Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Ngọc Phật - Giá Trị Đích Thực và Những Hiện Tượng Linh Thiêng
Hơn một năm rồi, kể từ
tháng 04/2009 tượng Ngọc Phật được triển lăm tại Chùa Quan
Âm, Đại Ṭng Lâm, Phổ Quang, Hoằng Pháp, Vân An, Phật Tích,
Vietnam và
được ghi nhận với số lượng đáng kể là có đến
vài chục
ngàn lượt người từ các tỉnh thành trong cả nước về chiêm
ngưỡng tôn tượng Phật Ngọc tại mỗi Chùa này rồi sau đó được
chuyển đến triển lăm tại Úc, Mỹ, Canada, Châu Âu và nhiều
nước khác trước khi rước về an vị tại
Đại Tháp Từ Bi,
Bendigo, Úc Đại Lợi, có nhiều sự kiện, hiện tượng và tranh
luận xôn xao về vấn đề Ngọc Phật.
Có nhiều thư mời cũng
như có nhiều người rủ tôi đi chiêm ngưỡng, đảnh lễ Ngọc Phật,
có nhiều người hỏi ư kiến của tôi về tượng Ngọc Phật này,
hầu hết các trường hợp, tôi chỉ mỉm cười, trả lời vắn tắt :
“Tượng Ngọc Phật đó thật là quư giá, đi chiêm ngưỡng đảnh
lễ Tượng Ngọc Phật được, vậy là tốt rồi”. Hôm nay tôi
nhận thấy có những ư kiến thuận nghịch khác nhau về vấn đề
Ngọc Phật trong diễn đàn baovechanhphap Yahoo Groups cho nên
nhân đây tôi cũng gửi và quan điểm, nhận định của tôi về vấn
đề này.
Trước hết chúng ta hăy
nghiên cứu về việc thờ kính Đức Phật xảy ra từ lúc nào và
như thế nào kể từ thời Đức Phật cho đến nay?
Sau khi đă tham học và
tu tập với những Đạo Sỹ trứ danh nhất thời đó, Bồ Tát Tất
Đạt Đa trải qua 6 năm ṛng chuyên tu khổ hạnh, 49 ngày đêm
Thiền Định dưới cội Bồ Đề và thành Phật, lên ngôi Chánh Đẳng
Chánh Giác hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật là bậc xứng
đáng tôn kính cúng dường : có đầy đủ tam minh, lục thông,
thập hiệu, tứ vô ngại giải, thập lực, 18 pháp bất cộng,…“Thiên
Nhân chi Đạo Sư”.
Sau khi thành Đạo,
Ngài t́m ai đó để đảnh lễ và tôn kính, nhưng t́m khắp mà
không có. Quả thật là:
“Trên “Trên trời dưới đất không bằng Phật
Thế giới
mười phương cũng không sánh.
Thế
gian có ǵ con đă thấy
Tất cả
không ai bằng Phật
vậy”
"Ta phải t́m đến
sống gần một vị sa môn hay bà la môn nào để tôn kính và lễ
bái, hầu đem sự giải thoát (vimuttikkhanda) đến mức toàn
thiện chăng? Nhưng trên thế gian này không thấy ai, dầu
trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa
những chúng sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có sự
giải thoát cao thượng hơn ta để thân cận, tôn kính và sùng
bái."
Rồi tư tưởng sau đây
phát sanh đến Ngài:
"Hay là Ta hăy tôn
kính và sùng bái chính Giáo Pháp mà ta đă chứng ngộ?"
Lúc ấy Vị Phạm Thiên
Sahampati hiểu được ư Phật nên từ cảnh giới Phạm Thiên, dễ
dàng như một người khoẻ mạnh duỗi cánh tay thẳng ra, hay co
tay vào, xuất hiện trước mặt Đức Phật. Và, đắp y ngoại lên
vai mặt, để trống vai trái quỳ xuống chắp tay đảnh lễ
Đức Phật và bạch:
"Quả thật vậy, Bạch
Đức Thế Tôn, quả như vậy, Bạch Đức Như Lai, Bạch Ngài, những
bậc Ứng Cúng, những bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ
đều tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp này.”
(Source : Đức Phật và
Phật Pháp:
http://www.buddhane
Theo các sử liệu Phật
Giáo th́ 2 vị Thiện Tín đầu tiên có duyên đảnh lễ, cúng
dường, Quy Y với Đức Phật là Tapassu và Bhallika:
“Có hai thương gia tên
Tapassu và Bhallika từ Ukkala (Orissa), trên đường về quê
nhà, đi ngang qua chỗ Đức Phật ngự. Khi đến gần nơi ấy hai
vị lái buôn được một vị Trời, vốn là bà con họ hàng trong
một tiền kiếp, mách bảo như thế này:"Này hai ông, Đức Thế
Tôn vừa chứng đắc Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, đang ngự
dưới cội Rajayatana phiá trước kia. Hai ông hăy nhanh chân
đến đó dâng lên Ngài bột khô và mật, Phước báu này sẽ đem
lại cho hai ông an vui và hạnh phúc lâu dài.". Hai vị thương
gia vui mừng, tiếp nhận lấy cơ hội vàng ngọc, sửa soạn bột
và mật ong xong đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ và thỉnh
cầu Ngài chấp nhận hai lễ vật khiêm tốn ấy để hai người được
an vui.”
(Đức Phật và Phật
Pháp - Phần Hai vị Thiện Tín đầu tiên – Mahathera Narada)
“Hiện nay ở Miến Điện,
người ta c̣n thờ tóc và móng tay của Đức Phật khi Ngài c̣n
tại thế đă cắt cho hai vị đệ tử tại gia đầu tiên đă quy y
Phật và quy y Pháp, lúc ư chưa có tăng già. "Sau tuần lễ
thiền định thứ ba, sau khi đức Phật thành đạo, Ngài đă gặp 2
người thương nhân Miến Điện tên là Tapassu và Bhallika đến
đây cúng dường bánh làm bằng gạo và mật ong. Tiếp đến họ xin
quy y Phật và quy y Pháp (v́ lúc đó Tăng già chưa thành
lập). Sau đó, Họ muốn Đức Phật cho họ một thứ ǵ đó để thờ
phượng. Đức Phật đưa tay lên đầu nhổ một ít sợi tóc và cho
họ để làm thánh tích Đă bao lần tôi đến chốn này và mơ ước
được sang xứ Miến Điện để đảnh lễ mười sợi tóc mà Ngài đă
tặng cho 2 người thương nhân này và kể từ đó, sau khi về lại
nước, họ dâng lên vua chúa đương thời và được thờ tự rất
trang nghiêm tại 2 chùa ở Miến Điện. 8 sợi tóc của đức Phật
được thờ tại chùa Vàng Schwedagon gần Rangoon và 2 sợi tóc
khác thờ tại một ḥn đá thiêng ở Kyaitiyo, cách Rangon chừng
200 cây số về hướng nam. Sau khi Đức Phật thành Chánh Giác,
có một Thương gia tên là Baddhali đến chiêm bái Ngài và v́ ở
xa xôi, nên đă xin thỉnh Phật một vật để Tôn thờ,và Ngài đă
cho Ông ta một sợi tóc, gọi là Phát Xá Lợi hay cũng có Phát
Xá Lợi hay Nha Xá Lợi được Tôn thờ trên cung Trời Đao Lợi…”
(source:
http://diendan.
V́ 2 vị cư sỹ này trở
về quê hương của ḿnh, xa Đức Phật cho nên họ thờ tóc và
móng tay của Đức Phật, luôn nhớ nghĩ hướng về Đức Phật và
giữ Giới Pháp Đức Phật truyền trao.
Một sự kiện khác rất
đáng chú ư đó là việc Đức Phật gặp lại năm anh em Kiều Trần
Như khi chuyển Pháp Luân tại Ba La Nại.
“Thấy Đức Phật từ xa
đến, năm vị Đạo Sĩ, anh em Kondanna (Kiều Trần Như), bàn
thảo với nhau, quyết định không đảnh lễ Ngài với ḷng tôn
kính như xưa. Các vị ấy hiểu lầm thái độ của Bồ Tát khi,
trong cuộc chiến đấu để thành đạt Đạo Quả, Ngài từ bỏ lối tu
khổ hạnh quá khắt khe và chứng tỏ là tuyệt đối vô ích:
"Này các đạo hữu, Đạo
Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đang đi đến ta. Đạo Sĩ ấy xa hoa, không
bền chí cố gắng và đă trở lại với đời sống lợi dưỡng. Đạo Sĩ
ấy không đáng cho ta niềm nở tiếp đón và cung kính phục vụ.
Ta khác nên rước bát và y. Nhưng dầu sao, cũng nên dọn một
chỗ ngồi để sẵn. Nếu vị đạo sĩ ấy muốn ngồi cứ ngồi."
Tuy nhiên, khi Đức
Phật bước lần đến Ngài, vẻ oai nghi cốt cách của Ngài tự
nhiên cảm hoá năm đạo sĩ và, không ai bảo ai, người đến rước
y và bát, người dọn chỗ ngồi, người đi lấy nước cho Ngài rửa
chân…”
(Source:
http://www.buddhane
Như vậy, chất liệu
giải thoát lan toả trong chân dung, uy nghi, dáng đi đứng,
cử chỉ, dung mạo của Ngài, Đạo phong và Thiền vị nơi Ngài…có
sức chiêu cảm và chinh phục người khác khiến người khác chú
tâm, lắng nghe, học hỏi, quy y với Ngài.
Tượng Phật đầu tiên có
từ lúc nào, khi Phật tại thế hay sau khi Phật nhập diệt? Sử
liệu Phật Giáo cho chúng ta biết về điều này :
Căn cứ vào kinh Phật
Thuyết Đại Thừa Công Đức Tạo Tượng (Đại chính tân tu đại
tạng kinh, tập 16, tr. 790a), th́ tượng Phật đă có ngay từ
thời Phật c̣n tại thế. Nguyên khởi là do vua Ưu Đà Diên, trị
v́ nước Câu Diệm Di là người đầu tiên dùng gỗ thơm chiên đàn
tạo ra h́nh tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
“Sau gần 49 năm
thuyết pháp độ sanh, trong mùa an cư cuối cùng, Đức Phật
liền nghĩ đến thánh mẫu Ma Da, nên Ngài tạm xa rời nhơn gian
để lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thánh mẫu và chư
Thiên nghe. Trong thời gian nầy, vua Ưu Đà Diên, ngày đêm
hằng trăn trở thao thức nhớ nghĩ đến Phật. V́ ông là một
Phật tử rất thuần thành và luôn sùng kính Tam Bảo. Do tấm
ḷng nhớ nhung tha thiết đó, là động cơ chính yếu thúc đẩy
ông phải gấp rút tạo h́nh tượng Phật. Đó là một việc làm
nhằm mục đích thể hiện ḷng khao khát kính ngưỡng của ông
đối với Đức Phật. Đồng thời, ông cũng muốn lưu lại h́nh
bóng của Đức Thế Tôn trong những lúc Ngài không có mặt ở
nhân gian.
Sau khi nghĩ thế, nhà vua liền ra lệnh triệu tập các điêu
khắc gia nổi tiếng trong nước để điêu khắc tạo h́nh tượng
Phật để chiêm bái. Nhưng, lệnh truyền ra, mà không có ai dám
đảm nhận trọng trách nầy. V́ họ nghĩ rằng, thân Phật tướng
hảo quang minh, oai nghiêm cao quư, h́nh dung của Ngài siêu
trần tuyệt thế, làm sao có thể tạc tượng chuyển tải được
những đức tướng giống hệt Ngài được. Thật là một việc làm vô
cùng khó khăn, nếu không khéo sẽ trở thành đắc trọng tội với
Đức Phật. Do nghĩ thế, mà không một người thợ điêu khắc nào
dám nhận lănh.
Lúc bấy giờ, có một vị Trời tên là Tỳ Thủ Yết Ma, biết được
việc đó, liền biến hóa ra một người thợ mộc. Vị thợ mộc nầy,
liền đến trước mặt nhà vua tâu rằng: “Muôn tâu Đại vương,
tôi là một thợ mộc khéo tay nghề, xin hết ḷng v́ nhà vua mà
tạo tượng Phật. Việc làm của tôi, quyết không để cho nhà vua
thất vọng. Vậy, cúi xin Đại vương chớ t́m người khác hăy để
cho tôi đảm nhận trọng trách nầy”.
Nghe qua, nhà vua chấp thuận và ra lệnh phải thi hành ngay.
Với bàn tay tuyệt xảo của vị trời nầy, chỉ trong ṿng thời
gian một ngày, th́ tượng Phật đă được hoàn tất. H́nh tượng
Phật điêu khắc tuyệt đẹp, nhà vua rất ưng ư hài ḷng. Nhà
vua chiêm ngưỡng trầm trồ khen ngợi, phát hỷ tâm thanh tịnh,
liền chứng Nhu thuận nhẫn. (Nhu thuận nhẫn nghĩa là tâm nhu,
trí thuận; theo Vô Lượng Thọ Kinh, th́ nhu thuận là một
trong 3 pháp nhẫn : Âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn, và Vô
sinh pháp nhẫn). Ngay sau khi chứng được Nhu thuận nhẫn, nhà
vua vô cùng hoan hỷ mừng rỡ, bao nhiêu phiền muộn đều tiêu
tan hết.”
Về công đức tạo tượng,
cũng theo kinh văn nói trên, Đức Phật dạy rằng: “bất cứ
ai dùng những vật liệu như: tơ sợi thêu thùa tượng Phật hoặc
dùng ch́, kẽm, vàng, bạc hay các loại gỗ thơm chiên đàn v.v…
tô đắp tạc tượng, khiến mọi người chiêm ngưỡng lễ bái, th́
đều được phước báo vô lượng vô biên. Người đó sẽ được h́nh
tướng đoan trang và sẽ tiêu trừ được những tội cực trọng”.
Một biểu tượng rất được chú trọng trong Phật
Giáo là cây Bồ Đề. Có 2 cây Bồ Đề đặc biệt là cây Bồ Đề tại
Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Bồ Tát Tất Đạt Đa ngồi thiền suốt 49
ngày đêm và Thành Đạo, Ngài cũng đă trải qua hết tuần lễ thứ
2 sau khi chứng Đạo nh́n chăm chú biết ơn
cây bồ đề đă che chở Ngài trong suốt thời gian tu tập, cây
Bồ Đề thứ 2 là Cây Bồ Đề A Nan, lược sử của nó có thể tham
khảo như sau :
Gần cổng vào Tinh xá
Kỳ Viên, có một cội Bồ-đề sum sê to lớn mang tên là Bồ-đề
Ananda. Sách ghi như sau:
"Lúc bấy giờ thiện tín
đến hầu Phật thường mang theo bông hoa hay những tràng hoa
để cúng dường Ngài. Trong những lúc Đức Phật đi vắng th́ các
thiện tín ấy đặt bông hoa trước cửa tịnh thất Ngài rồi về.
Trưởng giả Cấp Cô Độc
thấy vậy, thỉnh cầu Đại đức Ananda bạch với Đức Phật xem có
nơi nào khác để thiện tín có thể đến lễ bái cúng dường trong
lúc Đức Phật đi hoằng pháp, không có mặt ở tinh xá.
Đại đức Ananda bạch
Phật: "Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu bảo vật để chúng sanh lễ
bái cúng dường?"
- Này Ananda, tất
cả có ba: Những vật để chúng sanh lễ bái cúng dường có liên
quan đến thân như xá-lợi của Phật, những vật liên quan đến
đồ dùng riêng, và những vật để tưởng nhớ Phật.
- Bạch Thế Tôn, trong
lúc Ngài c̣n tại tiền, có nên xây tháp để tôn thờ chăng?
- Không, vật để
chúng sanh lễ bái cúng dường có liên quan đến thân chỉ nên
được kiến tạo sau khi Như Lai nhập diệt. Vật lễ bái cúng
dường để tưởng niệm Như Lai hoàn toàn thuộc về tinh thần,
những vật ấy chỉ tượng trưng, không có căn bản vật chất.
Nhưng cây Bồ-đề to lớn mà xưa kia đă có lần che mưa đỡ nắng
cho Như Lai là vật để chúng sanh lễ bái cúng dường, dầu Như
Lai c̣n tại thế hay đă nhập diệt.
- Bạch Thế Tôn, khi
Ngài đi thuyết pháp phương xa, khi thiện tín đến tinh xá Kỳ
Viên rộng lớn này không biết hướng vào đâu để lễ bái cúng
dường. Bạch Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho phép con lấy một
hạt của cây Bồ-đề mẹ để gieo trồng trước cổng tinh xá."
Đại đức Ananda thuật
câu chuyện lại cho những vị đại thí chủ như Trưởng giả Cấp
Cô Độc, Bà Visakha, B́nh Sa Vương, rồi Đại đức yêu cầu tôn
giả Mục-kiền-liên giữ lại một trái chín mùi từ cây rơi xuống
chưa đụng đất. Ngài Mục-kiền-liên trao cho tôn giả Ananda.
Ngài A-nan đưa cho vua Ba-tư-nặc. Vua trao lại cho Trưởng
giả Cấp-cô-độc trồng.
Một cây Bồ-đề sớm mọc
lên tươi tốt mang tên là "Bồ-đề Ananda".
Cây Bồ-đề lịch sử
này đến nay vẫn c̣n dấu tích tại Tinh xá Kỳ Hoàn.”
(Source:
thuongchieu )
Đến khi Phật Thích Ca
nhập diệt th́ việc thờ Xá Lợi Phật diễn ra như thế nào? Có
nhiều sử liệu ghi chép về việc này, chúng ta có thể tham
khảo sử liệu sau đây :
“Sáng ngày đại đức
Anuruddha sai ông Ananda vào đền báo tin cho vua Kusinara
hay tin đức Phật đă nhập Niết Bàn rồi. Đến nơi ấy thấy vua
và triều thần hội nhau bàn tán về ngày cuối cùng của vị
Chánh Đẳng Chánh Giác, quên lo tới việc triều chánh. Khi hay
tin Phật diệt độ cả vua chúa quần thần đều chan ḥa giọt lệ,
mến tiếc và ca tụng ân đức của Đấng Trọn Lành.
Đức vua liền hạ chiếu
chỉ cho triều thần và các lớp dân chúng trong xứ Kusinara,
đem bông hoa, nước thơm, nhạc lễ đến rừng Salavana, và dạy
nội ngày ấy cất rạp cho rồi để thiết đại lễ cúng dường Phật
tổ.
Công việc tẩm liệm thi
hài của đức Thế Tôn, vua làm y theo lời chỉ bảo của Đại Đức
Ananda: lấy 1000 cây lụa trắng bao bọc Thánh Thể, ướp đủ các
thứ nước hương thơm để vào ḥm vàng.
Toàn xứ Kusinara thiết
lễ long trọng cúng dường đức Phật: cuộc lễ kéo dài đến 6
ngày đêm. Qua ngày thứ bảy là ngày đức vua định hành lễ hỏa
táng. Đúng giờ phát hành, 8 vị lực sĩ của vua, sắc phục
chỉnh tề vào động quan, khiêng ḥm vào cửa hướng Bắc thành
Kusinara, và sau khi đi cùng khắp thành phố, trở ra cửa
hướng Đông thẳng đến Tháp Makutabandhana Cetiya là nơi làm
lễ Trà tỳ.
Trong khi ấy, từ không
trung rớt xuống những bông mạn thù sa cùng khắp thành
Kusinara, mùi thơm bát ngát. Dưới đất âm nhạc rền trời.
Khi thỉnh ḥm để trên
hỏa đài rồi, có 4 vị quốc sư của vua từ 4 hướng cung kỉnh
đem lửa mồi châm vào 4 góc. Lửa không cháy. Vua Malla kinh
sợ đến bạch hỏi Đại Đức Anuruddha. Ngài trả lời: “Nên hưỡn
lại một chút, chờ đại đức Ca Diếp sắp đến trong giây lát ”.
Một chập sau, đại đức
Maha Ca Diếp dẫn 500 đồ đệ đi ngay lại hỏa đài, khoác áo vai
trái, chấp tay lễ bái, rồi đi quanh ḥm vàng ba lượt, lại
đứng ngay sau ḥm cúi đầu lạy dưới chân đức Thế Tôn, 500 vị
Tỳ kheo cũng tiếp làm theo y như thế.
Đại đức Maha Ca Diếp
và chư Tăng làm lễ vừa xong th́ lửa bốc cháy rầm rộ, chẳng
bao lâu xong cuộc lễ Trà tỳ.
Vua Malla đem nước
thơm lại tưới trên hỏa đài, và thỉnh Xá Lợi về hoàng thành,
thiết đại lễ cúng dường.
Xá Lợi gồm có bảy
miếng lớn thuộc về xương trán, xương vai và răng nhọn và
những xương nhỏ bằng hột đậu xanh, hột gạo và hột cải. Cân
cả thảy được 16 cân.
Một mặt khác, Vua
Malla hạ lệnh cho tu bổ hào lũy chung quanh đền, tập dượt
binh mă và canh pḥng nghiêm ngặt, để ngừa các nước lân bang
đến chiếm đoạt Xá Lợi.
Hẳn thật như lời tiên
đoán của Vua Malla, các nước kế cận lần lượt gởi binh mă và
Sứ thần đến xin chia Xá Lợi:
Cả thảy 7 đại diện của
7 vua:
Vua Ajatasatru (A Xà Thế) xứ
Vua Sakya (ḍng Thích
Ca) xứ Sakka;
Vua Licchavi xứ
Vesali;
Vua Thùliya xứ
Allakappa;
Vua Koliya xứ
Ràmagàma;
Vua Mall xứ Pàvà;
Và vị Bà La Môn
Mahàbrahma, thủ lĩnh xứ Veddhadipaka.
Bảy vị Sứ này đến yết
kiến vua Malla xứ Kusinara tỏ rằng:
“Chúng tôi hay tin đức
Thế Tôn đă nhập Niết bàn trong xứ của Đại vương; v́ đức giáo
chủ Gotama là vị pháp vương cao thượng, chúng tôi đây cũng
thuộc ḍng cao thượng, nên đến xin đại vương chia cho một
phần Xá Lợi để đem về lập đền thờ cúng, chiêm ngưỡng hằng
ngày; mong đại vương nhận lời”.
Bảy Sứ thần, bề ngoài
tỏ ư khiêm tốn, nhưng trong đă cương quyết bố trí binh mă
ngoài thành, chờ coi vua Malla định đoạt thế nào.
Vua Malla nhất định
bát lời yêu cầu của các Sứ thần; nhưng các vị này không nản
chí, cứ nài nỉ xin chia măi.
(Hàng trí thức nên
hiểu rằng đức Phật định nhập diệt tại Kusinara là xứ nhỏ,
không đủ lực lượng tranh đấu, có lẽ để ngừa xung đột về sau,
do sự phân chia Xá Lợi với các cường quốc lân bang; nên khi
đại đức Ananda yêu cầu Phật đến một trong các cường quốc để
nhập diệt, Ngài không chịu nhận lời).
Về phần vua Malla,
trước sự nhẫn nại và cương quyết của các Sứ thần, Ngài suy
nghĩ: xứ ḿnh yếu kém, không đủ hùng binh ngăn chống, vả lại
đức Thế Tôn là bậc thông hiểu quá khứ, hiện tại, vị lai, mỗi
hành vi của Ngài đều đem lại lợi ích lâu dài cho chúng sanh.
Ngài nhập Niết bàn tại xứ ta, ban bố Xá Lợi cho ta, để lại
hạnh phúc cho ta, nhưng Xá Lợi này không bền vững lâu dài,
và không bằng sự phụng hành giáo lư của Phật để lại hầu
tránh khỏi sự giết hại lẫn nhau. Không lẽ các cường quốc này
lại muốn khai chiến với ta. Nghĩ như vậy, Vua Malla càng có
đức tin mạnh nơi oai lực của Phật, một mặt tỏ ư cương quyết
không chia Xá Lợi, một mặt tinh tấn làm lễ cúng dường Xá Lợi
để ngăn ngừa tai hại cho xứ Kusinara.
Các Sứ thần cũng chẳng
chịu nhượng bộ quyết khai chiến với vua Malla.
Khi ấy có vị Bà La Môn
tên Dona, là quốc sư của vua Malla, là bậc trí tuệ và nhiều
kinh nghiệm, xin đứng ra làm tài phán phân giải đôi bên. Ông
Dona nói rằng: “Thưa các Ngài! Chúng ta nên hiểu rằng đức
Bổn sư chẳng phải là quyến thuộc của chúng ta, chúng ta muốn
có Xá Lợi, chẳng qua là chúng ta đă công nhận đức Thế Tôn là
một vị giáo chủ. Chúng ta có ḷng ái mộ, muốn phụng thờ và
hành theo chánh giáo của Ngài. Nếu v́ sự sùng bái Ngài, mà
khai chiến với nhau, là một việc không phải lẽ, mà làm mất
sự thân thiện lẫn nhau. Vả lại đức Thế Tôn xưa kia chẳng hề
dạy chúng ta gây chiến cùng nhau; trái lại Ngài hằng khuyên
chúng ta nhẫn nại, từ bi hoà hợp, dứt bỏ điều oan kết và sự
giết hại lẫn nhau.
Lại nữa, khi đức Thế
Tôn c̣n tại thế, các tín đồ hằng được gặp, được thấy, được
cúng dường Ngài cùng khắp mọi nơi. Giờ đây đức Thế Tôn nhập
diệt rồi, Xá Lợi được phân chia trong các xứ, tiện bề cho
tín đồ bốn phương chiêm ngưỡng, lễ bái hằng ngày; th́ đại
chúng lấy làm hân hạnh biết bao! Hiện giờ các xứ lân bang
lớn nhỏ đều có đại diện nơi đây, nếu chúng ta đem Xá Lợi ra
chia nhau mỗi xứ mỗi phần bằng nhau, th́ t́nh thân thiện
giữa các quốc vương càng kết chặt, th́ ai ai cũng vui mừng
tránh khỏi tai hại tàn khốc của chiến tranh. Các Xá Lợi
được đem về thờ cúng cùng nơi khắp chốn, người người phát
tâm trong sạch nơi Phật bảo và hành theo Kinh Luật di
truyền, xa lánh các điều ác, tạo thêm các nghiệp lành, th́
kết quả của sự nhẫn nại và ḥa thuận hôm nay là được đoàn
kết giữa các lân bang, để cùng nhau tiến bước trên đường
giác ngộ, diệt tận những mối thù oán, giết hại lẫn nhau. Như
thế ấy, chúng ta mới tỏ ra là người có đủ cách làm đệ tử của
đức giáo chủ Gotama.”
Vua Malla và các Sứ
thần công nhận lời phân giải của ông Dona, đồng ḷng giao
cho ông lănh trách nhiệm phân chia Xá Lợi cho các xứ. Ông
Dona dùng một cây cân bằng vàng cân tám phần Xá Lợi bằng
nhau, giao cho đại diện các xứ, luôn cả phần của vua Malla.
Rồi ông xin cây cân vàng về phần ông để làm kỷ niệm. Ông
được như ư nguyện.
Sau khi chia Xá Lợi
xong, có ḍng Moriya tại xứ Pipphali phái người đến xin lănh
một phần. Vua Malla lấy làm tiếc và cho hay rằng Xá Lợi đă
được chia ra đều đủ cho các lân bang rồi; và cho Sứ thần một
mớ tro đem về thờ thay thế cho Xá Lợi.
Các Xá Lợi được chia
ra đồng đều cho tám nước; mỗi kinh thành mỗi lập đền thờ
long trọng để cho vua chúa quan dân đến chiêm bái cúng
dường. “
Trong các loại Xá Lợi,
di thể của Đức Phật cho việc đảnh lễ, chiêm bái, thờ cúng
hiện nay có tóc và móng tay của Phật thờ tại chùa
Vàng Schwedagon gần Rangoon, Miến Điện và
Xá lợi Răng của Đức Phật, các sử liệu có ghi:
“Dựa theo sách lịch sử
của Tích Lan, Ngài Mahavamsa, một người con trai của vua
Ashoka, tức là Đại Đức Mahinda, đă giám sát công tŕnh xây
cất tu viện gần
(Source :
http://minhhanhdp.
Chiêm ngưỡng đảnh lễ
Xá Lợi Phật sẽ được những công đức ǵ?
Kinh Kim Quang Minh
quyển 4, phẩm Xả thân ( Đ. 16, 354) viết: "Xá lợi là kết
tinh công phu tu tập Giới, Định, Tuệ, rất khó được, là phước
điền tối thượng". V́ vậy có chỗ nói: “Lễ bái di thân
của Phật, lễ bái cây bồ đề chỗ Phật thành đạo, lễ bái toà
kim cương và dấu chân của Phật đi kinh hành đều có công đức
như nhau.”
Luận Đại Trí Độ quyển 59 chép rằng: “Dù cúng duờng một
viên xá lợi nhỏ như hạt cải công đức cũng vô lượng, vô
biên.”
Kinh Đại – Bát Niết –
Bàn tập 3, trang 785, Đức Phật bảo ngài A-Nan:
"Này A-Nan ! Nếu thấy
Xá Lợi của Như Lai là thấy Phật..." Chính v́ vậy, mà sự lễ
bái và chiêm ngưỡng Xá Lợi Phật sẽ được phước đức rất lớn.”
Ngoài Cây
Bồ Đề, Xá Lợi tóc, móng tay, răng và nhiều loại Xá Lợi khác
của Đức Phật, c̣n có xá lợi của các vị Thánh Đệ Tử của Đức
Phật và Nhục thân của thiền sư Huệ
Năng đặt tại chùa Hoa Nam huyện
Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, Thiền sư Vũ
Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu huyện Thường
Tín, tỉnh Hà Tây, Vietnam,
Tháp xá lợi Lưỡi tại
Chùa Cưu Ma La Thập tọa lạc tại trung tâm thành phố Vũ Uy,
tỉnh Cam Túc, Trung Quốc, Trái Tim Bất Diệt của Bồ Tát Thích
Quảng Đức,… chiêm ngưỡng đảnh lễ được những di thể thiêng
liêng này, chúng ta phát khởi niềm tôn kính, niềm tin mạnh
mẽ, giao cảm về mầu nhiệm, công lực, công đức tu tập của
Phật và Chư Thánh Đệ Tử,…
Trên nền nảng kiến
thức về lịch sử thờ cúng tượng Phật và những ǵ liên quan
đến Đức Phật như thế, bây giờ chúng ta trở lại với Ngọc
Phật.
Theo tài liệu từ site
về Phật Ngọc (http://www.jadebudd
“Phật Ngọc Cho Ḥa
B́nh Thế Giới
Phật Ngọc cho Ḥa B́nh
Thế Giới được xem là pho tượng lớn nhất và trang nghiêm nhất
trên thế giới hiện nay được điêu khắc từ tảng ngọc thạch.
Tượng Phật cao 2 mét 7 được đặt trên pháp ṭa có chiều cao 1
mét 4, với trọng lượng nặng trên 4 tấn và trị giá là 5 triệu
Mỹ Kim. Với chiều kích và vẻ đẹp của tôn tượng, Phật Ngọc
này được vinh danh là kỳ quan của thế giới hiện nay.
Lama
Zopa Rinpoche
nói rằng “Phật Ngọc sẽ thắp sáng toàn cơi thế gian, sẽ mang
niềm an lạc hạnh phúc không thể nghĩ bàn, góp phần ngăn chận
những cuộc hủy hại tàn phá đang xảy ra khắp nơi, kể cả nạn
chiến tranh.” Tượng Phật ở Bảo Tháp Đại Bồ Đề (Mahabodhi
Stupa), Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn độ, được chọn làm mẫu cho Phật
Ngọc. Mẫu h́nh này được chọn v́ đây là h́nh ảnh quen thuộc
của đức Phật trong ḷng Phật tử ở khắp mọi nơi. “
“Phật Ngọc cho Ḥa
B́nh Thế Giới (The Jade Buddha for Universal Peace) được coi
là pho tượng lớn nhất và trang nghiêm nhất trên thế giới
hiện nay. Tôn tượng này được điêu khắc chạm trổ từ 1 khối
ngọc thạch mang tên là "Niềm Kiêu hănh của Bắc cực" (Polar
Pride). Khối ngọc này t́m thấy ở tỉnh bang
Ông Kirk Makepeace,
Giám đốc Công ty Khai thác ngọc, cho rằng khối ngọc này xứng
đáng đưa vào danh sách bảo vật của hành tinh chúng ta và
phải "dành cho thế giới quyết định" sử dụng như thế nào, mặc
dù công ty ông đă phát hiện ra khối ngọc có một không hai
này. Ông nói: "Tôi sẽ để thế giới quyết định. Tôi gọi khối
ngọc này là 'Niềm Kiêu hănh của Bắc cực' và sẽ không cưa bớt
mảnh nào từ khối ngọc này. Tôi để nguyên như vậy mà đấu giá,
v́ đây là một kỳ quan của thiên nhiên. Tôi mong muốn khối
ngọc này trở thành một món vật vô giá được tôn trí trong
viện bảo tàng, một công tŕnh lớn hay một biểu tượng nào đó.
Quả thật đây là khối ngọc thạch Nephrite với màu xanh sáng
đẹp chưa từng thấy trước đây trên thế giới".
Sau mấy năm làm việc tận tụy, các nghệ nhân của công ty điêu
khắc ngọc thạch uy tín nhất ở Thái Lan là Jade Thongtavee Co
Ltd. cùng các nghệ nhân điêu khắc từ Úc Đại Lợi đến đă hoàn
thành công tŕnh điêu khắc chạm trổ tôn tượng Phật Ngọc với
chiều cao 3 mét 7 đặt trên pháp ṭa cao 1 mét 4, trọng lượng
nặng trên 5 tấn. Với kích thước và vẻ đẹp của tôn tượng,
Phật Ngọc được vinh danh là kỳ quan của thế giới. Tại lễ lạc
thành, tôn tượng được Lạt Ma Zopa Rinpoche đặt tên là Phật
Ngọc cho Ḥa b́nh Thế giới.
Giá trị của Phật
Ngọc và quá tŕnh hoàn thành
Phật Ngọc cho Ḥa
B́nh Thế Giới được tạo theo khuôn mẫu của tôn tượng Đức
Phật Thích Ca thờ trong Bảo Tháp Giác Ngộ (Mahabodhi
Stupa) ở Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ). Nét đẹp uy nghi của
tôn tượng với tư thế "xúc địa ấn" nơi thánh địa đă khắc
ghi vào tâm khảm của hàng triệu Phật tử khắp nơi trên
thế giới về đây lễ bái. Sau khi Phật Ngọc được hoàn
thành, h́nh ảnh tôn tượng Đức Phật Thích Ca trong Bảo
Tháp Đại Giác Ngộ Ấn Độ ḥa nhập vào tôn tượng Phật
Ngọc, nên đă nhanh chóng được vinh danh là kỳ quan của
thế giới.
Người có duyên đầu với
tượng Phật Ngọc
Vào một đêm vắng lặng
từ miền núi tại thung lũng Kathmandu, Nepal, Lạt Ma Zopa
Rinpoche, vị thầy lănh đạo tối cao của Hội Bảo Tồn Phật Giáo
Đại Thừa (Foundation for The Preservation of The Mahayana
Teachings, viết tắt là FPMT), chiêm bao thấy khối ngọc tại
Gia Nă Đại. Giật ḿnh tỉnh giấc, ngài lập tức gọi điện thoại
cho đệ tử là ông Ian Green ở Úc Đại Lợi khuyên bảo ông nên
t́m đến nơi để thỉnh cho được khối ngọc ấy và tạo dựng một
tôn tượng Phật Ngọc, với ước nguyện ánh sáng của Phật Ngọc
sẽ mang niềm an lạc, hạnh phúc, đến cho chúng sanh và cũng
là mục đích ngăn chặn những hiểm họa tàn phá của ô nhiễm tâm
linh và tàn sát chết chóc bởi thiên tai và chiến tranh.
Lúc bấy giờ ông Ian Green tuy bận rộn công việc xây dựng Bảo
Tháp Đại Từ Bi tại Úc Đại Lợi, vẫn lên đường đến Gia Nă Đại
như lời hướng dẫn của Lạt Ma Zopa Rinpoche, cuối cùng đă t́m
được nơi khai thác khối ngọc vĩ đại. Ông Ian Green nói cho
ông Kirk Makepeace biết ông mua khối ngọc này để tạo dựng
pho tượng Phật Ngọc, biểu tượng cho ḥa b́nh thế giới. Mục
đích này phù hợp với ḷng mong muốn của ông Kirk Makepeace
về khối ngọc quư, ông Ian Green mới thỉnh được khối ngọc này
một cách dễ dàng với giá tượng trưng là một triệu Mỹ kim.
Lạt Ma Zopa Rinpoche sinh năm 1946 tại
Lạt Ma Zopa Rinpoche là người chỉ đạo và thẩm định mọi việc,
từ lúc khởi nguyên cho đến lúc hoàn thành dự án tôn tạo Phật
Ngọc cho Ḥa B́nh Thế Giới.
Ông Ian Green, Giám Đốc Công tŕnh Tạo dựng Phật Ngọc, người
được Lạt Ma Zopa Rinpoche khuyến khích vận động tài chánh
mua khối ngọc ở Gia Nă Đại đem qua Thái Lan tạc tượng Phật.
Sau một đại lễ cầu nguyện cho Phật Ngọc hoàn tất tại Thái
Lan vào đầu năm 2009, từ tháng 03/2009, Phật Ngọc bắt đầu
cuộc du hành ṿng quanh thế giới, tạo cơ hội cho nhiều người
chiêm bái, tiếp nhận lực gia tŕ từ một kỳ quan của thế giới
hiện đại. H́nh tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thực hiện từ
khối ngọc quư kết tụ trong ḷng đất từ ngàn xưa sẽ khắc sâu
trong tâm khảm mọi người. Phật Ngọc được cung nghinh ở nhiều
nơi trên các quốc gia cho chúng ta thấy giá trị của ḥa
b́nh. Mọi người trên thế gian này, không phân biệt tôn giáo,
thành phần, hăy cùng nhau cầu nguyện đem lại ḥa b́nh cho
thế giới, b́nh an cho các mối quan hệ, cho gia đ́nh và bạn
bè, b́nh an trong công sở và sự thanh thản trong tâm hồn.”
Tham khảo tài liệu về
quá tŕnh h́nh thành Phật Ngọc trên, chúng ta thất có ǵ đặc
biệt liên quan đến Phật Ngọc?
1/ Phật Ngọc phát khởi
từ một giấc mơ có thực của 1 vị Lạt Ma Tây Tạng - Lạt Ma
Zopa Rinpoche, quả nhiên điều này linh thiêng ứng mộng, cũng
như hiện tược các nhà ngoại cảm hoặc đi t́m tông tích các vị
Lạt Ma tái sanh, vượt ra ngoài tri giác thông thường của con
người.
2/ Đây là một kỳ quan
thế giới xét về khối lượng, trọng lượng, giá trị và nghệ
thuật điêu khắc.
3/ Ngọc Phật, ngay từ giai đoạn đầu để h́nh thành, có sự kết
tinh của những tấm ḷng v́ Đạo Pháp, trọng giá trị tâm linh,
xem thường vật chất, giàu sang, mang tầm vóc liên kết quốc
tế Tây Tạng, Canada, Úc, Ấn Độ, Thailan của những tâm hồn
thuần khiết hiến dâng một tặng phẩm bất hũ cho đời.
Những chất vấn, phản
biện liên quan đến Phật Ngọc Hoà B́nh:
1/ Tại sao phải lấy
Ngọc đúc ra tượng Phật và rồi việc di chuyển nặng nề, cồng
kềng, bố trí xếp đặt, thuê an ninh, cảnh sát (security) bảo
vệ cho việc trưng bày cho công chúng chiêm ngưỡng, đảnh lễ…
quá tốn kém. Chi phí này dành cho việc từ thiện xă hội có
tốt hơn không?
2/ Nếu bảo Phật Ngọc
linh thiêng vậy chứ Phật giấy, Phật đất, Phật xi măng,…
không linh thiêng hay sao? Chẳng lẽ Phật lại phân biệt đối
xử, trọng giàu khinh nghèo trong khi thực ra Phật từ bi,
b́nh đẳng đến với người gánh phân, với mọi hạng bần cùng, nô
lệ…Vậy trước khi có tượng Ngọc Phật này hoặc là ngoài tượng
Ngọc Phật này ra, các tượng Phật khác có linh thiêng hay
không?
3/ Ngọc Phật phóng hào
quang và có hiện tượng Mạn Đà La là thế nào? Thực sự có bao
nhiêu người chứng kiến những hiện tượng linh thiêng này? Có
phải chăng những h́nh ảnh đưa lên là do kỷ xảo của computer
và xử lư h́nh ảnh, mang tính chất giả dối, quảng cáo, kích
thích và lan rộng tệ nạn mê tín dị đoan?
4/ Hoà b́nh là thế
nào? Đem Ngọc Phật này đến nước nào hoặc châu lục nào th́ sẽ
giúp cho nước đó và châu lục đó hoà b́nh hay sao?
5/ Nh́n chung có vẻ cổ
xuư, nặng về h́nh thức quá. Đức Phật và truyền thống Phật
giáo xưa nay có cổ xuư về h́nh thức và h́nh tướng như vậy
không?
Giá trị đích thực và
những tác dụng tích cực của Ngọc Phật:
Những người ủng hộ cho
Ngọc Phật sẽ có những câu trả lời như sa:
1/ Nếu bảo là tốn
kém th́ bất cứ tổ chức sinh hoạt, Lễ Hội Phật Giáo nào cũng
phải tốn kém rồi.
Nếu bảo hăy giúp cho những người nghèo khổ tốt hơn làm việc
này vậy thử hỏi cho đến khi nào thế gian này mới hết những
người nghèo khổ? Vậy th́ tất cả Phật tử cũng không nên ăn
ngon, mặc đẹp, ở nhà cao lớn, hoặc trang điểm vàng ngọc phấn
son,… cũng không nên có chùa to, Phật lớn các nơi, xe hoa
Phật đản, phim, cải lương Phật giáo… mà tất cả hăy dồn cho
việc cứu giúp những chúng sanh thiệt tḥi, khốn khó. Nhưng
thực tế cuộc đời th́ không bao giờ được lư tưởng đến như
vậy, có biệt nghiệp và cộng nghiệp, con người vẫn được quyền
hưởng tài sản và hạnh phúc, cho dù mang tính chất tương đối,
thế gian bên cạnh việc giúp đỡ kẻ khác. Phật tử của một số
chùa nào đó, họ sẵn sàng cùng nhau trang trải chi phí di
chuyển, kiến lập Đạo tràng, bảo quản Ngọc Phật.
2/ Linh thiêng hay
không chủ yếu là ở nơi con người chúng ta.
Điều này khiến tôi nhớ đến Xá lợi răng chó (có thể tham khảo
tại:
http://tw.myblog.
“Năm này qua năm khác, bà mẹ nhắc nhở đứa
con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà không
thực hiện được lời mẹ dặn.
Một ngày nọ, đứa con lại lên đường đi Ấn Độ
và bà mẹ nói: “Lần này con không mang ǵ cho mẹ từ Giác
Thành về để mẹ thờ, th́ mẹ sẽ tự tử chết thôi”. Đứa con lấy
làm sợ ḷng quyết tâm của mẹ, hứa lần này sẽ không quên.
Sau vài tháng làm việc, người con lên đường
trở về nhà, bỗng nhớ rằng ḿnh đă không ghé ngang Giác Thành
để t́m xương tro cho mẹ. “Làm sao bây giờ?”, anh ta tự hỏi.
“Mẹ ta sẽ tự tử thật đấy nếu không mang ǵ về cho bà”. Anh
ta nh́n quanh th́ thấy một con chó đă chết khô. Người con
vội vàng nhổ một chiếc răng chó, quấn lại cẩn thận trong một
chiếc khăn lụa.
Về đến nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ:
“Đây chính là một chiếc răng của Phật Cồ đàm. Tự tay con đă
t́m ra được tại Giác Thành đây!”.
Bà mẹ đáng thương tin con và tôn quư chiếc
răng, xem chiếc răng như là răng thật của Phật Cồ đàm, bậc
Chánh đẳng Chánh giác. Kể từ giờ phút đó, bà hết ḷng thờ
phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó, bà t́m được
sự an lạc nội tâm, điều mà suốt đời bà ra công t́m kiếm.
Cũng không bao lâu sau th́ bạn bè và hàng xóm
cũng nhận thấy rằng có một thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung
quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền ảo chiếu trên đó.
Mỗi ngày có nhiều người đến lạy bàn thờ của bà lăo và xin
được tiếp một chút năng lực của chiếc răng mầu nhiệm. Tới
ngày bà chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà và
miệng bà mỉm cười làm cho đứa con trai đang than khóc hiểu
rằng, bà đang trở về với tự tính, từ đó mọi vật được sinh
thành.
Kể từ ngày đó người ta biết rằng, một chiếc
răng chó cũng trở thành mầu nhiệm, nhưng với điều kiện đó là
sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhận và ḷng từ bi
của một vị Phật kết hợp với nhau.”
Quả nhiên, “linh tại
ngă, bất linh tại ngă” vấn đề chính ở chỗ không phải giá trị
của vật tượng trưng đem ra thờ quyết định mà chính là tấm
ḷng thành tín và công phu tu tập của người Phật tử đóng vai
tṛ quyết định. Vấn đề ở đây là tăng thượng duyên, không
gian, cảnh tượng, trong thời điểm đó khiến con người trang
nghiêm và phát tâm ( đang nói về căn cơ nhiều hạng). Nhiều
người tại đi hành hương đến tại Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng,
vườn Lộc Uyển, Rừng Câu Thi Na, núi Linh Thứu,…họ cảm thấy
mầu nhiệm và thấy Phật. Vậy th́ Phật ch́ ở Ấn Độ chứ không
đến các nước khác hay sao? Không phải vậy, Phật th́ biến
nhập pháp giới và dung thông vô ngại, vấn đề là khi chứng
kiến những di tích ấy, họ có cảm xúc, tín tâm, phát tâm cao
độ hơn. Phật Ngọc này cũng tương tự, Phật tử nương tha lực
của Đại chúng, trước Đạo tràng trang nghiêm, chiêm ngưỡng
Phật uy nghi rạng rỡ mà liên tưởng đến phước đức và công đức
của Phật,…Cũng vậy, không phải Phật ở Chùa linh hơn phật ở
nhà bởi v́ Phật chùa to hơn Phật nhà, được nhập từ Đài Loan
hay Đà Nẵng, cái chính là môi trường ở chùa trang nghiêm
thanh tịnh, uy lực của Đại chúng. Hơn nữa, dù sao th́ một
bức tượng to lớn, trang nghiêm, đẹp đẽ cũng thuận duyên cho
Phật tử đảnh lễ chiêm ngưỡng quán tưởng về Đức Phật.
3/ Ngọc
Phật phóng hào quang và có hiện tượng Mạn Đà La là thế nào?
Thực sự có bao nhiêu người chứng kiến những hiện tượng linh
thiêng này?
Vấn đề này quả nhiên là : “cảm ứng Đạo giao nan tư ngh́”,
khó nói, khó bàn đó. Nói về Hoa Mạn Đà La th́ chúng ta t́m
thấy trong Kinh Pháp Hoa :
Lúc bấy giờ, Đức
Thế-Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng dường cung kỉnh ngợi
khen tôn trọng, v́ các vị Bồ-Tát mà nói kinh đại thừa tên
là: "Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm".
Nói kinh nầy
xong, Đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định
"Vô-Lượng-Nghĩa xứ", thân và tâm của Phật đều không lay
động.
Khi đó trời
mưa hoa Mạn-Đà-La, hoa Ma-Ha Mạn-Đà-La, hoa Mạn-Thù-Sa, hoa
Ma-Ha Mạn-Thù-Sa, để răi trên Đức Phật cùng hàng đại chúng;
khắp cơi Phật sáu điệu vang động
(
KINH DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA,
PHẨM "TỰA" THỨ NHẤT)
Về linh thiêng mầu
nhiệm th́ có người cảm nhận được có người th́ không tuỳ theo
cơ duyên và công lực tu tập của mỗi người. Ví dụ, hai người
trong chánh điện, trước tượng Phật hoặc cùng tại một Phật
tích, có người thấy hào quang, Phật hiện ra, có người lại
không. Thế cho nên việc chụp và đưa lên những tấm h́nh Ngọc
Phật có hào quang và Mạn Đà La là thật hay là giả th́ chỉ có
người đó mới biết được. Nếu như chúng ta cùng đứng chung với
người đó, cùng chụp h́nh một lượt với người đó mà người đó
thấy và chụp h́nh có hào quang và Mạn Đà La trong khi chúng
ta không có, đó là tại v́ người đó đủ cơ duyên, thành tín
thâm sâu, phát nguyện cao cả nên cảm nhận được những dấu
hiệu linh thiêng tương ứng.
Nhưng nếu như quả thực
không có ǵ hết mà có người dùng kỷ thuật computer và xử lỳ
h́nh ảnh để tạo vẽ ra hào quang và Mạn Đà La nơi Ngọc Phật
để quảng cáo, v́ danh, v́ lợi cho cá nhân hay cho “chùa
ḿnh”, hoặc là muốn nhân cơ hội này khiến cho Ông Phật “Đạo
ḿnh” linh thiêng mầu nhiệm, như vậy là điều không nên,
không tốt, dối trá, lừa gạt và lung lạc, đưa mọi người vào
con đường mê tín dị đoan.
4/
Hoà b́nh là thế
nào? Đem Ngọc Phật này đến nước nào hoặc châu lục nào th́ sẽ
giúp cho nước đó và châu lục đó hoà b́nh hay sao?
Chúng ta nhận thấy nếu như kiến lập Đạo tràng trang nghiêm
và thiết trí Ngọc Phật tại đó rồi thông tin và mời th́ có
một số lượng khá nhiều người, người bản xứ, người từ nhiều
sắc tộc khác nhau, các nhà lănh đạo, thị trưởng,…đến tham dự
v́ Đức Phật là một vĩ nhân, một danh nhân văn hoá thế giới,
chính Liên Hiệp Quốc xác định trách nhiệm phối hợp với các
quốc gia Phật Giáo tổ chức Phật Đản trong nhiều năm qua và
gọi ngày Phật Đản là : International Day for Peace ( Ngày
Quốc Tế Ḥa B́nh). Từ việc chiêm ngưỡng đảnh lễ Ngọc Phật,
mọi người ôn nhắc nhau về lịch sử, công hạnh của Ngài và các
giá trị của Đạo Phật về Trí Tuệ và Từ Bi của họ khiến cho họ
sống và đối nhân xử thế tốt đẹp hơn. Tất nhiên, trong thành
phần tham dự đó cũng có người đến với mục đích riêng của họ
như là quảng cáo, kinh doanh, ngoại giao, chính trị, lấy
ḷng người, lấy ḷng cử tri,…nhưng dù sao cũng gieo cho họ
thêm chủng tử bái kiến Đức Phật, soạn, nói và dùng những
ngôn từ hợp lẽ trong khi tham dự,…Thông qua các Lễ Hội chiêm
bái Ngọc Phậ như vậy th́ giá trị đạo đức tâm linh được lan
rộng và nhân lên cũng giống như việc thêm nhiều ngôi chùa
th́ sẽ giảm đi nhà tù và trại cai nghiện,…Điều này có tác
hưởng đến quần chúng, nhận định, khuynh hướng, lối sống và
có tác dụng giáo dục, thẩm mỹ, đạo đức,…Đó là thể hiện ước
mơ và hành động và nếu không có tác dụng tuyệt đối, hoàn
toàn 100 % th́ cũng có tác dụng phần nào chứ đâu phải là
không có tác dụng ǵ cả? Hàng ngày, sau mỗi thời tụng kinh
đếu có câu phục nguyện cho : “thế giới hoà b́nh, chúng sinh
an lạc”, vậy lời phục nguyện đó linh ứng hay là hăo huyền,
dù sao đi nữa, đó cũng là tâm, chí và nhắc nhở hành động cho
chúng ta, góp phần chuyển cộng nghiệp cho chúng sanh, cho
thế giới này an b́nh hơn, tốt đẹp hơn. Có câu nói :
“Thà thắp lên một ngọn nến nhỏ c̣n
hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”
5/ Nh́n chung có vẻ cổ
xuư, nặng về h́nh thức quá.
Đức Phật và truyền thống Phật giáo xưa nay có cổ xuư về h́nh
thức và h́nh tướng như vậy không? Về chân tinh tinh thần của
việc cung kính, đảnh lễ, diện kiến Như Lai được t́m thấy qua
những lời dạy của Đức Phật :
“Tất cả các pháp hữu
vi
Như bóng, bọt nước có ǵ khác đâu
Như sương, như điện lóe mau
Hăy xem như giấc chiêm bao mơ màng”
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (hễ
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng)
“Nếu dùng sắc thấy
ta,
Dùng âm thanh cầu ta.
Là người hành đạo tà
Chẳng thể thấy Như
Lai.”
Thậm chí để phá chấp tướng trong việc thờ Phật, chư Tổ Sư
dùng những biện pháp ấn tượng hơn
Thiền Sư Thích Thanh
Từ trong sách : “THIỀN TÔNG VIỆT
“Bởi thấy Tánh giác
không lệ thuộc vào thân tướng, nên Thiền tông thờ Phật không
căn cứ vào thân Phật ở Ấn Độ, tùy người xứ nào liền tượng
h́nh Phật giống người bản xứ ấy. Tánh giác lồng sẵn trong
mỗi người, sùng thượng Tánh giác đâu cần bám vào h́nh thức
người Ấn Độ mới gọi là Phật. Thờ Phật với quan niệm biểu
trưng để nhắc nhở mọi người nhớ lại Tánh giác của ḿnh. Đức
Phật ngồi trên bàn là giả, chính Tánh giác của ḿnh mới là
ông Phật thật. Thế mà người ta quên Tánh giác đi, chỉ biết
ông Phật ở ngoài, quên hẳn ông Phật nơi ḿnh. Thiền sư Tùng
Thẩm nói: “Phật vàng không độ được ḷ đúc, Phật gỗ không độ
được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi ở
trong.” Những h́nh tượng Phật chúng ta thờ, đều là tướng
duyên hợp, đă duyên hợp làm sao không bị duyên tan. Phật
thật đang ngồi lồ lộ nơi thân ta, chúng ta bỏ quên ông Phật
thật, chạy theo ông Phật giả. V́ thế Thiền sư Đơn Hà Thiên
Nhiên mới làm việc kỳ quái này:
Sư đến chùa Huệ Lâm
gặp tiết đại hàn, bèn lên chùa thỉnh tượng Phật gỗ đốt để
hơ. Viện chủ Hướng trông thấy quở trách: “Sao đốt tượng Phật
của tôi?” Sư lấy gậy bới trong tro nói: “Tôi thiêu để lấy
xá-lợi.” Viện chủ bảo: “Phật gỗ làm ǵ có xá-lợi?” Sư nói:
“Đă không có xá-lợi, thỉnh hai vị nữa thiêu.” Viện chủ nghe
câu này, tất cả chấp đều tan vỡ. Người sau nói “Đơn Hà thiêu
mộc Phật, Viện chủ lạc mi mao” (Đơn Hà thiêu Phật gỗ, Viện
chủ rụng lông mày).
Xá-lợi là cái tinh ba
cô đọng lại sau khi thiêu thân Phật. Thân Phật đă hoại hơn
hai ngàn năm rồi, mà xá-lợi vẫn c̣n. So sánh trong tương
đối, thân Phật là giả, xá-lợi là thật. Nương cái giả để thấy
cái thật mới đúng tinh thần thờ Phật. Chỉ biết cái giả mà
không thấy cái thật, tướng giả ấy trở thành vô nghĩa. V́ thế
Thiền sư Đơn Hà bảo: “Đă không có xá-lợi, thỉnh hai vị nữa
thiêu.” Viện chủ liền nhận được ư này.”
(source :
http://www.thuong-
Tổ Lâm tế có dạy : "Phùng
Phật sát Phật, phùng Tổ sát tồ" ("Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ
giết Tổ"). Khi ngồi Thiền tất cả ấm cảnh hiện ra, đều là
vọng tưởng, đừng chạy theo nó, cũng đừng tham cầu chứng đắc,
chánh niệm tỉnh giác, thiết thực hiện tại, nắm vững đề mục,
pháp môn, đừng thả h́nh bắt bóng,…
Điều Ngự Giác Hoàng
Trần Nhân Tông viết : “Bụt ở trong nhà, Chẳng phải t́m xa.
Nhân khuấy bổn, nên ta t́m bụt.
Chỉn mới hay chính Bụt là ta”
Đó cũng là ư nghĩa câu
: “Phật trong nhà không thờ, thờ Thích Ca ngoài đàng”.
Nhưng trong sinh hoạt
Phật Giáo, nhiều trường hợp phương tiện tuỳ duyên, “dĩ huyễn
độ chơn”, nương tướng mà thấy tánh trong tinh thần:
Thật tế lư địa bất thọ nhất trần,
Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.
Nghĩa là: Trên chỗ thật tế, không có dính một mảy bụi, nhưng
trong khi hành Phật sự, không bỏ một việc nào.
Biết bao nhiêu trường hợp ngày nay, Chư Tăng hành đạo khai
bày ra nhiêu phương tiện. Có bao nhiêu diễn biến đi khác xa
hơn sinh hoạt Tăng Đoàn và Phật Giáo thời Nguyên thuỷ, nào
là Chùa to, Phật lớn, chạm rồng, vẽ phụng trở thành danh lam
thắng cảnh, nào là việc lấy da ḅ, da trâu bịt miệng trống,
lấy vàng đúc chuông và sử dụng bao nhiêu pháp khí khác, nào
là pháp : « khai quang điểm nhăn » khi « an vị Phật », nào
là việc lấy tượng Phật ra đấu giá, Chùa Vàng ở Miến Điện,
Thai Lan, Cam Pu chia ,...dùng vàng làm Y mạ Phật, Phật đúc
bằng đồng đen,...
Những việc đi xa với tinh thần Phật Giáo nguyên thuỷ như
là : mướn ca sỹ đến ca múa, tổ chức văn nghệ gây quỹ, bao
nhiêu Chùa Việt hải ngoại tránh được việc này ( dù là thuộc
GHPGVNTN hay không thuộc GHPGVNTN)? Việc coi bói, coi ngày
giờ, xem phong thuỷ, dâng sớ điệp, nhiều vị tu sỹ phải lo nợ
nần, hoá đơn (bills) của chùa, lo làm kinh tế và giữ tiền,..
Tất cả những điều đó có thể bỏ được chưa? Rồi ai có thể kiểm
chứng được các câu chuyện hào quang trong các khoá tu Phật
Thất và « Niệm Phật văng sanh lưu xá lợi » lá thật hay không
thật?
Nếu là người căn cơ cao, lo tinh chuyên tu tập th́ cũng chẳng cần đến h́nh tượng, thờ phượng, lễ bái. Đức Phật dạy : « Sau khi Như Lai nhập diệt, hăy lấy pháp và luật làm Thầy », «Ai thấy Lư Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật”. Nhưng mấy ai đạt đến chố thấy Tánh mà ĺa Tướng, có mấy ai không cần nhờ đến h́nh thức, h́nh tướng, h́nh tượng, Đạo tràng, môi trường,…? - Pháp thân xá lợi c̣n gọi là Pháp tụng xá lợi, tức là Giáo pháp và Giói luật của Phật c̣n lưu truyền lại.
Đến đây, tôi chợt nhớ đến mẫu đối thoại thú vị giữa
thần học gia người
Leonardo là một trong những người
cải cách Thần học Giải phóng.
Tại một cuộc hội thảo bàn tṛn về
tôn giáo và tự do có Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dư.
Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài, vừa tinh nghịch, vừa ṭ ṃ:
Thưa Ngài, tôn giáo nào tốt nhất”
Tôi nghĩ ngài sẽ nói “Phật
giáo Tây tạng” hoặc “Các tôn giáo phương Đông, lâu
đời hơn Kitô giáo nhiều”
Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây
lát, mỉm cười và nh́n vào mắt tôi.
Điều này làm tôi ngạc nhiên v́
tôi biết đây là một câu hỏi ranh mănh. Ngài trả lời: “Tôn
giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất.
Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.
Để giáu sự bối rối của tôi trước
một câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi: “Cái ǵ
làm tôi tốt hơn ?”
Ngài trả lời: “Tất cả cái ǵ
làm anh biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn,, biết từ
bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, c̣
đạo đức hơn”. “Tôn giáo biến anh thành như vậy là tôn giáo
tốt nhất”.
Tôi thinh lặng giây lát, ḷng đầy
thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đền câu trả lời đầy
khôn ngoan và khó phản bác
Anh bạn ơi, tôi không quan tâm
đến tôn giáo của anh hoặc anh có ngoan đạo hay không”.
“Điều thật sự quan tâm
đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng,
gia đ́nh, công việc, cộng đồng và đối với thế giới”. …
(Source:
http://vn.360plus.
Như vậy, bằng phương
cách đến với tôn giáo, Phật Giáo, tiếp cận với h́nh tượng
Phật, điều quan trọng là chúng ta có được Phật chất và mang
đến cho đời những nội dung Phật chất hay không? Nếu không
th́ những h́nh thức, phươnng tiện đó trở thành vô nghĩa.
Nay tượng Ngọc Phật
được trưng bày nhiều nơi trên thế giới, lẽ ra đó là niềm tự
hào cho Phật Giáo đồ và mang đến ḥa b́nh cho thế giới,
nhưng phũ phàng trớ trêu thay trong khi hoà b́nh thế giới
th́ chưa thấy mà lại thấy tranh chấp, xung đột, chỉ trích
nhau, không khéo chúng ta làm tṛ cười cho những người không
theo Phật Giáo và phụ ḷng những người đă đem hếc sức ḿnh
tạo ra tượng Ngọc Phật với những tâm nguyện tốt đẹp. Tôi nhớ
đến câu chuyện nhận xét về tư thế ngồi Thiền lẫn nhau giữa
Ngài Phật Ấn và Tô Đông Pha. Ngài Phật Ấn bảo tư thế ngồi
Thiền của Tô Đông Pha giống Phật trong khi Tô Đông Pha chê
kiểu ngồi Thiền của Ngài Phật Ấn giống băi cức trâu. Tô Đông
Pha hí hửng tưởng là đă thắng được Ngài Phật Ấn 1 keo nhưng
bị chưng hửng vỡ lẽ khi nghe em gái ḿnh phân tích: V́ ngài
Phật Ấn có tâm Phật nên nh́n thấy cái ǵ cũng giống Phật,
c̣n tâm anh như băi cức trâu vậy đó nên nh́n ǵ cũng thấy
giống băi cức trâu.
Người nào có tâm xấu,
thị phi, ghen tức, hơn thua,… th́ luôn nghĩ xấu và nói xấu
về việc làm của người khác.
Liên hệ việc này,
ông Đào Trọng Cường, Giám
đốc Công ty Thần Châu Ngọc Việt, chủ nhân của khối ngọc
khổng lồ nặng 35 tấn nói về việc chế tác pho tượng Phật kỷ
lục:
“Tôi vẫn đang t́m
thợ giỏi, phải tính toán cách làm cho hiệu quả. Khi hoàn
thiện, tôi muốn mang bức tượng quư đi khắp Bắc-Trung-Nam để
người dân cả nước được chiêm bái".
Việc này khá tốn kém tiền
bạc. Ông có thể tiết lộ chi phí thuê khoảng 50 thợ nước
ngoài sang ăn ở và làm việc ở
Việt Nam
mấy năm liền?
Ước lượng chi phí
khoảng trên dưới 1 triệu USD. Việc này đáng quư chứ, cho dù
Ông ta dùng 1 triệu đô la này hưởng thụ cho Ông và gia đ́nh
Ông cũng là điều công bằng thoả đáng huống chi là cúng dường
Tam Bảo, tạo 1 pho tượng đẹp cho người đời chiêm ngưỡng lễ
bái.
(Source:
http://phattuvietna
Chúng ta cũng lưu ư chi tiết
Ngài Lama Zopa Rinpoche là người gần gũi làm việc
với Ngài Đạt Lai Lạt Ma, người có uy tín hàng đầu trong Phật
Giáo và đă được giải Nobel Hoà B́nh, chắc chắn Ngài Đạt Lai
Lạt Ma chấp thuận, chúc phúc cho công việc mang tượng Ngọc
Phật đi khắp thế giới này. Nếu như có vài bất đồng quan điểm
trong việc tổ chức trưng bày hoặc trong phương diện thông
tin đại chúng th́ nên nhẹ nhàng góp ư với nhau để sửa đổi
cho thích hợp chứ không phải lá cái cớ cho thị phi, tranh
chấp, nhân ngă bỉ thử, sát phạt nhau!
Thực t́nh mà nói, tôi
ưu tiên và chú tâm cho việc tổ chức chiêm bái Xá Lợi Phật
chứ chưa nghĩ đến việc đi chiêm bái hoặc tổ chức chiêm bái
Ngọc Phật. Tuy nhiên, tôi tuỳ hỷ cho những ai đủ phước duyên
tổ chức cho mọi người chiêm bái hoặc đi chiêm bái Ngọc Phật.
Dù điêu khắc hay tô đắp tạc tạo với bất cứ h́nh thức vật
liệu nào, tất cả cũng nhằm một mục đích chung là mang lại
một sắc thái thẩm mỹ để phát khởi tín tâm của những người
hâm mộ sùng bái ở nơi Đức Phật. Tựu trung nếu đủ mọi duyên
thuận tiện th́ tổ chức trưng bày tượng Ngọc Phật cho mọi
người chiêm bái, cung kính, đảnh lễ học hỏi và thực hành
theo gương sáng của Đức Phật là tốt, là thiện pháp, nhưng
những ai nói về Hào Quang và Mạn Đà La xung quanh Ngọc Phật
th́ phải cân nhắc, theo chánh ngữ, không được giả dối khiến
mọi người xôn xao, nghi ngờ, làm giảm đi tính chất tốt đẹp
của công việc này và lạc dẫn mọi người vào mê tín dị đoan,
có th́ nói có, không có th́ bảo là không, không nên vọng ngữ
nói không thành có v́ danh lợi, tham cầu,… Làm như thế là tạo
ra tỳ vết trong Ngọc Phật, vốn trong sáng, đẹp đẽ và hoàn
hảo, Tôi xin kết thúc bài viết này với 2 bài thơ:
Có th́ có
tự mảy may
Không th́
cả thế gian này cũng không.
Ḱa xem bóng nguyệt
ḷng sông
Ai hay không
có, có không là ǵ ?
Đạo Hạnh thiền
sư
(1072-1127)
Và:
Các pháp đều như huyễn
Xa ĺa nơi tâm thức.
Trí chẳng thấy có
không
Mà khởi tâm
đại bi.
Thích Đồng Trí
---------------------------------------------------
|
XIN HỎI chư vị TẦM H̀NH HoPhap.Net NÀY THẬT HAY GIẢ CHÚNG TA CÓ CẦN KIỂM CHỨNG LẠI nguỵ tạo hay o CHĂNG? |
********************************
THÔNG-CÁO
*
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
trân trọng thông cáo
*
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
1) Thời gian gần đây, tháng 3. 2010, tu viện ở San Diego, trung tâm văn hóa Phật giáo Houston, Texas, ở Hoa kỳ có cung nghinh tượng Phật Ngọc để mọi người chiêm bái, cúng dường. Các buổi lễ khai mạc, cầu nguyện và bế mạc đều diễn ra b́nh thường. H́nh chụp phổ biến trên Internet cho thấy mọi người dự lễ đều sinh hoạt b́nh thường, không có dấu hiệu cho thấy có ǵ bất thường xảy ra, không ai ngước mặt nh́n lên trời. Bổng dưng tháng sau, một hai trang nhà Phật giáo tại Hoa kỳ và Canada cho đăng thêm các h́nh ảnh buổi lễ cung nghinh và cung tiển tượng Phật Ngọc với vô số bong bóng mờ mờ ảo ảo, trong ngành nhiếp ảnh gọi là ‘bokek’, không có ǵ là lạ khi chụp h́nh nơi có quá nhiều ánh đèn rực rỡ, như: sân khấu ca nhạc, phim trường, studio đài TV, hay chỗ tôn trí tượng Phật Ngọc.
2) Sự việc đến đây nếu chấm dứt, th́ không có ǵ đáng nói. Nhưng tiếc thay, tiếp theo đó, một số nhà sư thổi phồng chuyện này lên, gọi các bong bóng đó là “hoa mạn-đà-la”, do trời, chư thiên thần răi xuống cúng dường tượng Phật Ngọc, chỉ thấy được qua máy chụp ảnh digital mà thôi, tuy không ngụy tạo, nhưng không ai thấy được bằng mắt thường. Cũng cần nói thêm, từ ngữ Phật học như ‘hoa mạn-đà-la’, ‘hoa mạn-thù-sa’ có nói trong kinh điển Phật giáo, nhưng không diễn tả h́nh dáng, hay chi tiết ǵ cả. Kinh điển Phật giáo thường dùng các sự tướng bên ngoài, để truyền đạt ngụ ư thâm sâu.
3) Nhận thấy lối quảng cáo này khá hấp dẫn nhiều người, một trang nhà Phật giáo khác tại Úc châu, cũng làm theo với các tấm h́nh chụp tượng Phật Ngọc tại tu viện của họ, trước đó vài tháng, chẳng thấy họ nói ǵ về “hiện tượng linh thiêng” này. Nhà sư chủ biên trang nhà và tu viện ở Úc châu này, trong buổi phỏng vấn của đài truyền h́nh ở Hoa kỳ, tháng 5.2010, trả lời câu hỏi: liệu hoa (flowers) mạn-đà-la trong các buổi lễ tượng Phật Ngọc có thật là hoa (flowers) không, nhà sư lúng túng đính chính, đó không phải là: mạn-đà-la flowers, mà là: mạn-đà-la lights!
4) Nhận thấy sự kiện này lợi dụng tín tâm của đa số tín đồ, làm hoen ố giáo lư trong sáng của đạo Phật, do một số nhà sư thân xác sống nhờ sự cúng dường, nhưng tâm tư miệt thị hàng Phật tử là hạng sơ cơ, ngu dốt, dễ dụ dẫn, để ngoan cố tiếp tục tuyên truyền mê tín dị đoan, bào chữa là lư sự viên dung, là phương tiện! Một số người tuy khoác áo cà sa, miệt thị người khác dù là tu sĩ hay cư sĩ Phật tử, kiêu ngạo sống lâu lên lăo làng, nhưng không phổ biến chánh pháp, lại tiếp tay cho tà pháp và mê tín, buôn thần bán thánh và kinh doanh tôn giáo!
5) Hiện tượng hoa mạn-đà-la này quá rơ ràng, thực sự là mê tín, tin bừa tin càn, không căn cứ, với tâm b́nh thường ai cũng nhận ra, và nhiều trang nhà đă vạch trần theo links bên dưới, bởi các lẽ đơn giản sau đây:
a. có ai đă từng “thấy” hoa mạn đà la, theo như kinh sách, chưa?
b. chưa từng thấy qua, mà đặt tên bong bóng là hoa mạn-đà-la, đúng là tà pháp, mê hoặc tâm người!
c. thời Phật tại thế, có máy chụp h́nh digital chăng?
6) Các trang nhà Đạo Phật Ngày Nay, chùa Phúc Lâm và nhiều trang nhà Phật giáo khác đă và đang đăng rất nhiều phản ảnh của các giới Phật tử khắp nơi, tại gia cũng như xuất gia, vạch trần âm mưu truyền bá mê tín dị đoan để thủ lợi, như sau:
http://chuaphuclam.blogspot.com/2010/05/hoa-man-la-chi-la-hien-tuong-me-tin.html
TÂY PHƯƠNG CŨNG CHỤP ĐƯỢC, họ c̣n cho đó là GHOST (ma/ quỉ)
CÓ G̀ LINH THIÊNG ĐÂU ?
http://www.psychicinvestigators.net/html/orbs.html < -click để xem giải thích hoa mạn-đà-la “TÂY”
http://blogs.forteana.org/node/116
http://www.prairieghosts.com/trouble.html
MỜI XEM HOA MẠN-ĐÀ-LA “TA” LOẠN XẠ TRANG NHÀ QUẢNG ĐỨC & DPNN
http://www.quangduc.com/photo/usa-hoangphap/2010/california/12-5/slides/DSC_7583.html
Các cơ quan truyền thông báo chí tùy nghi phổ biến thông cáo này, xem như một thông tin, để quí đồng hương và Phật tử khắp nơi, trong và ngoài nước, hiểu rơ tường tận hiện tượng mê tín hoa mạn-đà-la.
7) Phật tử khắp nơi, từ trong nước đến ngoài nước, tha thiết thỉnh cầu quí chư Tăng phụ trách các trang nhà Phật giáo nên chấm dứt việc phổ biến h́nh ảnh, bài viết của các tu sĩ hay cư sĩ lầm lẫn trước đây, trả lại sự trong sáng của giáo lư đạo Phật nơi trang nhà của quí vị. Xin đừng đánh mất niềm tin nơi đa số Phật tử chân thành.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Làm tại thành phố Toronto, xứ Canada ngày 11.6.2010
(kỷ niệm ngày 11.6.1963,
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu
tại thủ đô Saigon,
để BẢO VỆ CHÁNH PHÁP)
Chư Tôn-Đức và Ban Biên-Tập
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
Email: cutranlacdao@yahoo.com