Xáo Và Hội Nghị Việt Kiều
Tưởng Năng Tiến
Trăm voi không được bát nước xáo.
Thành ngữ VN
- Cái c̣, cái vạc, cái nông,
Trong ba cái ấy vặt lông cái nào?
Vặt lông cái vạc cho tao,
Tao xáo, tao xào, tao lại nấu
măng
…
- Con c̣ mày đi ăn đêm.
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống
ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao.
Tôi có ḷng nào, ông hăy xáo
măng.
C̣ và vạc, rơ ràng, đă có thời
hiện diện trong mâm cơm (cũng
như trên bàn nhậu) của người dân
Việt. Thời đó đă qua. Có mới,
nới cũ, thiên hạ bỉu môi:
- C̣ với vạc thịt tanh!
Thế là hai em (đành) phải biến.
Vịt thế vào chỗ trống. Ngoài
đồng ruộng, ao hồ bay nhẩy (ra
sao) không mấy ai được rơ chứ
vào đến bếp th́ vạc với c̣ lép
vế, và thua cơ – thấy rơ. Tanh
th́ không chắc nhưng cứ nh́n mớ
lông cũng đủ thấy oải rồi. Làm
thịt mệt bỏ mẹ mà chả bơ bèn ǵ.
Vịt th́ chỉ cần cắt cổ là có
ngay một đĩa tiết to. Vặt lông
xong, nước vừa sôi, bỏ vào nồi,
giă xong chén nước mắm gừng là
kể như rồi, chặt ngay ra đưọc
một đĩa thịt đầy tú hụ.
Cổ cánh, xương xẩu xáo măng bùi
béo và đậm đà hơn một chú vạc (gầy
nhom) hay em c̣ (khẳng khiu) là
cái chắc. Xáo vịt, tuy thế, chỉ
được ưa chuộng ở những chỗ âm
thịnh dương suy – chốn mà các bà
mẹ (rượt) gọi là “mái ấm gia
đ́nh” – nơi mà đàn ông không có
tiếng nói, hoặc nói rất ít và (thường
khi) rất khẽ, như ở Paris hay
California chả hạn.
Chớ đ. mẹ, giữa Sài G̣n, vào một
buổi chiều vàng – khỏi có vợ con
hay đào địch ǵ hết trơn hết
trọi, mệt – chung quanh đầy nhóc
bạn bè đang chửi thề um xùm, và
nói cười và rôm rả [sau khi đă
nếm vài miếng thịt luộc chấm với
muối tiêu, ngắt nhẹ mấy lá mơ để
thử món dồi, gặm chơi năm ba cái
chả ch́a, ăn lưng chén rựa mận,
và uống (sương sương) vài ba xị]
th́ say chớ bộ điên sao mà nhúng
đũa vô tô xáo vịt, đúng không?
Phải xáo chó cơ,
chúng ông
mới chịu.
Xáo chó ở Sài G̣n đă tuyệt mà ở
Hà Nội (nghe nói) c̣n “trên cả
tuyệt vời” nữa cơ:
“Hà Nội có một nhân vật đă đi
vào lịch sử của… thịt chó: Me sừ
Lâm Mặt Đỏ – ở phố Châu Long. Sở
dĩ ông có cái hỗn danh ấy v́ ông
là chủ một quán thịt chó. Khách
tới ăn, ai cũng qúi mến ông và
người nào cũng mời ông cụng ly.
Thành thử mặt ông lúc nào cũng
đỏ gay như mặt trời.”
“Các món ăn của quán ông đều
được giới đả cẩu tung hô vạn tuế:
nhất là món dồi chó và xáo chân
chó. Vâng, chân chó được ninh
nhừ tới mức những cái gân của nó
mềm ra chẩy nhựa, đến nỗi sau
khi nó đă trôi qua cổ họng mà dư
vị vẫn c̣n đọng lại trên đầu
lưỡi”
( Phan Nghị, “Thử Tản Mạn Về
nghệ Thuật Ắn Thịt Chó,” Ngày
Nay, 15 Jun 2003: B3).
Xáo chó, tuy thế, chỉ có tính
cách gia công và phổ biến hạn
chế trong hàng quán. Hà Nội được
cả thế giới biết nhắc đến v́ một
đặc sản khác, nổi tiếng và độc
đáo hơn nhiều: xáo voi!
Đây là một sản phẩm thuần túy
quốc doanh, được sản xuất và phổ
biến liên tục (từ hơn nửa thế kỷ
qua) dưới nhiều h́nh thức – khẩu
hiệu, bích chuơng, chiến dịch,
phong trào, chỉ thị, nghị quyết,
nghị định, diễn văn, xă luận,
b́nh luận, tuyên ngôn, tuyên cáo,
tuyên bố … – và bằng mọi phương
tiện truyền thông của Đảng và
Nhà Nước.
Nhân dịp Hội Nghị Người Việt Nam
Ở Nước Ngoài – được tổ chức lần
đầu, tại Hà Nội, vào cuối tháng
11 năm 2009 – tưởng cũng nên mời
qúi vị đại biểu về tham dự nếm
thử một chén xáo voi (từ Nghị
Quyết 36) cho nó biết mùi ăn
chơi, giữa ḷng cách mạng:
“Tích cực đầu tư cho chương
tŕnh dạy và học tiếng Việt cho
người Việt Nam ở nước ngoài,
nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng
và hoàn chỉnh sách giáo khoa
tiếng Việt cho kiều bào, cải
tiến các chương tŕnh dạy tiếng
Việt trên vô tuyến truyền h́nh,
đài phát thanh và qua mạng
Internet. Cử giáo viên dạy tiếng
Việt tới những nơi có thể để
giúp bà con học tiếng Việt…”
Quả là một tấc đến Giời! Vậy chứ
chuyện
“cử giáo viên dạy tiếng Việt tới
những nơi có thể… ”
vẫn khiến cho nhiều
“đồng bào hải ngoại”
cứ rẫy nẩy lên như đỉa phải vôi.
Họ h́nh dung ra những chiếc 747
khổng lồ, chở đầy nhóc giáo viên,
từ Việt Nam đi rải tứ tán khắp
năm Châu (chắc) để nhuộm đỏ địa
cầu!
Tưởng vậy nhưng không phải vậy.
N.Q. 36 kư ngày 26 tháng 4 năm
2004, hơn năm năm sau, theo tài
liệu chính thức của FOVC (Fund
for Overseas Vietnamese
Community) đọc được trên Tạp Chí
Quê Hương Online th́ tính cho
đến nay ngân qũi nhà nước mới
“chi hỗ trợ 10 triệu đồng để mua
vé máy bay một chiều Hà
Nội-Bucaret (Rumani) cho một cô
giáo Việt Nam sang Rumani”
để dậy tiếng Việt thôi hà. Chúng
chỉ nói cho đă miệng thôi, chớ
có làm (mẹ) ǵ đâu mà qúi vị cứ
phải cuống lên như thế.
C̣n muốn biết cái gọi là
“chương tŕnh dạy tiếng Việt
trên vô tuyến truyền h́nh, đài
phát thanh và qua mạng Internet”
(hư thực) ra sao, xin xem nỗi
“trăn trở của một cô gái dậy
tiếng Việt trên đất Nga”
– trên Đại Đoàn Kết Online, số
ra ngày 24 tháng 3 năm 2009:
“Giáo viên dạy không lương, giáo
cụ trực quan được lấy từ các
khỏan hỗ trợ, hoặc tiền túi của
chính những ‘t́nh nguyện viên.’
Chiếc tivi và đầu đĩa được mua
để chiếu cho các em học sinh xem
những h́nh ảnh về Việt Nam là
một ví dụ điển h́nh. Nó được mua
về để phục vụ các buổi học từ
tiền quyên góp của mọi người….
Hai nhân vật chính của những lớp
dạy tiếng Việt ở Trường Phổ
thông 282 là chị Phạm Thị Minh
Thúy và anh Lê Văn Huyến, đều là
những nghiên cứu sinh tại Nga.
Sau khi hoàn thành công việc
nghiên cứu ở Nga, hẳn họ sẽ trở
về Việt Nam. Và khi ấy, những
lớp tiếng Việt sẽ ra sao, nếu
không có những t́nh nguyện viên
thay thế họ?”
Phải đợi cái cô giáo ở Bucharest
về rồi mới có người khác đi thay
chớ nhưng vé máy bay FOVC chỉ
mua loại one way ticket nên cô
này bị kẹt. Cả dự án
“cử giáo viên dạy tiếng Việt tới
những nơi có thể ”
(v́ thế) cũng kẹt theo, và kẹt
luôn cho tới bây giờ.
Riêng vụ
“tích cực đầu tư cho chương
tŕnh dạy và học tiếng Việt cho
người Việt Nam ở nước ngoài,”
cũng theo tài liệu chính thức
của FOVC, N.Q. 36 đă thực hiện
được một vài thành tích (không
lấy ǵ làm hoành tráng, và chưa
chắc đă có thiệt) như sau:
- Hỗ trợ để xây trường dạy tiếng
Việt tại Khăm Muộn, Lào.
- Hỗ trợ (một phần kinh phí) để
tu bổ lại Trường Mẫu giáo Xiêng
Vang, tại Savanakhet, Lào.
- Hỗ trợ (một phần kinh phí) sửa
sang lại trường Tiểu học Nguyễn
Trăi tại Xê Nô, Lào.
- Hỗ trợ để mở ba lớp học tiếng
Việt cho con em cộng đồng tại
Praha, Cheb và Plzen.
- Xây dựng Trường Tiểu học
người Việt Nam tại AtTaPư, Lào.
- Hỗ trợ xây dựng lớp học cho
con em người Việt tại phường
Svay Pak, Campuchia.
Nói tóm lại là từ khi N.Q 36 ra
đời đến nay có ba trường tiểu
học (một được xây, và hai có sẵn
chỉ cần sửa sang lại) tại Lào, 3
lớp học tiếng Việt (ở Praha,
Cheb, Plzen), một lớp học ở Svay
Pak – Cambodia, và … chấm hết!
Nhưng câu chuyện chưa hết đâu,
c̣n dài, v́ bữa nay… tui đang (rất)
rảnh.
Rảnh muốn khùng luôn mà nẫy giờ
t́m hoài cũng không thấy cái lớp
học (do N.Q 36 tài trợ) ở xứ
Chùa Tháp coi h́nh dáng ra sao.
Nó (dám) chỉ có trên báo cáo –
cho vui thôi – chớ nếu có thiệt
th́ (ôi thôi) h́nh ảnh lưu niệm,
diễn văn của lănh đạo sứ quán đă
phổ biến tùm lum trên mạng – chớ
đâu có khó kiếm dữ vậy, mấy cha?
Loay hoay một chập, cuối cùng,
rồi cũng t́m ra chỗ dậy tiếng
Việt ở Svay Pak – nơi c̣n có tên
gọi Mecca for Paedophiles (“Thánh
Địa Ấu Dâm”) cách sứ quán Việt
Nam 11 cây số – nhưng nó lại
tuyệt đối không có dính dáng ǵ
tới N.Q 36. Báo Người Việt (phát
hành từ California, số ra ngày
24 tháng 3 năm 2006) viết về
“Lớp Học T́nh Thương”
này như sau:
“Chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng
khi biết cái lớp học duy nhất
của trẻ em người Việt ở xứ có kỳ
quan thứ 7 của thế giới; xứ mà
xương thịt các thanh niên Việt
Nam trong cuộc chiến chống bọn
diệt chủng Pôn Pốt vẫn c̣n vương
văi. Vậy mà thật không ngờ cái
lớp học tiếng Việt duy nhất lại
trơ trọi đến dường này, hoàn
toàn không có đến một mái lá che
mưa che nắng. Thầy chỉ vào tấm
bảng đen máng trên vách nhà, bên
trên có che một tấm ni-lông cũ
chống mưa dột và một số bàn ghế
xiêu vẹo và cho biết đó là chỗ
thầy đứng dạy học. Không có máy
ảnh để ghi những h́nh ảnh này,
chúng tôi thấy vô cùng hối tiếc…”
“Chúng tôi muốn biết Sứ quán
Việt Nam ở Campuchia có biết lớp
học của thầy không và chính
quyền Siem Reap có giúp đỡ ǵ
không. Thầy Sang nói giọng chán
nản:
- Sứ quán ở tận Phonm Penh, tôi
chưa từng gặp ai. C̣n chính
quyền Cambodia ban đầu nghi tôi
mở lớp học có động cơ chính trị
nhưng sao này họ hiểu, tuy không
giúp ǵ nhưng cho phép tôi tiếp
tục dạy học.
Thầy không trả lời thẳng trong
lớp này có bao nhiêu em là con
của những cô gái măi dâm ở khu
Đèn Đỏ, thầy Nguyễn Hoàng Sang
chỉ từ tốn nói:
- Người Cambodia họ trọng thầy
dạy chữ như người ḿnh nên tôi
có chút uy tín, thỉnh thoảng
đứng ra bảo lănh về nhân thân
cho các cô… “
Người viết thiên phóng sự thượng
dẫn, nhà thơ Trần Tiến Dũng, đă
không quá lời khi vinh danh lớp
học của thầy Bùi Hoàng Sang là
một điểm sáng văn hóa. Và đó
không phải là “điểm sáng văn hoá”
duy nhất giữa khu măi dâm Đèn Đỏ
của người Việt ở Cambodia.
Nhà báo và nhiếp ảnh gia
NgyThanh, người có mặt ở Cao
Miên vào tháng 8 năm 2009 vừa
qua, trong một thiên bút kư của
chính ông (tựa là Lẽ Ra Đừng Tới)
hiện đang đăng nhiều kỳ trên
tuần san Thời Báo, cho biết thêm
rằng tuy “lớp học t́nh thương”
của thầy Bùi Hoàng Sang đă đóng
cửa nhưng Svay Pak đang có thêm
những lớp học chữ và học nghề
khác (cùng với cơm trưa mễn phí)
của Hội Bác Ái Phan Xi Cô, và
của VOICE (Vietnamese Overseas
Initiative For Conscience
Empowerment) do một nhóm chuyên
gia, sinh viên Việt Kiều ở Mỹ,
Úc, Canada thay phiên nhau đảm
trách.
C̣n Việt Cộng th́ sao?
“Xáo” tiếp chớ sao nữa. Nghề của
chàng mà. Ngày 4 tháng 8 năm
2009 vừa qua, trên website của
Bộ Ngoại Giao lại có một vụ nổ
lớn (“Việt
Nam Chuẩn Bị Dậy Tiếng Việt Ở
Hải Ngoại)
nghe cũng chói tai y như năm năm
về trước – lúc N.Q 36 vừa mới
ra đời vậy:
“Việt Nam đang có một chương
tŕnh thử nghiệm dạy Việt ngữ
cho người Việt Nam ở nước ngoài,
mà phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm
đă kư duyệt, sẽ được thực hiện
tại Lào, Campuchia, Nga, Cộng
Ḥa Tiệp, Mỹ và Canada.
Ông Phạm Gia Khiêm đang cố gắng
hâm lại một nồi xáo đă thiu hoặc
(không chừng) đă vữa mà cứ tưởng
y như vừa mới nấu vậy. Trí nhớ
của giới quan chức Việt Nam, rơ
ràng, hơi ngắn. Kư ức của đám
đại biểu (sắp về dự Hội Nghị
Việt Kiều) cũng thế. Và có lẽ
“v́ thế” nên thiên hạ mới gọi
đây là Hội Nghị Về Hùa, thay v́
là Hội Nghị Về Nguồn – như ngôn
ngữ của giới truyền thông –
thuộc lề bên phải.
Tưởng Năng Tiến