Ư nghĩa lịch sử trận hải chiến Hoàng Sa
Trần Gia Phụng
Trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-01-1974, đă được nói và viết đến nhiều. Nhân kỷ niệm 35 năm xảy ra trận hải chiến nầy, ở đây chỉ xin ôn lại vài ư nghĩa lịch sử của trận chiến anh dũng của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa.
1.- VIỆT NAM CỘNG H̉A
Trước hết, cần phải ghi nhận hoàn cảnh khó khăn
của Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) hay Nam Việt khi
trận Hoàng Sa xảy ra: Hiệp định Paris
(27-01-1973), cũng giống hiệp định Genève
(20-7-1954) là hiệp định chấm dứt chiến tranh,
lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam, mà giải pháp chính
trị không rơ ràng, chỉ để cho quân đội Hoa Kỳ
đơn phương rút quân về nước trong danh dự mà
thôi.
Trong khi quân đội Hoa Kỳ rút lui, Hoa Kỳ giảm,
rồi ngưng viện trợ cho VNCH th́ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa (VNDCCH) hay Bắc Việt chẳng những không
rút quân khỏi lănh thổ VNCH, mà c̣n được Cộng
sản Quốc tế (CSQT) tăng cường quân lực, liên tục
tấn công VNCH.
Lợi dụng hoàn cảnh quân đội Hoa Kỳ rút lui và
quân đội hai miền Nam và Bắc Việt Nam mải mê
đánh nhau, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH)
hay Trung Quốc đưa hạm đội hùng hậu đánh chiếm
Hoàng Sa ngày 19-01-1974.
Việt Nam Cộng Ḥa ở thế lưỡng đầu thọ địch (hai
đầu bị địch tấn công). Trong khi chiến đấu chống
cộng sản Bắc Việt, Quân lực VNCH cương quyết
chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chống đánh tập đoàn
bành trướng Bắc Kinh. Phải nhấn mạnh là toàn thể
quân dân VNCH, từ trên đến dưới, một ḷng cương
quyết bảo vệ lănh thổ của tổ quốc kính yêu.
Ngày 17-01-1974, trước những tin tức về việc các
chiến hạm Trung Quốc hăm dọa quần đảo Hoàng Sa,
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm Bộ Tư lệnh
Hải quân Vùng I Chiến Thuật, đă chỉ thị cho vị
Tư lệnh HQ Vùng I là Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại,
chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ chủ quyền và sự
toàn vẹn lănh thổ.
Trong trận chiến nầy, Hải quân VNCH đă gây thiệt
hại nặng nề cho hạm đội Trung Quốc, nhưng ngược
lại, hạm đội
Trung Quốc cũng gây thiệt hại không
ít cho Hải Quân VNCH. Chiếc tàu bị thiệt hại
nặng nhất về phía chúng ta là Hộ tống hạm HQ10
do thiếu tá Ngụy Văn Thà chỉ huy.
Hộ tống hạm HQ10 bị trúng đạn ở pḥng máy chánh
và bị nghiêng về bên phải. Pḥng chỉ huy cũng bị
trúng đạn. Cả chỉ huy trưởng cùng chỉ huy phó
đều bị thương. Biết t́nh trạng chiếc tàu không
thể cứu văn, chỉ huy trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh
cho chỉ huy phó Nguyễn Thành Trí và thủy thủ
đoàn c̣n lại phải đào thoát. Toàn bộ thủy thủ
đoàn yêu cầu chỉ huy trưởng cùng rời tàu luôn,
nhưng Ngụy Văn Thà từ chối Ông cương quyết ở lại
chết theo tàu. Nguyễn Thành Trí xin ở lại với
chỉ huy trưởng, cũng không được chấp thuận.
Ngụy Văn Thà ở lại biển Đông, hy sinh thân mạng
đền nợ nước, là một anh hùng dân tộc, tiếp nối
truyền thống hào hùng của Trần B́nh Trọng, Trần
Quốc Toản… Sự hy sinh của anh em Hải quân VNCH ở
Hoàng Sa ngày 19-01-1974 càng ngày càng thêm
sáng ngời, nổi bật trước sự hèn nhát của nhà cầm
quyền và bộ đội CSVN, hiện đang để cho Trung
Quốc lấn chiếm lănh thổ, lănh hải, mà chẳng dám
lên tiếng.
2.- VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG H̉A
Trước tin Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, nhà
nước Bắc Việt, đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản
Việt Nam (CSVN) và quân đội CSVN, thường tự mệnh
danh là “quân đội nhân dân anh hùng, chiến thắng
cùng một lúc hai đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ”,
đă hoàn toàn im lặng mà không dám lên tiếng.
Sở dĩ CSVN không dám lên tiếng v́ từ năm 1950,
Hồ Chí Minh đă nhiều lần sang Trung Quốc cầu
viện để chống Pháp. Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(CSTQ) đă hết sức giúp đỡ CSVN. Trung Quốc giúp
đỡ CSVN không phải v́ t́nh nghĩa quốc tế cộng
sản, mà chính v́ để bảo vệ nền an ninh biên giới
phía nam của Trung Quốc. Đảng CSTQ ào ạt viện
trợ cho CSVN từ 1950 đến 1954. Viện trợ nhiều mà
không có điều kiện để trả, th́ chỉ c̣n cách duy
nhất là nhượng bộ về chính trị, về giao dịch, về
lănh thổ…
Hiệp định Genève kư kết ngày 20-7-1954, chia hai
nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17, CSVN ở phía bắc
và Quốc Gia Việt Nam (QGVN) ở phía nam. (QGVN
đổi thành VNCH sau cuộc trưng cầu dân ư ngày
23-10-1955.) V́ chủ trương đánh chiếm miền Nam
bằng vơ lực, CSBV cương quyết từ chối đề nghị
của Liên Xô năm 1957, theo đó cả hai miền Bắc và
Nam Việt Nam cùng vào Liên Hiệp Quốc như hai
nước riêng biệt
Ở Bắc Việt, ngày 24-5-1958, Ban bí thư Trung
ương đảng Lao Động chỉ thị tổ chức học tập chủ
thuyết Mác-Lê để xây dựng miền Bắc tiến lên xă
hội chủ nghĩa và tiến hành cách mạng ở miền Nam.
Muốn tiến đánh miền Nam th́ một lần nữa phải nhờ
đến sự trợ giúp của Trung Quốc.
Vay nợ Trung Quốc từ năm 1950 chưa trả hết, nay
CSVN một lần nữa lại muốn nhờ Trung Quốc tiếp
tục giúp đỡ để tấn công VNCH, bành trướng thế
lực cộng sản xuống phía Nam. Đây là hai lư do
chính khiến thủ tướng CSVN là Phạm Văn Đồng đưa
ra công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định
về lănh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lư của Trung Quốc. Phạm Văn Đồng
kư công hàm trên phải được sự đồng ư của Hồ Chí
Minh và bộ chính trị đảng Lao Động lúc đó. Quyết
định nầy sẽ tạo ra những hậu quả không lường
trước được.
Điểm sai lầm chiến lược lớn lao nhất, trở thành
tội phản quốc, rước voi về giày mộ tổ, là CSVN
đă dựa vào Trung Quốc để đánh miền Nam, viện cớ
“chống Mỹ cứu nước”. “Chống Mỹ cứu nước” chỉ là
cái cớ để kích động ḷng dân. Tuy nhiên, riêng
cái cớ nầy cũng đă sai lầm. Trong lịch sử Việt
Nam, Trung Quốc đă nhiều lần xâm lăng Việt Nam.
Vào thế kỷ 15, nhà Minh chẳng những xâm lăng
nước ta, mà c̣n muốn tiêu diệt toàn bộ nền văn
hóa của chúng ta, đốt hoặc tịch thu sách vở, bắt
bớ nhân tài, đập phá các bia đá… Ngược lại,
trong lịch sử thế giới, sau thế chiến thứ hai,
những nước bị bại trận trước Hoa Kỳ đều được Hoa
Kỳ viện trợ, giúp đỡ tái thiết, và đều trở nên
cường thịnh: Đức, Nhật Bản, Nam Hàn… Giữa tăm
tối và ánh sáng, giữa đói nghèo và thịnh vượng,
CSVN đă đi vào con đường tăm tối đói nghèo, như
thi sĩ Nguyễn Du đă viết: “Ma đưa lối, quỷ đem
đường, / Lại t́m những chốn đoạn trường mà đi.”
(Kiều, câu 2665-2666).
Ngoài ra, cần chú ư rằng người Tây phương đến
Việt Nam thường sẽ ra đi, v́ văn hóa, phong thổ,
khí hậu, đời sống người Tây phương khác hẳn với
Việt Nam, nên rất ít người Tây phương chịu ở lại
Việt Nam. Ngược lại, Trung Quốc ở sát nước ta,
phong thổ, khí hậu, văn hóa, văn minh, đời sống
gần giống người Việt Nam, nên một khi người
Trung Quốc đến nước ta, thường sẵn sàng ở lại
nước ta.
Nếu Bắc Việt và Nam Việt cùng vào Liên Hiệp Quốc
theo đề nghị của Liên Xô năm 1957, thi đua xây
dựng kinh tế, cùng nhau phát triển đất nước, th́
không thể nào Trung Quốc tiến chiếm Hoàng Sa dễ
dàng được. Đàng nầy, CSBV cố t́nh tiến đánh miền
Nam, gây ra cuộc chiến, làm cho đất nước chia
rẽ, điêu linh, yếu nghèo. Nam Việt bận chống lại
Bắc Việt, bảo vệ nền tự do dân chủ ở miền Nam.
Trung Quốc nhân cơ hội hai bên đánh nhau, và cơ
hội Hoa Kỳ rút quân, liền bất ngờ đánh chiếm
Hoàng Sa. Hoàng Sa tuy thuộc lănh thổ của Nam
Việt, nhưng cũng là lănh thổ chung của Việt Nam,
do cha ông người Việt để lại. Như thế, chính
CSBV đă tạo điều kiện cho CSTQ tiến chiếm lănh
thổ Việt Nam. Có thể nói, đây là tội phản quốc
hết sức lớn lao mà lịch sử không thể tha thứ
được. Chính tội phản quốc nầy kéo theo những tội
phản quốc về sau, khi CSVN kư các hiệp ước năm
1999 và 2000, nhượng đất (trong đó có thác Bản
Giốc và ải Nam Quan) và nhượng biển trong vịnh
Bắc Việt cho Trung Quốc.
3.- CỘNG H̉A NHÂN DÂN TRUNG HOA
Việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa có nhiều ư
nghĩa quan trọng:
Các triều đại quân chủ trước đảng CSTQ, đă nhiều
lần đem quân xâm lăng Việt Nam, t́m đường xuống
Đông Nam Á, đều bị người Việt Nam đẩy lui. Sau
trận hải chiến ngày 19-01-1974, Trung Quốc đă
chiếm được hải đảo chiến lược Hoàng Sa. Đây là
một chiến công lớn lao của đảng CSTQ, v́ CSTQ đă
làm được việc mà tổ tiên họ không làm được.
Trung Quốc đă đầu tư dài hạn trong chiến tranh
Việt Nam, tích cực giúp đỡ CSVN từ 1950 đến
1954. Sau năm 1954, tuy biết rằng CSVN chẳng có
ǵ để trả nợ, nhưng v́ âm thầm nuôi dưỡng ư đồ
đen tối, CSTQ vẫn tiếp tục giúp đỡ Bắc Việt từ
1954 đến 1973, là năm kư hiệp định Paris. Theo
đúng thời điểm Hoa Kỳ vừa rút quân khỏi Việt
Nam, CSTQ liền xiết đất bù nợ mà CSVN đă thiếu
Trung Quốc bấy lâu nay. Bắc Việt đành phải im
tiếng cho kẻ thù truyền kiếp phương bắc cưỡng
chiếm lănh thổ do tổ tiên để lại.
Đây cũng là chiến công đầu tiên của Trung Quốc
sau khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) ngày
25-10-1971, quyết định chấp nhận cho CHNDTH thay
thế Trung Hoa Dân Quốc trong tổ chức nầy. Từ
ngày nầy, Trung Quốc là hội viên thường trực của
Hội đồng Bảo an LHQ, một trong ngũ cường có
quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ. Như
thế, không phải khi đứng ngoài LHQ, Trung Quốc
mới hung hăng, mà cả khi đứng trong LHQ, Trung
Quốc cũng cường bạo không kém.
Chiếm được Hoàng Sa, CSTQ đặt được một đầu cầu
để tiến xuống phía nam và vào biển Đông. Có lẽ
cần để ư đến cách đặt địa danh của Trung Quốc
trong Thái B́nh Dương. Biển phía đông Việt Nam,
Trung Quốc đặt tên là Biển Trung Quốc (Mer de
Chine = China Sea). Biển và quần đảo Indonesia,
Trung Quốc đặt tên là Nam Dương Quần Đảo, tức là
quần đảo trong biển phía nam của Trung Quốc. Như
thế Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng vùng biển nầy
là của Trung Quốc. Từ lâu, Trung Quốc khao khát
t́m đường xuống phía nam.
Vùng biển nầy lại hứa hẹn nhiều tiềm năng về dầu
hỏa dưới ḷng biển, mà nhiều nước trên thế giới
và cả các nước Đông Nam Á đang ḍm ngó, nhất là
từ khi các hảng dầu khí của Hoa Kỳ tuyên bố t́m
thấy nhiên liệu quư hiếm nầy ở thềm lục địa Việt
Nam từ năm 1973. Dầu hỏa là nhiên liệu chiến
lược mà tất cả các nước phát triển trên thế giới
đều cần đến. Các nước Tây phương đă khai thác,
mua bán dầu ở Trung Đông và Nam Mỹ, trong khi
Trung Quốc phát triển sau các nước Tây phương,
đang rất cần dầu hỏa cho nền kỹ nghệ của Trung
Quốc.
V́ vậy, khi Hoa Kỳ quyết định rút lui khỏi Việt
Nam, Trung Quốc liền chụp lấy cơ hội để đánh
chiếm Hoàng Sa, mở đường vào biển Đông.
4.- HOA KỲ
Từ khi đảng CSTH thành công và thành lập chế độ
CHNDTH năm 1949, người Hoa Kỳ rất lo ngại sự
bành trướng của cộng sản. Từ tháng 1-1950,
thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy
(1908-1957), thuộc đảng Cộng Ḥa, tiểu bang
Wisconsin, phát động chiến dịch tố cộng, thịnh
hành đến nỗi người ta gọi là chủ thuyết
Carthyism.
Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào Đông Dương để chận
đứng làn sóng cộng sản, công nhận chính thể Quốc
Gia Việt Nam (QGVN) do cựu hoàng Bảo Đại đứng
đầu ngày 4-2-1950. Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ càng
ngày càng nhiều cho Đông Dương qua tay người
Pháp.
Sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ thay
chân Pháp ở Việt Nam, giúp chính phủ QGVN rồi
VNCH xây dựng miền Nam thành một quốc gia mạnh
mẽ để chống cộng. Do sự hiện diện của đoàn cố
vấn Hoa Kỳ, Bắc Việt đưa ra khẩu hiệu “chống Mỹ
cứu nước”, tiến đánh miền Nam.
Từ thập niên 60, trong khi Bắc Việt mở cuộc
chiến tranh xâm lăng miền Nam, Hoa Kỳ càng ngày
càng tăng viện cho Nam Việt, nhưng đồng thời Hoa
Kỳ bắt đầu nhận ra rằng CSQT không phải là một
khối thống nhất, mà giữa Liên Xô và Trung Quốc
có nhiều chia rẽ, tranh chấp. Nếu Hoa Kỳ tiếp
tục viện trợ cho Nam Việt, hai nước Liên Xô và
Trung Quốc sẽ tạm thời bắt tay nhau để cùng giúp
Bắc Việt. Muốn cho hai nước Liên Xô và Trung
Quốc không xích lại gần nhau, Hoa Kỳ cần phải
thay đổi chiến lược, rút ra khỏi Việt Nam, kiếm
cách bắt tay với Trung Quốc để gây chia rẽ giữa
hai cường quốc cộng sản Nga Hoa.
Sự giao thiệp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu
bằng cuộc giao đấu bóng bàn hữu nghị giữa hai
đội bóng bàn Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày 14-4-1971
tại Nhân Dân Đại Sảnh Đường Bắc Kinh do thủ
tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai chủ tọa. Ba tháng
sau, Henry Kissinger, cố vấn An ninh quốc gia
của tổng thống Richard Nixon, bất ngờ đến Bắc
Kinh gặp Chu Ân Lai ngày 9-7-1971.
Sự liên lạc giữa hai bên đưa đến kết quả ngày
25-10-1971, Đại hội đồng lần thứ 26 của Liên
Hiệp Quốc chấp nhận CHNDTH thay thế Trung Hoa
Dân Quốc (THDQ) giữ ghế đại biểu của Trung Quốc,
mà không gặp phản ứng phủ quyết của Hoa Kỳ. Như
thế, v́ quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ bỏ rơi đồng
minh lâu năm là THDQ.
Tuy chưa chính thức công nhận CHNDTH, nhưng cuộc
viếng thăm Bắc Kinh của tổng thống Richard Nixon
bắt đầu từ ngày 21-2-1972, mặc nhiên chính thức
hóa cuộc bang giao giữa hai nước. Từ đây, hai
nước bắt đầu mở Văn pḥng liên lạc tại thủ đô
hai bên.
Sau đó, trong cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh ngày
22-6-1972, Henry Kissinger, cố vấn An ninh Quốc
gia của tổng thống Nixon, đă nói với ngoại
trưỏng Trung Quốc là Chu Ân Lai rằng Hoa Kỳ có
thể sống với một chính quyền cộng sản tại Trung
Quốc, th́ Hoa Kỳ cũng chấp nhận điều đó ở Đông
Dưong.
(www.boston.com/news/nation/washington/articles/2006/05/27/kissinger)
Hoa Kỳ thương thuyết với Bắc Việt và kư hiệp
định Paris ngày 27-01-1973, đơn phương rút quân
khỏi Việt Nam, mà lực lượng CSBV vẫn c̣n chiếm
đóng lănh thổ Nam Việt. Sau hiệp định Paris, Hoa
Kỳ giảm viện trợ rồi cuối cùng cắt hẳn viện trợ
cho Nam Việt (VNCH), trong khi CSQT tiếp tục
tăng thêm viện trợ cho Bắc Việt để Bắc Việt tăng
cường tấn công Nam Việt.
Đang lúc t́nh h́nh đang rất khó khăn cho Nam
Việt, Trung Quốc đưa hạm đội đánh chiếm Hoàng
Sa. Đương nhiên Hoa Kỳ, với những phương tiện
thám thính khoa học không gian dư biết việc
chuyển quân trên biển của Trung Quốc, nhưng Hoa
Kỳ làm ngơ, hoàn toàn không giúp đỡ ǵ VNCH, để
làm vui ḷng người bạn mới giao thiệp là CHNDTH.
Có tài liệu cho biết thêm rằng tàu chiến Hoa Kỳ
đang di chuyển gần hải đảo Hoàng Sa, cũng không
can thiệp giúp đỡ những binh sĩ VNCH đang lâm
nạn trên biển cả.
Năm 1971, Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh Trung Hoa Dân
Quốc tại LHQ. Sau năm 1973, Hoa Kỳ bỏ rơi tiếp
đồng minh VNCH, mà một thời Hoa Kỳ đă từng ca
ngợi là tiền đồn chống cộng của thế giới tự do.
KẾT LUẬN
Ca dao Việt Nam có câu: “Khôn ngoan đối đáp
người ngoài,/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”.
Chính v́ CSVN khôn nhà dại chợ, v́ tham vọng
quyền lực, quyết chí tấn công miền Nam, làm tiêu
hao tổng lực dân tộc, nên Trung Quốc mới thừa cơ
chiếm được hải đảo Hoàng Sa, làm bàn đạp để tiến
xuống phía Nam.
Thứ đến là các thế lực bên ngoài, dầu Cộng sản
Quốc tế hay Tư bản Quốc tế, đến Việt Nam đều v́
quyền lợi của nước họ, chứ chẳng có chuyện t́nh
nghĩa xă hội chủ nghĩa và cũng chẳng có chuyện
thương yêu ǵ dân tộc Việt Nam. Cũng cần lưu ư
thêm rằng tư bản và cộng sản là hai thế lực
tương khắc nhưng tương sinh. V́ có cộng sản, tư
bản Hoa Kỳ mới đến Việt Nam. V́ có tư bản Hoa Kỳ
đến Việt Nam, cộng sản Bắc Việt mới nhờ cộng sản
Trung Quốc đánh miền Nam. Khi tư bản Hoa Kỳ vừa
quay lưng đi th́ CSTQ nhào vào, chiếm liền hải
đảo của chúng ta. Chẳng có người nước ngoài nào
thương yêu dân tộc chúng ta. Nếu người Việt Nam
mà cũng không thương yêu dân tộc ḿnh th́ càng
tệ hại hơn nữa.
Ngày 19-01-1974, CSTQ đặt chân đến Hoàng Sa. Đây
mới chỉ là bước đầu để CSTQ tiến vào biển Đông.
Chắc chắn CSTQ sẽ c̣n tiến xa hơn nữa. Nếu một
ngày kia, CSTQ trang bị thêm nhiều hàng không
mẫu hạm, nhất là hàng không mẫu hạm chạy bằng
nguyên tử lực, th́ chắc chắn biển Đông sẽ dậy
sóng, làm chấn động chẳng những các nước Đông
Nam Á mà cả các nước trên thế giới.
Cuối cùng, sau khi “chống Mỹ cứu nước”, tiêu hao
hàng triệu sinh mệnh của thanh niên và đồng bào
toàn quốc, lại mất đất mất biển vào tay Trung
Quốc, chắc chắn CSVN đă ngộ ra được hai điều:
Thứ nhất CSTQ hành động hoàn toàn theo quyền lợi
Trung Quốc, không có chuyện t́nh nghĩa xă hội
chủ nghĩa anh em, và sẵn sàng chiếm đất chiếm
biển của nước ta. Thứ hai, nếu muốn Việt Nam
tiến bộ th́ phải hướng về Mỹ, nên sau năm 1975,
CSVN t́m tất cả các cách để được Mỹ thừa nhận và
giúp đỡ. Khi rước Mỹ “cứu nước”, đảng CSVN xem
như tự thú nhận là đă sai lầm trong quá khứ, một
sai lầm đă giết hại hàng triệu sinh linh vô tội.
Một đảng cầm quyền sai lầm trầm trọng như thế,
không đáng tin cậy để tiếp tục cầm quyền.
Trở về với trận hải chiến Hoàng Sa, nhân kỷ niệm
ngày 19-01-1974, xin tất cả người Việt Nam hăy
cùng nhau thắp nén hương ḷng, tưởng nhớ sự hy
sinh cao cả của cố trung tá Ngụy Văn Thà và các
đồng đội của ông, đă anh dũng chiến đấu chống
quân Trung Quốc xâm lược, bảo vệ non sông gấm
vóc do tổ tiên để lại. Sự hy sinh của Ngụy Văn
Thà và đồng đội trong trận hải chiến Hoàng Sa
ngày 19-01-1974 là thiên anh hùng ca bất tử, măi
măi vang vọng như nhạc hồn đất nước trong lịch
sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam.
(Toronto, 19-01-2009)
Trần Gia Phụng