâm củ nhỏ không đủ tiêu chuẩn c̣n tươi sống, có khí hàn lương là bạch sâm, bởi vậy cách sử dụng sâm cũng “thiên biến vạn hóa”. Hải Thượng Lăn Ông dùng sâm chín có tính ôn để bổ dương khí, dùng sâm sống có tính hàn để bổ âm.
Theo y học cổ truyền, sâm là một vị thuốc đại bổ nguyên khí, phục mạch, cố thoát, bổ tỳ ích phế, sinh tân, an thần. Dùng điều trị cơ thể hư nhược, cố thoát chứng, chân tay lạnh, mạch vi, tỳ hư ăn ít, phế hư hoa suyễn, tân dịch thương tổn, miệng khát nước, nội nhiệt tiêu khát, bệnh lâu ngày gầy yếu, đánh trống ngực, mất ngủ, liệt dương, tử cung lạnh, suy tim kiệt sức, ngất do bệnh tim.
Nhân sâm được coi là thuốc cường tinh, làm cho dinh dưỡng toàn thân được đầy đủ, hoạt huyết, chức năng tinh hoàn được nâng cao, khắc phục t́nh trạng liệt dương, di tinh, không xuất tinh. Có được tác dụng này là do các hoạt chất trong nhân sâm làm tăng cường và bài tiết các hormone. Nhân sâm c̣n có tác dụng pḥng ngừa nhiều bệnh tật, đặc biệt là ngừa huyết khối.
Mặc dù nhân sâm chữa được nhiều bệnh, nhưng khi dùng phải cẩn trọng, nếu không nhân sâm sẽ trở thành độc dược, thậm chí có thể làm chết người. Chả vậy mà người xưa có dặn: “Phúc thống phục nhân sâm tắc tử” (người đau bụng do hư hàn uống nhân sâm có thể chết). Khi dùng nhân sâm cần lưu ư: người có bệnh thực nhiệt và thấp nhiệt không nên dùng; khi dùng nhân sâm phải bỏ cuống sâm đi, v́ nó dễ gây nôn mửa; không dùng đồ sắt để cắt, nấu nhân sâm; suyễn khạc ho do khí ủng trệ, đờm thực nhiều th́ không dùng; các chứng đau do thực (đau bụng cứng, sờ vào đau thêm) không nên dùng; khi phối hợp với các vị thuốc khác phải tránh dùng với lê lô (tương phản là phản lại nhau), ngũ linh chi (tương úy tức là sợ nhau), bồ kết (tương ố tức là ghét nhau) sẽ có hại…