Ư nghĩa lịch sử trận hải chiến Hoàng Sa
Trần Gia Phụng
Trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-01-1974, đă được nói và viết đến nhiều. Nhân kỷ niệm 35 năm xảy ra trận hải chiến nầy, ở đây chỉ xin ôn lại vài ư nghĩa lịch sử của trận chiến anh dũng của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa.
								
								
								1.- VIỆT NAM CỘNG H̉A
								Trước hết, cần phải ghi nhận hoàn cảnh khó khăn 
								của Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) hay Nam Việt khi 
								trận Hoàng Sa xảy ra: Hiệp định Paris 
								(27-01-1973), cũng giống hiệp định Genève 
								(20-7-1954) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, 
								lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam, mà giải pháp chính 
								trị không rơ ràng, chỉ để cho quân đội Hoa Kỳ 
								đơn phương rút quân về nước trong danh dự mà 
								thôi.
								Trong khi quân đội Hoa Kỳ rút lui, Hoa Kỳ giảm, 
								rồi ngưng viện trợ cho VNCH th́ Việt Nam Dân Chủ 
								Cộng Ḥa (VNDCCH) hay Bắc Việt chẳng những không 
								rút quân khỏi lănh thổ VNCH, mà c̣n được Cộng 
								sản Quốc tế (CSQT) tăng cường quân lực, liên tục 
								tấn công VNCH.
								Lợi dụng hoàn cảnh quân đội Hoa Kỳ rút lui và 
								quân đội hai miền Nam và Bắc Việt Nam mải mê 
								đánh nhau, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) 
								hay Trung Quốc đưa hạm đội hùng hậu đánh chiếm 
								Hoàng Sa ngày 19-01-1974.
								Việt Nam Cộng Ḥa ở thế lưỡng đầu thọ địch (hai 
								đầu bị địch tấn công). Trong khi chiến đấu chống 
								cộng sản Bắc Việt, Quân lực VNCH cương quyết 
								chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chống đánh tập đoàn 
								bành trướng Bắc Kinh. Phải nhấn mạnh là toàn thể 
								quân dân VNCH, từ trên đến dưới, một ḷng cương 
								quyết bảo vệ lănh thổ của tổ quốc kính yêu.
								Ngày 17-01-1974, trước những tin tức về việc các 
								chiến hạm Trung Quốc hăm dọa quần đảo Hoàng Sa, 
								tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm Bộ Tư lệnh 
								Hải quân Vùng I Chiến Thuật, đă chỉ thị cho vị 
								Tư lệnh HQ Vùng I là Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, 
								chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ chủ quyền và sự 
								toàn vẹn lănh thổ.
								Trong trận chiến nầy, Hải quân VNCH đă gây thiệt 
								hại nặng nề cho hạm đội Trung Quốc, nhưng ngược 
								lại, hạm đội 
								
								Trung Quốc cũng gây thiệt hại không 
								ít cho Hải Quân VNCH. Chiếc tàu bị thiệt hại 
								nặng nhất về phía chúng ta là Hộ tống hạm HQ10 
								do thiếu tá Ngụy Văn Thà chỉ huy.
								Hộ tống hạm HQ10 bị trúng đạn ở pḥng máy chánh 
								và bị nghiêng về bên phải. Pḥng chỉ huy cũng bị 
								trúng đạn. Cả chỉ huy trưởng cùng chỉ huy phó 
								đều bị thương. Biết t́nh trạng chiếc tàu không 
								thể cứu văn, chỉ huy trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh 
								cho chỉ huy phó Nguyễn Thành Trí và thủy thủ 
								đoàn c̣n lại phải đào thoát. Toàn bộ thủy thủ 
								đoàn yêu cầu chỉ huy trưởng cùng rời tàu luôn, 
								nhưng Ngụy Văn Thà từ chối Ông cương quyết ở lại 
								chết theo tàu. Nguyễn Thành Trí xin ở lại với 
								chỉ huy trưởng, cũng không được chấp thuận.
								Ngụy Văn Thà ở lại biển Đông, hy sinh thân mạng 
								đền nợ nước, là một anh hùng dân tộc, tiếp nối 
								truyền thống hào hùng của Trần B́nh Trọng, Trần 
								Quốc Toản… Sự hy sinh của anh em Hải quân VNCH ở 
								Hoàng Sa ngày 19-01-1974 càng ngày càng thêm 
								sáng ngời, nổi bật trước sự hèn nhát của nhà cầm 
								quyền và bộ đội CSVN, hiện đang để cho Trung 
								Quốc lấn chiếm lănh thổ, lănh hải, mà chẳng dám 
								lên tiếng.
								
								2.- VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG H̉A
								Trước tin Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, nhà 
								nước Bắc Việt, đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản 
								Việt Nam (CSVN) và quân đội CSVN, thường tự mệnh 
								danh là “quân đội nhân dân anh hùng, chiến thắng 
								cùng một lúc hai đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ”, 
								đă hoàn toàn im lặng mà không dám lên tiếng.
								Sở dĩ CSVN không dám lên tiếng v́ từ năm 1950, 
								Hồ Chí Minh đă nhiều lần sang Trung Quốc cầu 
								viện để chống Pháp. Đảng Cộng Sản Trung Quốc 
								(CSTQ) đă hết sức giúp đỡ CSVN. Trung Quốc giúp 
								đỡ CSVN không phải v́ t́nh nghĩa quốc tế cộng 
								sản, mà chính v́ để bảo vệ nền an ninh biên giới 
								phía nam của Trung Quốc. Đảng CSTQ ào ạt viện 
								trợ cho CSVN từ 1950 đến 1954. Viện trợ nhiều mà 
								không có điều kiện để trả, th́ chỉ c̣n cách duy 
								nhất là nhượng bộ về chính trị, về giao dịch, về 
								lănh thổ…
								Hiệp định Genève kư kết ngày 20-7-1954, chia hai 
								nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17, CSVN ở phía bắc 
								và Quốc Gia Việt Nam (QGVN) ở phía nam. (QGVN 
								đổi thành VNCH sau cuộc trưng cầu dân ư ngày 
								23-10-1955.) V́ chủ trương đánh chiếm miền Nam 
								bằng vơ lực, CSBV cương quyết từ chối đề nghị 
								của Liên Xô năm 1957, theo đó cả hai miền Bắc và 
								Nam Việt Nam cùng vào Liên Hiệp Quốc như hai 
								nước riêng biệt
								Ở Bắc Việt, ngày 24-5-1958, Ban bí thư Trung 
								ương đảng Lao Động chỉ thị tổ chức học tập chủ 
								thuyết Mác-Lê để xây dựng miền Bắc tiến lên xă 
								hội chủ nghĩa và tiến hành cách mạng ở miền Nam. 
								Muốn tiến đánh miền Nam th́ một lần nữa phải nhờ 
								đến sự trợ giúp của Trung Quốc.
								Vay nợ Trung Quốc từ năm 1950 chưa trả hết, nay 
								CSVN một lần nữa lại muốn nhờ Trung Quốc tiếp 
								tục giúp đỡ để tấn công VNCH, bành trướng thế 
								lực cộng sản xuống phía Nam. Đây là hai lư do 
								chính khiến thủ tướng CSVN là Phạm Văn Đồng đưa 
								ra công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định 
								về lănh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng 
								hải phận 12 hải lư của Trung Quốc. Phạm Văn Đồng 
								kư công hàm trên phải được sự đồng ư của Hồ Chí 
								Minh và bộ chính trị đảng Lao Động lúc đó. Quyết 
								định nầy sẽ tạo ra những hậu quả không lường 
								trước được.
								Điểm sai lầm chiến lược lớn lao nhất, trở thành 
								tội phản quốc, rước voi về giày mộ tổ, là CSVN 
								đă dựa vào Trung Quốc để đánh miền Nam, viện cớ 
								“chống Mỹ cứu nước”. “Chống Mỹ cứu nước” chỉ là 
								cái cớ để kích động ḷng dân. Tuy nhiên, riêng 
								cái cớ nầy cũng đă sai lầm. Trong lịch sử Việt 
								Nam, Trung Quốc đă nhiều lần xâm lăng Việt Nam. 
								Vào thế kỷ 15, nhà Minh chẳng những xâm lăng 
								nước ta, mà c̣n muốn tiêu diệt toàn bộ nền văn 
								hóa của chúng ta, đốt hoặc tịch thu sách vở, bắt 
								bớ nhân tài, đập phá các bia đá… Ngược lại, 
								trong lịch sử thế giới, sau thế chiến thứ hai, 
								những nước bị bại trận trước Hoa Kỳ đều được Hoa 
								Kỳ viện trợ, giúp đỡ tái thiết, và đều trở nên 
								cường thịnh: Đức, Nhật Bản, Nam Hàn… Giữa tăm 
								tối và ánh sáng, giữa đói nghèo và thịnh vượng, 
								CSVN đă đi vào con đường tăm tối đói nghèo, như 
								thi sĩ Nguyễn Du đă viết: “Ma đưa lối, quỷ đem 
								đường, / Lại t́m những chốn đoạn trường mà đi.” 
								(Kiều, câu 2665-2666).
								Ngoài ra, cần chú ư rằng người Tây phương đến 
								Việt Nam thường sẽ ra đi, v́ văn hóa, phong thổ, 
								khí hậu, đời sống người Tây phương khác hẳn với 
								Việt Nam, nên rất ít người Tây phương chịu ở lại 
								Việt Nam. Ngược lại, Trung Quốc ở sát nước ta, 
								phong thổ, khí hậu, văn hóa, văn minh, đời sống 
								gần giống người Việt Nam, nên một khi người 
								Trung Quốc đến nước ta, thường sẵn sàng ở lại 
								nước ta.
								Nếu Bắc Việt và Nam Việt cùng vào Liên Hiệp Quốc 
								theo đề nghị của Liên Xô năm 1957, thi đua xây 
								dựng kinh tế, cùng nhau phát triển đất nước, th́ 
								không thể nào Trung Quốc tiến chiếm Hoàng Sa dễ 
								dàng được. Đàng nầy, CSBV cố t́nh tiến đánh miền 
								Nam, gây ra cuộc chiến, làm cho đất nước chia 
								rẽ, điêu linh, yếu nghèo. Nam Việt bận chống lại 
								Bắc Việt, bảo vệ nền tự do dân chủ ở miền Nam. 
								Trung Quốc nhân cơ hội hai bên đánh nhau, và cơ 
								hội Hoa Kỳ rút quân, liền bất ngờ đánh chiếm 
								Hoàng Sa. Hoàng Sa tuy thuộc lănh thổ của Nam 
								Việt, nhưng cũng là lănh thổ chung của Việt Nam, 
								do cha ông người Việt để lại. Như thế, chính 
								CSBV đă tạo điều kiện cho CSTQ tiến chiếm lănh 
								thổ Việt Nam. Có thể nói, đây là tội phản quốc 
								hết sức lớn lao mà lịch sử không thể tha thứ 
								được. Chính tội phản quốc nầy kéo theo những tội 
								phản quốc về sau, khi CSVN kư các hiệp ước năm 
								1999 và 2000, nhượng đất (trong đó có thác Bản 
								Giốc và ải Nam Quan) và nhượng biển trong vịnh 
								Bắc Việt cho Trung Quốc.
								
								3.- CỘNG H̉A NHÂN DÂN TRUNG HOA
								Việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa có nhiều ư 
								nghĩa quan trọng:
								Các triều đại quân chủ trước đảng CSTQ, đă nhiều 
								lần đem quân xâm lăng Việt Nam, t́m đường xuống 
								Đông Nam Á, đều bị người Việt Nam đẩy lui. Sau 
								trận hải chiến ngày 19-01-1974, Trung Quốc đă 
								chiếm được hải đảo chiến lược Hoàng Sa. Đây là 
								một chiến công lớn lao của đảng CSTQ, v́ CSTQ đă 
								làm được việc mà tổ tiên họ không làm được.
								Trung Quốc đă đầu tư dài hạn trong chiến tranh 
								Việt Nam, tích cực giúp đỡ CSVN từ 1950 đến 
								1954. Sau năm 1954, tuy biết rằng CSVN chẳng có 
								ǵ để trả nợ, nhưng v́ âm thầm nuôi dưỡng ư đồ 
								đen tối, CSTQ vẫn tiếp tục giúp đỡ Bắc Việt từ 
								1954 đến 1973, là năm kư hiệp định Paris. Theo 
								đúng thời điểm Hoa Kỳ vừa rút quân khỏi Việt 
								Nam, CSTQ liền xiết đất bù nợ mà CSVN đă thiếu 
								Trung Quốc bấy lâu nay. Bắc Việt đành phải im 
								tiếng cho kẻ thù truyền kiếp phương bắc cưỡng 
								chiếm lănh thổ do tổ tiên để lại.
								Đây cũng là chiến công đầu tiên của Trung Quốc 
								sau khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) ngày 
								25-10-1971, quyết định chấp nhận cho CHNDTH thay 
								thế Trung Hoa Dân Quốc trong tổ chức nầy. Từ 
								ngày nầy, Trung Quốc là hội viên thường trực của 
								Hội đồng Bảo an LHQ, một trong ngũ cường có 
								quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ. Như 
								thế, không phải khi đứng ngoài LHQ, Trung Quốc 
								mới hung hăng, mà cả khi đứng trong LHQ, Trung 
								Quốc cũng cường bạo không kém.
								Chiếm được Hoàng Sa, CSTQ đặt được một đầu cầu 
								để tiến xuống phía nam và vào biển Đông. Có lẽ 
								cần để ư đến cách đặt địa danh của Trung Quốc 
								trong Thái B́nh Dương. Biển phía đông Việt Nam, 
								Trung Quốc đặt tên là Biển Trung Quốc (Mer de 
								Chine = China Sea). Biển và quần đảo Indonesia, 
								Trung Quốc đặt tên là Nam Dương Quần Đảo, tức là 
								quần đảo trong biển phía nam của Trung Quốc. Như 
								thế Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng vùng biển nầy 
								là của Trung Quốc. Từ lâu, Trung Quốc khao khát 
								t́m đường xuống phía nam.
								Vùng biển nầy lại hứa hẹn nhiều tiềm năng về dầu 
								hỏa dưới ḷng biển, mà nhiều nước trên thế giới 
								và cả các nước Đông Nam Á đang ḍm ngó, nhất là 
								từ khi các hảng dầu khí của Hoa Kỳ tuyên bố t́m 
								thấy nhiên liệu quư hiếm nầy ở thềm lục địa Việt 
								Nam từ năm 1973. Dầu hỏa là nhiên liệu chiến 
								lược mà tất cả các nước phát triển trên thế giới 
								đều cần đến. Các nước Tây phương đă khai thác, 
								mua bán dầu ở Trung Đông và Nam Mỹ, trong khi 
								Trung Quốc phát triển sau các nước Tây phương, 
								đang rất cần dầu hỏa cho nền kỹ nghệ của Trung 
								Quốc.
								V́ vậy, khi Hoa Kỳ quyết định rút lui khỏi Việt 
								Nam, Trung Quốc liền chụp lấy cơ hội để đánh 
								chiếm Hoàng Sa, mở đường vào biển Đông.
								
								4.- HOA KỲ
								Từ khi đảng CSTH thành công và thành lập chế độ 
								CHNDTH năm 1949, người Hoa Kỳ rất lo ngại sự 
								bành trướng của cộng sản. Từ tháng 1-1950, 
								thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy 
								(1908-1957), thuộc đảng Cộng Ḥa, tiểu bang 
								Wisconsin, phát động chiến dịch tố cộng, thịnh 
								hành đến nỗi người ta gọi là chủ thuyết 
								Carthyism.
								Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào Đông Dương để chận 
								đứng làn sóng cộng sản, công nhận chính thể Quốc 
								Gia Việt Nam (QGVN) do cựu hoàng Bảo Đại đứng 
								đầu ngày 4-2-1950. Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ càng 
								ngày càng nhiều cho Đông Dương qua tay người 
								Pháp.
								Sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ thay 
								chân Pháp ở Việt Nam, giúp chính phủ QGVN rồi 
								VNCH xây dựng miền Nam thành một quốc gia mạnh 
								mẽ để chống cộng. Do sự hiện diện của đoàn cố 
								vấn Hoa Kỳ, Bắc Việt đưa ra khẩu hiệu “chống Mỹ 
								cứu nước”, tiến đánh miền Nam.
								Từ thập niên 60, trong khi Bắc Việt mở cuộc 
								chiến tranh xâm lăng miền Nam, Hoa Kỳ càng ngày 
								càng tăng viện cho Nam Việt, nhưng đồng thời Hoa 
								Kỳ bắt đầu nhận ra rằng CSQT không phải là một 
								khối thống nhất, mà giữa Liên Xô và Trung Quốc 
								có nhiều chia rẽ, tranh chấp. Nếu Hoa Kỳ tiếp 
								tục viện trợ cho Nam Việt, hai nước Liên Xô và 
								Trung Quốc sẽ tạm thời bắt tay nhau để cùng giúp 
								Bắc Việt. Muốn cho hai nước Liên Xô và Trung 
								Quốc không xích lại gần nhau, Hoa Kỳ cần phải 
								thay đổi chiến lược, rút ra khỏi Việt Nam, kiếm 
								cách bắt tay với Trung Quốc để gây chia rẽ giữa 
								hai cường quốc cộng sản Nga Hoa.
								Sự giao thiệp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu 
								bằng cuộc giao đấu bóng bàn hữu nghị giữa hai 
								đội bóng bàn Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày 14-4-1971 
								tại Nhân Dân Đại Sảnh Đường Bắc Kinh do thủ 
								tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai chủ tọa. Ba tháng 
								sau, Henry Kissinger, cố vấn An ninh quốc gia 
								của tổng thống Richard Nixon, bất ngờ đến Bắc 
								Kinh gặp Chu Ân Lai ngày 9-7-1971.
								Sự liên lạc giữa hai bên đưa đến kết quả ngày 
								25-10-1971, Đại hội đồng lần thứ 26 của Liên 
								Hiệp Quốc chấp nhận CHNDTH thay thế Trung Hoa 
								Dân Quốc (THDQ) giữ ghế đại biểu của Trung Quốc, 
								mà không gặp phản ứng phủ quyết của Hoa Kỳ. Như 
								thế, v́ quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ bỏ rơi đồng 
								minh lâu năm là THDQ.
								Tuy chưa chính thức công nhận CHNDTH, nhưng cuộc 
								viếng thăm Bắc Kinh của tổng thống Richard Nixon 
								bắt đầu từ ngày 21-2-1972, mặc nhiên chính thức 
								hóa cuộc bang giao giữa hai nước. Từ đây, hai 
								nước bắt đầu mở Văn pḥng liên lạc tại thủ đô 
								hai bên.
								Sau đó, trong cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh ngày 
								22-6-1972, Henry Kissinger, cố vấn An ninh Quốc 
								gia của tổng thống Nixon, đă nói với ngoại 
								trưỏng Trung Quốc là Chu Ân Lai rằng Hoa Kỳ có 
								thể sống với một chính quyền cộng sản tại Trung 
								Quốc, th́ Hoa Kỳ cũng chấp nhận điều đó ở Đông 
								Dưong.
								
								(www.boston.com/news/nation/washington/articles/2006/05/27/kissinger)
								Hoa Kỳ thương thuyết với Bắc Việt và kư hiệp 
								định Paris ngày 27-01-1973, đơn phương rút quân 
								khỏi Việt Nam, mà lực lượng CSBV vẫn c̣n chiếm 
								đóng lănh thổ Nam Việt. Sau hiệp định Paris, Hoa 
								Kỳ giảm viện trợ rồi cuối cùng cắt hẳn viện trợ 
								cho Nam Việt (VNCH), trong khi CSQT tiếp tục 
								tăng thêm viện trợ cho Bắc Việt để Bắc Việt tăng 
								cường tấn công Nam Việt.
								Đang lúc t́nh h́nh đang rất khó khăn cho Nam 
								Việt, Trung Quốc đưa hạm đội đánh chiếm Hoàng 
								Sa. Đương nhiên Hoa Kỳ, với những phương tiện 
								thám thính khoa học không gian dư biết việc 
								chuyển quân trên biển của Trung Quốc, nhưng Hoa 
								Kỳ làm ngơ, hoàn toàn không giúp đỡ ǵ VNCH, để 
								làm vui ḷng người bạn mới giao thiệp là CHNDTH. 
								Có tài liệu cho biết thêm rằng tàu chiến Hoa Kỳ 
								đang di chuyển gần hải đảo Hoàng Sa, cũng không 
								can thiệp giúp đỡ những binh sĩ VNCH đang lâm 
								nạn trên biển cả.
								Năm 1971, Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh Trung Hoa Dân 
								Quốc tại LHQ. Sau năm 1973, Hoa Kỳ bỏ rơi tiếp 
								đồng minh VNCH, mà một thời Hoa Kỳ đă từng ca 
								ngợi là tiền đồn chống cộng của thế giới tự do.
								
								KẾT LUẬN
								Ca dao Việt Nam có câu: “Khôn ngoan đối đáp 
								người ngoài,/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”. 
								Chính v́ CSVN khôn nhà dại chợ, v́ tham vọng 
								quyền lực, quyết chí tấn công miền Nam, làm tiêu 
								hao tổng lực dân tộc, nên Trung Quốc mới thừa cơ 
								chiếm được hải đảo Hoàng Sa, làm bàn đạp để tiến 
								xuống phía Nam.
								Thứ đến là các thế lực bên ngoài, dầu Cộng sản 
								Quốc tế hay Tư bản Quốc tế, đến Việt Nam đều v́ 
								quyền lợi của nước họ, chứ chẳng có chuyện t́nh 
								nghĩa xă hội chủ nghĩa và cũng chẳng có chuyện 
								thương yêu ǵ dân tộc Việt Nam. Cũng cần lưu ư 
								thêm rằng tư bản và cộng sản là hai thế lực 
								tương khắc nhưng tương sinh. V́ có cộng sản, tư 
								bản Hoa Kỳ mới đến Việt Nam. V́ có tư bản Hoa Kỳ 
								đến Việt Nam, cộng sản Bắc Việt mới nhờ cộng sản 
								Trung Quốc đánh miền Nam. Khi tư bản Hoa Kỳ vừa 
								quay lưng đi th́ CSTQ nhào vào, chiếm liền hải 
								đảo của chúng ta. Chẳng có người nước ngoài nào 
								thương yêu dân tộc chúng ta. Nếu người Việt Nam 
								mà cũng không thương yêu dân tộc ḿnh th́ càng 
								tệ hại hơn nữa.
								Ngày 19-01-1974, CSTQ đặt chân đến Hoàng Sa. Đây 
								mới chỉ là bước đầu để CSTQ tiến vào biển Đông. 
								Chắc chắn CSTQ sẽ c̣n tiến xa hơn nữa. Nếu một 
								ngày kia, CSTQ trang bị thêm nhiều hàng không 
								mẫu hạm, nhất là hàng không mẫu hạm chạy bằng 
								nguyên tử lực, th́ chắc chắn biển Đông sẽ dậy 
								sóng, làm chấn động chẳng những các nước Đông 
								Nam Á mà cả các nước trên thế giới.
								Cuối cùng, sau khi “chống Mỹ cứu nước”, tiêu hao 
								hàng triệu sinh mệnh của thanh niên và đồng bào 
								toàn quốc, lại mất đất mất biển vào tay Trung 
								Quốc, chắc chắn CSVN đă ngộ ra được hai điều: 
								Thứ nhất CSTQ hành động hoàn toàn theo quyền lợi 
								Trung Quốc, không có chuyện t́nh nghĩa xă hội 
								chủ nghĩa anh em, và sẵn sàng chiếm đất chiếm 
								biển của nước ta. Thứ hai, nếu muốn Việt Nam 
								tiến bộ th́ phải hướng về Mỹ, nên sau năm 1975, 
								CSVN t́m tất cả các cách để được Mỹ thừa nhận và 
								giúp đỡ. Khi rước Mỹ “cứu nước”, đảng CSVN xem 
								như tự thú nhận là đă sai lầm trong quá khứ, một 
								sai lầm đă giết hại hàng triệu sinh linh vô tội. 
								Một đảng cầm quyền sai lầm trầm trọng như thế, 
								không đáng tin cậy để tiếp tục cầm quyền.
								Trở về với trận hải chiến Hoàng Sa, nhân kỷ niệm 
								ngày 19-01-1974, xin tất cả người Việt Nam hăy 
								cùng nhau thắp nén hương ḷng, tưởng nhớ sự hy 
								sinh cao cả của cố trung tá Ngụy Văn Thà và các 
								đồng đội của ông, đă anh dũng chiến đấu chống 
								quân Trung Quốc xâm lược, bảo vệ non sông gấm 
								vóc do tổ tiên để lại. Sự hy sinh của Ngụy Văn 
								Thà và đồng đội trong trận hải chiến Hoàng Sa 
								ngày 19-01-1974 là thiên anh hùng ca bất tử, măi 
								măi vang vọng như nhạc hồn đất nước trong lịch 
								sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam.
								
								(Toronto, 19-01-2009)
								Trần Gia Phụng