VIỆT CỘNG PHẢN ỨNG ĐIÊN LOẠN TRƯỚC TÌNH THẾ HUNG HIỂM CỦA VIỆT NAM
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Việtnam đang bị đặt trong tình thế hết sức hung hiểm, một mặt kẻ thù truyền kiếp
của dân tộc là bọn Đế Quốc Đại Hán bành trướng, dùng mọi thủ đoạn mềm, cứng và
tiền tài, quyền hành, nhằm nắm trọn hồn xác và sinh mạng chính trị của nhóm cầm
đầu Việtcộng và nhà cầm quyền Hànội, để sai khiến, chẳng những phải ký kết dâng
hiến lãnh thổ, lãnh hải và phải câm miệng trước việc Tầucộng nhận chủ quyền ở
Hoàngsa, Trườngsa vốn thuộc Việtnam, và còn buộc nhường quyền khai thác tài
nguyên dưới biển, trên đất Việtnam. Tệ hại hơn nữa lại để cho Tầucộng được độc
quyền trúng thầu các công trình trọng điểm ở Việtnam, từ đó cho công nhân Tầu,
quân đội Tầu thiết lập các khu đặc quyền kinh tế, đặc quyền quản trị về cả các
mặt quân sự, an ninh, không cho giới chức Việtnam được quyền kiểm soát. Mặt khác,
Tầucộng còn diễu võ dương oai, đe dọa xâm chiếm toàn vùng biển Đông thuộc chủ
quyền Việtnam, các nước Đông Nam Á và không che dấu ý đồ chia đôi Thái Bình
Dương với Mỹ. Điều đó đương nhiên đụng chạm tới quyền lợi sinh tử của Hoakỳ, một
siêu cường quân sự, vốn từ lâu đã có thực lực và khả năng thống soái khắp mặt
đại dương trên toàn thế giới. Đối với các nước trong vùng Đông Nam Á thì quyết
tâm của Tầucộng muốn chiếm 80% diện tích biển Đông là một chủ trương không thay
đổi và không cần che dấu. Chỉ khi uy hiếp xong Việtnam, làm chủ hoàn toàn 2 quần
đảo Hoàngsa và Trườngsa của Việtnam là kể như toàn vùng biển Đông đã nằm trong
tay Tầucộng rồi.
Tầt cả đều hiểu, trong lúc này, ngoài hải lực Hoakỳ ra, không một nước nào có
thể ngăn đuợc sức bành trướng của Tầucộng tại biển Đông. Đây là thời cơ để cho
Hoakỳ danh chính ngôn thuận trở lại Áchâu. Cũng vì vậy, Ngoại Trưởng Mỹ, Hillary
Clinton, nhân dự hội nghị ASEAN tại Bangkok Tháilan ngày 22/07/09 đã long trọng
tuyên bố: “Hoakỳ đã trở lại Á Châu và sẵn sàng tái tục và củng cố những quan hệ
với các quốc gia đồng minh”. Ngày 23/07/09, tại đảo Phuket Tháilan, Hoakỳ đã ký
Hiệp Ước Thân Hữu và Hợp Tác với khối ASEAN. Tầucộng quyết chiếm biển Đông, mà
Hoakỳ trở lại Áchâu, để ngăn sự bành trướng của Tầucộng, như vậy phải chăng Thế
Chiến Thứ III có thể xẩy ra? Nếu so sánh thực lực quân sự giữa Mỹ và Tầu hiện
nay, thì về mặt kỹ nghệ chiến tranh, Tầu còn thua xa Mỹ hàng thế kỷ. Từ ngày
chiến tranh Việtnam kết thúc, Liênxô tan rã, các nước trên thế giới, kể cả
Tầucộng đều nỗ lực xây dựng phát triển kinh tế thị trường tự do và cố gắng gia
nhập tiến trình toàn cầu hóa. Các trung tâm kỹ nghệ quốc phòng, nếu có thì cũng
chỉ sản xuất những loại vũ khí và khí tài quy ước thông thường. Hoặc là làm oai
thì sản xuất loại vũ khí nguyên tử, hoả tiển để nâng nước mình lên hàng cường
quốc nguyên tử, mà loại vũ khí này chỉ dùng để đe dọa nhau, đã bị quốc tế ngăn
cấm sản xuất và sử dụng, chứ không thể dùng được trong chiến tranh quy ước, hay
chống khủng bố. Chỉ có Mỹ đã không ngừng thăng tiến kỹ nghệ quốc phòng với kỹ
thuật cao cực kỳ tối tân, với hệ thống vũ khí và cơ khí tấn công được điều khiển
từ xa và phi cơ không người lái, với hệ thống hoả tiển lá chắn phòng thủ toàn
cầu.
Hơn nữa 2 nền kinh tế Hoakỳ và Tầucộng đang nằm trong thế tương tác, đối tác
không thể tách rời. Thị trường tiêu thụ ở nước Mỹ và vốn đầu tư của Mỹ ở Hoalục
đã cột chặt nền kinh tế Tầucộng vào với Hoakỳ. Tuy Mỹ nợ Tầu trên 800 tỷ Mỹkim,
vậy mà Mỹ vẫn ở thế thượng phong. Giới lãnh đạo Tầu biết rõ điều đó, kể cả về
kinh tế lẫn quốc phòng, nước Tầu chưa phải là đối thủ của Mỹ. Nên họ chẳng dại
gì đánh nhau với Mỹ trong lúc này. Nhưng họ phải luôn luôn thôi thúc tinh thần
Đế Quốc Đại Hán trong lòng người dân Tầu lên, và tiếp tục đe dọa, lấn chiếm các
nước nhỏ yếu chung quanh, để cho dân Tầu có niềm tự hào, kiêu hãnh về giới lãnh
đạo độc tài đảng trị cộng sản của mình, mà phải hy sinh những quyền lợi thực tế
để duy trì hệ thống đảng trị, độc tài cộng sản tàn ác. Từ đó tạo ra tinh thần
quốc gia cực đoan nơi toàn dân và trong giới quân sự Tầu. Đây là một mối nguy
tiềm tàng cho nền quốc phòng và an ninh khu vực. Khiến Hoakỳ phải hợp tác chặt
chẽ với giới lãnh đạo Bắckinh, và các nước Đồnh Minh, vừa ngăn nội biến ở Tầu,
vừa giữ liên hệ mật thiết về khắp mặt kinh tế, tài chánh, kể cả quốc phòng với
Tầu. Đồng thời tạo lập thế Liên Minh Phòng Thủ với các nước trong toàn vùng
Áchâu, Thái Bình Dương để làm cùn nhụt tinh thần đế quốc và tham vọng bành
trướng của người Tầu.
Trong thế chiến lược “tương tác và phòng thủ” của Mỹ đối với Tầu, nhằm ngăn một
cuộc đại chiến, thì việc hợp tác, đối thoại công khai thường xuyên giữa Mỹ và
Tầu phải mở ra và tăng cường, còn việc trao đổi, mật đàm sẽ khó tránh khỏi.
Ngoài việc tương nhượng quyền lợi giữa 2 nước, biết đâu Tầucộng với tinh thần Đế
Quốc Đại Hán, lại chẳng buộc Mỹ phải trả giá về số phận các nước nhỏ, hay ít ra
là chia chác quyền lợi thực tế, mà ở những nước đó đã có những chính quyền tay
sai của chúng, như Bắc Hàn, Miến Điện, Việtnam, Lào, Campuchia. Chính vì thế khi
bàn về Bắc Hàn và Miến Điện, Mỹ không thể quên được vai trò trọng yếu của
Tầucộng. Riêng với Việtnam thì Tầu không thể không đánh giá đúng mức về chính
sách nhập nội Việtnam của Hoakỳ, đó là một trong những mục tiêu chiến lược toàn
cầu lâu dài của Mỹ. Dù Tầu nắm chắc lá bài lãnh đạo đảng và nhà nước Mancộng
trong tay, nhưng nhu cầu sống còn của nền kinh tế Việtnam là phải hội nhập với
kinh tế toàn cầu, mà việc Mỹ nhập nội Việtnam là bước khởi đầu không thể cưỡng
lại được. Có lẽ vì vậy, Tầucộng đã buộc Việtcộng phải nhường việc khai thác
bauxite tại Cao Nguyên Trung Phần, tạo thành đặc khu của Tầu nối liền với những
đặc khu, mà Tầucộng đã giành được ở 2 nước Lào và Campuchia, nhằm chia vùng ảnh
hưởng với Mỹ.
Qua bọn Mancộng, Tầucộng đặt cho Hoakỳ và dân Việtnam những điều đã rồi. Vì đối
với thế giới văn minh, khi chính quyền của một nước đã ký hiệp ước với một nước
khác, thì các chính phủ kế tiếp vẫn có trách nhiệm tuân thủ. Đây chính là lý cớ
mà Tầucộng quyết liệt bắt bọn Mancộng Hànội, thẳng tay đàn áp những tiếng nói
chống Tầu. Ngoài việc xiết chặt báo chí truyền thông trong tay đảng, Việtcộng
còn bắt những người dân chủ, những blogger dám lên tiếng chống Tầucộng xâm lăng.
Điều tồi tệ nhất là Nguyển Tấn Dũng, thủ tướng Việtcộng đã ra Quyết Định 97, có
hiệu lực từ ngày 15/09/09 cấm các tổ chức khoa học công nghệ không được phép
công khai đưa ra ý kiến phản biện liên quan tới chính sách đường lối của đảng và
nhà nước. Khiến cho Viện Nghiên Cứu Phát Triển- IDS phải tuyên bố tự giải thể để
phản đối quyết định vi Hiến này. Tổ chức IDS gồm những nhà khoa bảng, từng là cố
vấn cho đảng và chính phủ về các chính sách kinh tế, khoa học, giáo dục… Họ xuất
hiện với tính cách độc lập là một việc làm rửa mặt cho chế độ trước toàn dân và
thế giới, vậy mà nay Nguyễn Tấn Dũng lại làm công việc điên loạn tự nhổ nước
miếng vào mặt chế độ của hắn, thật là vô chính trị, ngu dốt hết thuốc chữa. Chỉ
có tiếng nói phản biện và đối lập chân chánh, phát xuất từ nhu cầu dân tộc và
nguyện vọng của toàn dân trong, ngoài nước, mới cứu Việtnam khỏi thảm họa mất
nước, mất chủ quyền hiện nay mà thôi! Little Saigon ngày 15/09/2009.