Từ Thép đă tôi thế đấy đến Nhật kư Đặng Thùy Trâm, những ước mơ bị phản bội
Trần Trung Đạo
"Ôi miền Bắc xa xôi bao giờ ta trở lại?"
Đó là ḍng chữ hay tiếng nấc cuối cùng của một bác sĩ 28
tuổi ghi lại trong nhật kư của chị ngày 16 tháng 6 năm 1970.
Một tuần sau, chị bị một đơn vị lính Mỹ phục kích và bị giết.
Cuốn nhật kư của chị được chuyển đến Frederic Whitehurst,
gọi tắt là Fred, sĩ quan quân báo Mỹ, để phân tích. Và theo
đề nghị của Nguyễn Trung Hiếu, một thượng sĩ quân đội Việt
Nam Cộng ḥa, Frederic Whitehurst đă giữ lại hai cuốn nhật
kư thay v́ đốt bỏ sau khi không t́m thấy các dữ kiện liên hệ
đến t́nh báo quân sự. Năm 1972, Fred về nước, trong hành lư
của anh có thêm hai kỷ vật chiến tranh: hai cuốn nhật kư của
bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
Mấy chục năm và nhiều lần cố gắng t́m thân nhân của chị Thùy
Trâm để hoàn trả không thành công, Frederic Whitehurst đă
tặng hai cuốn nhật kư cho viện lưu trữ về Việt Nam Lubblock
tại đại học Texas. Trong hội nghị hàng năm về chiến tranh
Việt Nam vào trung tuần tháng 3 năm 2005, chính
Frederic Whitehurst,
chàng sĩ quan quân báo ngày xưa nay trở nên một tiến sĩ hóa
học và một luật gia, đă đến dự và lần nữa nhắc đến nhật kư
của chị. Cuối cùng, từ pḥng họp của Trung tâm Việt Nam
thuộc đại học Texas này, một bản sao cuốn nhật kư của chị
Đặng Thùy Trâm đă t́m được đường về quê hương sau 35 năm lưu
lạc. Ba tháng sau, hai cuốn nhật kư được in chung trong một
tác phẩm dưới tựa
Nhật kư Đặng Thùy Trâm.
Hành tŕnh của cuốn nhật kư, từ ḍng chữ nghiêng nghiêng đầu
tiên trên giấy trắng kẻ ô ngả vàng của chị cho đến ngày được
in thành sách chẳng khác một cuốn phim truyện với nhiều t́nh
tiết ly kỳ nhưng lại rất thật, rất cảm động và đầy ắp t́nh
người.
Như bụi phong lan sinh ra và dưỡng nuôi bằng những hạt mưa
rừng trên nhánh sồi khô giữa rặng Trường Sơn, nhật kư của
chị Thùy Trâm sống sót trong khói lửa đạn bom do bàn tay săn
sóc của đại diện cho cả ba bên tham dự cuộc chiến tranh tàn
khốc nhất trong lịch sử Việt Nam. Ba yếu tố: những ḍng chữ
chân thành có một chút mộng mơ của nữ bác sĩ trẻ tuổi, ḷng
nhân hậu của người lính miền Nam và sự trân trọng của viên
sĩ quan quân báo Mỹ, đă gặp nhau như một nhân duyên kỳ diệu
để ngày nay Nhật kư Đặng Thùy Trâm, dấu tích của một
cuộc chiến tranh tàn khốc, có mặt trong tủ sách chúng ta.
Điều đó cho thấy, những ư nghĩ chân thành, những rung động
thật từ trái tim bao giờ cũng dễ được cảm thông, không chỉ
trong những người cùng thời, cùng chiến tuyến mà ngay cả
những người đứng bên kia chiến tuyến.
Trong hai tháng qua, Nhật kư Đặng Thùy Trâm được xem
là cuốn sách bán chạy nhất tại Việt Nam. Theo báo Tuổi Trẻ,
chỉ trong ṿng một tuần lễ, 14.200 cuốn đă được bán ra,
riêng trong ngày Chủ nhật 31 tháng 7 đă phát hành 3.800 cuốn.
Theo tổng kết mới nhất, Nhật kư Đặng Thùy Trâm đă
vượt tất cả kỷ lục sách Việt Nam với hàng trăm ngàn cuốn
được in trong một thời gian rất ngắn. Đây không phải là lần
đầu tiên một nhật kư chiến tranh được in ra, nhưng chưa nhật
kư nào trở nên một hiện tượng trong sinh hoạt văn học và tạo
nên một làn sóng t́nh cảm mạnh mẽ trong nước như nhật kư của
chị Thùy Trâm. Tại sao? Ngoài những suy nghĩ chân thành chị
viết ra, một phần không nhỏ bởi v́ chị là một trí thức trẻ,
một người con gái tuổi hai mươi và hành tŕnh khá gian nan
của bản thân cuốn nhật kư.
Phản ứng và nhận xét về tác phẩm Nhật kư Đặng Thùy Trâm
th́ rất nhiều, từ ông cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, ông Thủ
tướng Phan Văn Khải đến các nhà văn, nhà thơ, những người
bạn cùng chiến đấu với chị trước đây và ngay cả một người
như tôi, nhỏ hơn chị hơn một giáp tuổi và sống xa nửa ṿng
trái đất, cũng muốn viết vài cảm nghĩ về chị.
Đối với các cấp lănh đạo Đảng, Đoàn, đây là cơ hội vàng son
để đóng khung tô màu lên tấm bảng "Lư tưởng Cộng sản" mà
chính họ cũng cảm thấy ngượng ngùng mỗi khi ngó đến. Ông
Phan Văn Khải, trong lá thư gởi báo Tuổi Trẻ ngày 4 tháng 8
viết: "Tôi nhớ lại điều đă nêu thành chủ đề của bài phát
biểu nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước: "Đưa đất nước tiến kịp thời đại với ư chí
mănh liệt như ư chí giành độc lập thống nhất". Tấm gương của
Thùy Trâm và Thạc làm cho khát vọng đổi mới và phát triển
đất nước càng thấm sâu trong mọi người Việt Nam ở trong nước
cũng như nước ngoài, tạo khí thế mới trong lao động học tập
và rèn luyện v́ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc".
Trên báo Tuổi Trẻ ngày 23 tháng 8 năm 2005, ông cựu Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu cũng viết những lời kêu gọi thanh niên như
được trích ra từ một nghị quyết nào đó: "Lớp tuổi 20 hiện
nay hăy thể hiện ḷng biết ơn, sự ngưỡng mộ của ḿnh với
những người đi trước, những anh hùng, liệt sĩ bằng hành động
và trái tim của tuổi trẻ. Đó là sự cống hiến sức lực, trí
tuệ, tài năng của ḿnh cùng cả dân tộc đưa Việt Nam bước vào
một kỷ nguyên mới, đưa vinh quang, hạnh phúc cho mọi người,
của mọi người. Nối tiếp truyền thống anh hùng của cha anh,
góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, làm cho dân tộc ta bước lên lâu đài hạnh phúc.
Đó chính là giá trị đích thực của lẽ sống tuổi trẻ Việt Nam
trong thời kỳ mới."
Những khẩu hiệu tuyên truyền thời chiến tưởng đă quên đi
chợt bừng bừng sống dậy. Gần hai tháng qua, báo lớn, báo
nhỏ, báo già, báo trẻ trong nước, những bài viết nặng mùi
tuyên truyền lại được đăng ngay trên trang nhất để ca ngợi
chị Đặng Thùy Trâm.
Thế nhưng không phải ai cũng nhắm mắt vỗ tay theo những lời
hô hào, ngợi ca sáo rỗng "Đưa đất nước tiến kịp thời đại",
"Chủ nghĩa anh hùng cách mạng", "Bước lên lâu đài hạnh
phúc"… của ông cựu Tổng Bí thư và ông Thủ tướng, những tiếng
nói bộc trực, thẳng thắn của những người cùng thế hệ với chị
Thùy Trâm cũng vang lên từ trong nước như những lời cảnh
giác dành cho thế hệ trẻ.
Báo Tuổi Trẻ ngày 7 tháng 8 ghi lại câu trả lời của nhà văn
Bảo Ninh: "Lần đầu tiên nh́n thấy cuốn nhật kư, tôi đă rất
xúc động. Đó là một phần tuổi trẻ của tôi. Đó là những năm
tháng đẹp nhất của cuộc đời tôi. Cái đẹp của sự xả thân. Cái
sự xả thân của chị Trâm, anh Thạc hồi ấy sao mà đơn giản
thế. Đừng vội gán cho chị Trâm những lư tưởng to tát như v́
Đảng, v́ dân, cũng đừng cường điệu chị lên, đừng bắt chị
phải vác cái huy hiệu "anh hùng". Bởi theo tôi, chị rất đỗi
b́nh thường. Trước cái chết, nếu "không run sợ" tức là đang
nói dối! Có lẽ chị Trâm chỉ nghĩ đơn giản là ḿnh nổ súng
đánh lạc hướng th́ mấy người thương binh sẽ có chút thời
gian chạy vào rừng... Phản ứng của độc giả trẻ là hoàn toàn
chân thật. Đừng nghĩ thanh niên Việt Nam không thèm quan tâm
đến quá khứ mà chẳng qua v́ "chúng" không thích những bài
giảng sáo rỗng đấy thôi!"
Nhà thơ
Bùi Minh Quốc viết trên talawas:
"Tôi, người may mắn sống sót sau những hy sinh của Dương Thị
Xuân Quư, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Giá, Chu Cẩm Phong cùng
hàng triệu đồng bào đồng chí của tôi, từ 1975 trở đi càng
ngày càng thấy nhân dân tôi đă lâm vào một bi kịch thê thảm
nhất, cay đắng nhất, quái gở nhất: v́ độc lập tự do mà cuồng
nhiệt tự nguyện dốc cả sông máu núi xương để rồi “tự do” tự
nguyện choàng lên cổ ḿnh một cái ách nô lệ “vàng son” mang
tên là sự lănh đạo của Đảng, mà thực chất chỉ là sự cai trị
độc đoán của hơn một trăm Ủy viên Trung ương, thậm chí chủ
yếu là mười mấy Ủy viên Bộ Chính trị. Nô lệ đến mức người ta
bảo bỏ phiếu cho ai là ngoan ngoăn bỏ cho người ấy, chẳng
biết người ấy tốt xấu thế nào. Nô lệ đến mức muốn nói điều
ḿnh nghĩ, ḿnh thấy, ḿnh biết cũng không báo nào đăng cho,
cỡ như cựu thủ tướng Vơ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn mà cũng
không được đăng trọn vẹn. Nô lệ đến mức người ta áp đặt cái
đường lối sai lầm dựa trên một kiểu lư luận nói lấy được
(chữ dùng của tướng Trần Độ) là “kinh tế thị trường theo
định hướng xă hội chủ nghĩa” cũng không biết mà căi, hoặc
biết mà không dám căi, hoặc muốn căi th́ cũng không có diễn
đàn mà căi."
Thật vậy, thế hệ trẻ ngày nay h́nh như không thể t́m thấy
chút thành thật nào từ những kẻ đang sống, đang lănh đạo đất
nước nên quay sang lắng nghe tâm sự của những người chết, v́
ít ra, người chết không nói dối và không biết sợ.
Giống như nhà văn Bảo Ninh, nhà thơ Bùi Minh Quốc và có lẽ
rất nhiều người khác, tôi đọc Nhật kư Đặng Thùy Trâm
với một tấm ḷng trĩu nặng. Tôi nghĩ về chị như một người
thân dù chúng tôi xa cách nhau về mọi mặt. Tôi h́nh dung căn
hầm nhỏ nơi chị ngồi, mái tóc học tṛ của chị, những giọt
mưa rơi trên mái lá, tiếng trực thăng bay trên đầu. Chị trải
ḷng ḿnh trên trang giấy trong những phút riêng tư và cô
đơn tột cùng như thế. Tương tự như nhận xét của anh cựu
chiến binh Mỹ Robert Whitehurst, tôi nghĩ chị không viết để
gởi lại cho đời sau, và cũng không cần ai thương hại, xót xa
hay vinh danh ḿnh.
Ngọai trừ hai chữ Th. và M., viết tắt tên của chị và người
yêu, có lẽ những chữ lập lại nhiều nhất trong hai cuốn nhật
kư của chị là hai chữ "buồn" và "nhớ". Ngày 4-6-68, chị
viết: "Mưa vẫn cứ rơi hoài. Mưa càng thêm buồn thắm thía, và
mưa lạnh làm cho người ta thèm khát vô cùng một cảnh sum họp
gia đ́nh. Ước ǵ có cánh bay về căn nhà xinh đẹp để cùng ba
má và các em ăn một bữa cơm rau muống và nằm trong tấm chăn
bông ấm áp ngủ một giấc ngon lành", và trong nhật kư ngày
18-12-68 chị viết những ḍng rất tội, rất đau: "Đêm nay ngồi
trực, ngọn đèn mờ trong căn nhà nhỏ, tiếng rên của người
bệnh nhân làm ḿnh buồn lạ lùng. Hơn bao giờ hết nỗi nhớ
thương trào lên thiết tha cháy bỏng. Hỡi những người thân
yêu, đêm nay có ai hiểu hết ḷng ḿnh hay không?"
Không giống như chị Sứ trong Ḥn Đất của Anh Đức, chị
Diệu trong phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm của Hải Ninh
được tiểu thuyết hóa đến mức thần thánh và dàn dựng thành
phim ảnh chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, chị Đặng Thùy Trâm
là một người có thật và chính tay ḿnh ghi lại những suy
nghĩ rất thật của ḿnh. Nữ bác sĩ 28 tuổi xinh đẹp và hiền
từ Đặng Thùy Trâm đă sống và đă chết trên đất nước Việt Nam
thân yêu. Nhật kư chị viết dưới những cơn mưa rừng ḥa lẫn
tiếng mưa bom ở bịnh xá Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngăi, như số
phận giọt nước mưa lăn trên mái tóc học tṛ của chị, trôi xa
nhiều ngàn dặm trước khi về lại với quê hương.
Chị dành trang đầu để trang trọng ghi lại câu văn trích từ
tác phẩm Thép đă tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky,
một nhà văn Sô-Viết qua đời v́ bạo bịnh vào tuổi 32: "Cái
quí nhất của con người là cuộc sống, đời người ta chỉ sống
một lần, phải sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận v́ những
năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi phải hổ thẹn v́ những
năm tháng sống hoài sống phí, để khi nhắm mắt xuôi tay ta có
thể nói rằng: "Cả đời ta, cả sức ta đă hiến dâng cho sự
nghiệp cao đẹp nhất trên đời: Sự nghiệp đấu tranh giải phóng
loài người"".
Nhân vật Pavel Korchagin, chiếc bóng của cuộc đời nhà văn
Nikolai Ostrovsky, một thời là biểu tượng cho ư chí vươn lên
của tuổi trẻ tại nhiều quốc gia cộng sản. Tác phẩm Thép
đă tôi thế đấy được xem như là viên đá tảng của nền văn
học hiện thực xă hội chủ nghĩa và là cuốn sách gối đầu
giường của thanh niên cộng sản khắp thế giới. Stalin đă tận
dụng từng ư, từng câu trong tác phẩm để kích thích các thế
hệ thanh niên Sô-Viết lao vào những cuộc chém giết đẫm máu.
Nikolai Ostrovsky bịnh nặng rồi chết sớm nên không có dịp
chứng kiến tội ác của Stalin đối với dân tộc Balan mùa xuân
năm 1940, với đối thủ chính trị của ông ta và với 20 triệu
người dân Sô-viết b́nh thường bị đày ải vào những trại tù xa
xôi miền cực Bắc, một nửa số đó đă không bao giờ trở lại.
Không ai trách Nikolai Ostrovsky đă viết nên tác phẩm có tác
dụng tiếp tay cho tội ác. Khát vọng bao giờ cũng là một màu
xanh vô tội, chỉ có những kẻ lợi dụng khát vọng hồn nhiên
của tuổi hai mươi, xô đẩy những mái đầu xanh vào vực thẳm
hận thù mới là những kẻ có tội. Ngày nay tác phẩm Thép đă
tôi thế đấy, bảng tiếng Anh How The Steel Was
Tempered, vẫn c̣n bày trong nhiều thư viện, vẫn c̣n được
đọc, khác chăng, không phải đọc để hun đúc chí thanh niên mà
để học từ những hoang phí đắng cay của một thời thanh xuân
lầm lỡ.
Cả Nikolai Ostrovsky và chị Đặng Thùy Trâm đều phấn đấu để
trở thành người cộng sản, nhưng cuộc đời của Nikolai
Ostrovsky khác nhiều so với đời chị Thùy Trâm. Nikolai
Ostrovsky hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản, ngoài khát vọng
tuổi trẻ mà ông tin, c̣n là một h́nh thức trả ơn. Trong lá
thư gởi cám ơn Stalin sau khi được trao tặng huân chương
Lenin, Nikolai Ostrovsky bày tỏ ḷng biết ơn Đảng Cộng sản
đă vực ông dậy từ những nghèo nàn và bạc đăi của xă hội và
biến một kẻ thiếu học như ông thành một nhà văn Sô-Viết. Chị
Thùy Trâm th́ khác. Chị sinh ra và lớn lên trong môt gia
đ́nh trí thức. Gia đ́nh chị bị xếp vào giai cấp tiểu tư sản,
thành phần xă hội mà Friedrich Engels trong tác phẩm Cách
mạng và phản cách mạng ở Đức định nghĩa là những kẻ chỉ
biết: "khoe khoang, không có khả năng hành động và lẩn tránh
một cách nhút nhát khi cần phải làm một cái ǵ nguy hiểm."
Đa số các buổi chỉnh huấn đảng được ghi lại trong nhật kư,
chị đều bị phê b́nh: "Tính tiểu tư sản vẫn c̣n". Chính chị
cũng thừa nhận điều đó khi viết cho Thuận, em nuôi của chị,
trong nhật kư ngày 18-5-69 những ḍng lăng mạn và tinh
nghịch: "Em ơi, bao giờ chị cũng thương em vô hạn, nhưng
t́nh thương đâu phải chỉ là những buổi sáng nắng hồng rực
rỡ, những buổi chiều êm ả hay những đêm trăng mênh mông trên
đồng lúa yên lành. Mà t́nh thương c̣n là những cơn giông sau
những ngày hè êm ả. Vậy đó, làm bạn với một đứa tiểu tư sản
thật là phức tạp".
Dù chế độ có nhào nặn thế nào vẫn không xóa hết được những
t́nh cảm tự nhiên trong tâm hồn người con gái nhiều mơ mộng
Đặng Thùy Trâm. Trong nhật kư ngày 1-9-68, mặc dù phần trên
chị chép lại một câu văn nặng tính đảng của ai đó: "Hăy giữ
vững tinh thần của người cộng sản, tinh thần trong suốt như
pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn ngàn hào
quang của ḷng tin tưởng", th́ ngay trong hàng kế chị lại
viết: "Nói vậy mà vẫn thấy xót xa, cay đắng và cô đơn lạ
thường".
Chị Thùy Trâm phấn đấu để được vào Đảng, v́ đơn giản đó là
nơi duy nhất chị được dạy để tin vào, để dựa vào, để vươn
lên và đó cũng là chiếc thang xă hội mà mọi người, trong đó
có chị, phải t́m cách trèo lên chứ chưa hẳn phát xuất từ
t́nh yêu giai cấp. Nếu để ư, chúng ta sẽ thấy chị viết về
t́nh yêu, t́nh người, t́nh chị, t́nh em tự nhiên, ngọt ngào
hơn nhiều khi viết về t́nh đảng. Cái nhiệt t́nh, đúng ra là
háo hức mang tính thời thượng của một người trẻ mong được
trở thành đảng viên cộng sản cũng nguội lạnh dần ngay khi
chị đưa tay tuyên thệ làm một đảng viên. Nhật kư của chị
trong ngày gia nhập Đảng 27-9-68: "C̣n niềm vui, sao nhỏ
nhoi quá so với ư nghĩa của ngày vui. V́ sao vậy hả Thùy?
Phải chăng như hôm nào Thùy đă nói như một đứa con khát sữa
mẹ khóc đă mệt rồi, miếng sữa nuốt vào không c̣n nguyên
hương vị thơm ngon và cái thú vị của nó nữa."
Trong những ngày phấn đấu gian nan chị đă cảm thấy Đảng
không phải là nơi tập trung những kẻ "sống v́ mọi người" như
chị được dạy trong môi trường giáo dục ở miền Bắc. Ngày
15-6-68, chị viết những ḍng đanh thép: "Điều đáng buồn nhất
là trong những hy sinh gian khổ ấy, Th. chưa thấy được sự
công bằng, sự trung thực. Chưa có sự đấu tranh để thắng được
những cái ti tiện, đớn hèn cứ xảy ra làm sứt mẻ danh dự của
hai chữ Đảng viên và làm ṃn mỏi niềm vui say công tác của
mọi người trong bệnh xá. Cả mùa khô ác liệt không một lúc
nào ḿnh thấy bi quan, ḿnh luôn cười trong gian khổ vậy mà
bây giờ ḿnh đau khổ quá đi. Kẻ thù phi nghĩa ḿnh không sợ,
mà sợ những nọc độc của của kẻ thù c̣n rớt lại trong đồng
chí của ḿnh".
Đọc đoạn văn trên tôi chợt nhớ đến câu trả lời của nhà văn
Dương Thu Hương với phóng viên Evan Williams của đài truyền
h́nh Úc trước đây. Giống như chị Thùy Trâm, chị Dương Thu
Hương cũng nói về những con người ti tiện: "Tôi không thể
tin tưởng một chút ǵ về chính phủ của ḿnh v́ đây là những
con người cực kỳ hèn hạ và thấp kém. Họ không có một tí nhân
cách nào để tôi tin tưởng cả. Tôi hiểu rất rơ về họ. Họ chỉ
hoàn toàn là những con người ti tiện. Những lớp người tốt mà
ngày xưa c̣n chút lư tưởng đă chết, chết hết rồi. Bây giờ
chỉ c̣n lại những người thế chân; đấy là những kẻ đê tiện,
những kẻ ăn cắp một cách trắng trợn gian manh".
Và tôi chợt tiếc, phải chi chị Đặng Thùy Trâm c̣n sống đến
hôm nay, trong văn giới Việt Nam hẳn có thêm một Dương Thu
Hương can đảm khác.
Như hàng triệu thanh niên lớn lên trong một đất nước qua
phân, ngăn cách, chị Thùy Trâm khao khát một ngày ḥa b́nh.
Chị viết trong nhật kư ngày 4-6-68: "Đêm qua mơ thấy Ḥa
b́nh lập lại, ḿnh trở về gặp lại mọi người. Ôi, giấc mơ Ḥa
b́nh, Độc lập đă cháy bỏng trong ḷng cả ba mươi triệu đồng
bào ta từ lâu rồi. V́ nền Ḥa b́nh Độc lập ấy mà chúng ta đă
hy sinh tất cả." Vâng, không riêng ǵ chị Thùy Trâm mà tuyệt
đại đa số người Việt Nam đều mơ ước ḥa b́nh. Giọt nước mắt
già nua của mẹ đợi chờ bao nhiêu năm chỉ để khóc trong mừng
vui cho ngày con trở lại. Tiếc thay, chị Đặng Thùy Trâm chết
sớm nên không có dịp chứng kiến một đất nước ḥa b́nh trong
máu và nước mắt chứ không phải trong nụ cười đoàn viên dân
tộc mà chị hằng mơ ước. Đất nước không c̣n tiếng súng nhưng
hàng triệu người dắt nhau đi ăn xin trên quê hương vừa thống
nhất trong điêu tàn đổ nát. Bóng đêm của nghèo đói phủ trùm
lên số phận một dân tộc đă phải chịu đựng hơn một phần tư
thế kỷ chiến tranh và tàn phá. Những chuyến đi đày vào những
trại tập trung xa xôi đă thay thế cho những giấc mơ hồi
hương trong ấm êm hạnh phúc. Những đêm mưa gió băo bùng trên
vùng kinh tế mới đă thay cho những giờ phút an vui, quây
quần bên bếp lửa gia đ́nh. Là một người có trái tim nhân
hậu, nếu c̣n sống, chị Thùy Trâm sẽ nghĩ sao và làm ǵ trước
những cảnh này?
Không phải chỉ người dân miền Nam thôi mà cả thanh niên miền
Bắc cũng là nạn nhân của chế độ. Đọc đoạn nhật kư nói lên
ước mơ ḥa b́nh của chị tôi chợt nghĩ đến tâm sự cô đơn,
trống vắng của người lính miền Bắc trở về trong bài thơ
“Ngày ḥa b́nh đầu tiên” của nhà thơ Phùng Khắc Bắc:
Những sợi nắng xuyên qua nhà ḿnh
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn,
Bắn tiếp vào anh không ǵ che chắn
Phải nhận tất cả,
Van anh.
Hôm qua chưa nhận được một viên đạn
Hôm nay nhận những lỗ thủng
Anh về quê không mang súng
Vũ khí lúc này hai bàn tay
Mẹ giục:
- Ăn cơm, con!
Ḥa b́nh trong canh cua, mồng tơi, cà
Và
Mùi ổ rơm.
Tôi vẫn nhớ ngày đọc xong bài thơ của Phùng Khắc Bắc, tôi ḍ
hỏi về tiểu sử của anh và biết anh đă qua đời sau một thời
gian sống trong bịnh hoạn, nghèo nàn, túng quẫn. Đọc tâm sự
của một nhà thơ bộ đội trong ngày ḥa b́nh đầu tiên của đất
nước để hiểu rằng những xót xa này không phải của riêng ai.
Chị Đặng Thùy Trâm chết trên mảnh đất miền Nam, nơi mà chị
cảm thấy "thiết tha gắn bó vô cùng" nhưng chị chưa thực sự
sống trong ḷng một miền Nam đúng nghĩa. Những công sự tối
tăm, những căn lán nhỏ ở Đức Phổ không thể đại diện cho miền
Nam. Miền Nam thật sự không có những người "đang rên siết
dưới gọng kèm đế quốc", đang thoi thóp chờ "hạt gạo chẻ làm
đôi" mang vào từ miền Bắc như giới lănh đạo Đảng nhồi nhét
vào tâm hồn đa cảm của chị. Chị và hàng ngàn thanh niên miền
Bắc t́nh nguyện vào "giải phóng miền Nam" cũng chỉ v́ tin
như thế. Miền Nam chị chưa gặp là những cánh đồng bát ngát,
những ḍng sông nhuộm đỏ phù sa, những vườn cây sai trái,
những con người chơn chất hiền ḥa. Miền Nam chị chưa đến có
những con đường phượng đỏ, hàng me xanh t́nh tự, những tà áo
trắng hồn nhiên, những bài hát đượm t́nh yêu quê hương và
đôi lứa. Miền Nam có hàng triệu người như anh thượng sĩ
Nguyễn Trung Hiếu, những người phải chiến đấu trong một cuộc
chiến tự vệ vô cùng khắc nghiệt nhưng lúc nào cũng có trái
tim nhân hậu dành cho chị và những người cùng máu mủ dù đang
phải đứng đâu trong cuộc chiến đau ḷng này. Chị Đặng Thùy
Trâm chết sớm nên không có dịp nh́n thấy hàng triệu đồng bào
miền Nam thân yêu của chị phải dắt d́u nhau ra biển t́m tự
do, và chị không c̣n sống để có cơ hội hiểu được thực chất
của chế độ mà chị đă đem hết tuổi thanh xuân để phục vụ.
Chị căm thù lính Mỹ, những người mà chị có lần hằn học miêu
tả trong nhật kư ngày 19-1-69 là "bọn quỷ khát máu vẫn đang
giày xéo lên quê hương". Đó cũng là điều dễ hiểu. Là một bác
sĩ trẻ, rất dễ buồn và đa cảm, mỗi ngày chứng kiến cái chết
của bạn bè, anh em, của Khiêm, của Thuận, những người thân
thiết nhất trong ngày tháng xa nhà của chị, ḷng thù hận
dâng cao trong ḷng chị là điều không tránh khỏi.
Thế nhưng, sinh ra và lớn lên trong môt xă hội đóng khung
trong bốn bức tường chuyên chính như con chim non trong lồng
sắt, làm sao chị biết được ngoài kia trời đang nắng hay mưa.
Suốt 28 năm bị rèn dũa trong một hệ thống giáo dục chỉ trang
bị cho chị những câu trả lời mà không cho chị cái quyền được
hỏi, làm sao chị hiểu được ai thực sự là những kẻ đang giày
xéo quê hương. Làm sao chị hiểu được rằng năm 1959, khi giới
lănh đạo Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở đường Trường
Sơn "giải phóng miền Nam bằng phương tiện vơ lực", số lượng
"giặc Mỹ xâm lược" tại miền Nam cũng chẳng nhiều hơn so với
số cố vấn Trung Quốc, cố vấn Liên Xô ở miền Bắc. Làm sao chị
hiểu được rằng, vào những năm đầu của thập niên 60, vơ khí
của Mỹ viện trợ cho miền Nam cũng không nhiều hơn so với vơ
khí của Trung Quốc và Liên Xô đang ào ạt vận chuyển vào cảng
Hải Pḥng. Làm sao chị hiểu được rằng khẩu hiệu "Độc lập tự
do" chỉ là chiếc bánh vẽ mà dân tộc ta mấy chục năm nay
chẳng thể nào ăn được. Làm sao chị hiểu được rằng dù có Mỹ
hay không có Mỹ, dù bằng phương tiện ḥa b́nh hay phải "đốt
cháy cả dải Trường Sơn" th́ chủ nghĩa cộng sản độc tài
chuyên chính vẫn phải được thiết lập trên toàn cơi Việt Nam.
Và chị làm sao hiểu được nỗi đau của đồng chí, bè bạn, anh
em chị c̣n sống sót, những người đă một thời tin vào Đảng
như tin vào ánh sao Hôm sẽ dẫn lối về nhà. Ba mươi năm qua
họ vẫn thức dậy mỗi đêm nh́n ánh sao Hôm mà thầm trách lấy
chính ḿnh. Trên giá sách họ cũng có những cuốn nhật kư dày
và chân thật như của chị, dấu tích của những tháng ngày băo
lửa chưa phai, nhưng khác chăng những nhật kư như thế sẽ
không bao giờ xuất bản.
Cầu xin hương linh chị pḥ hộ cho đất nước chúng ta sớm qua
đi thời đại của độc tài, hận thù, rẽ chia, ghen ghét, xin
chị pḥ hộ cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau được
sống trong dân chủ, tự do, no ấm, biết yêu thương nhau và
che chở cho nhau.
Nếu giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam c̣n chút t́nh nghĩa
nào dành cho những người đă chết thay cho họ, xin hăy để chị
Thùy Trâm ngủ yên với những ước mơ xanh của chị. Đặng Thùy
Trâm đă chết một lần rồi, đừng bắt chị phải chết thêm lần
nữa.