Tương Lai Biển Đông
• Trần Nam - ĐDCND
Đụng Độ Trên Biển Đông
Cuộc trạm chán giữa Hải quân Mỹ
và Trung Quốc hồi tháng 3 năm
2009 tại biển Đông là giọt nước
làm tràn ly. Tàu Hải quân Trung
Quốc đă t́m cách khiêu khích,
chận đường tàu thám hiểm Hải
quân Mỹ USNS Impeccable, buộc
tàu Mỹ phải khẩn cấp tránh để
khỏi bị đụng độ. Sau vụ thử
thách đó, Mỹ đă trở nên cứng
rắn. Hoa Thịnh Đốn đưa ngay tàu
khu trục USS Chung-hoon đi ḍ
đường và hộ tống tàu thám hiểm
hải quân Mỹ, không để cho t́nh
trạng khiêu khích xảy ra nữa.
Tàu khu trục hạm này gồm 275
thủy thủ đoàn, có trang bị ngư
lôi và hoả tiển định hướng. Sự
hiện diện của khu trục hạm tại
Biển Đông đă làm Bắc Kinh tức
giận nhưng bỏ hẳn thái độ khiêu
khích v́ sợ đụng độ. Đối với Mỹ
th́ Hải quân Trung Quốc vẫn chưa
phải là đối thủ.
Sự kiện này đă làm thức tỉnh
giới chức ngoại giao và quân sự
Mỹ trước dă tâm và tham vọng
bành trướng chủ quyền của Trung
Quốc. Trung Quốc đang thử “nắn
gân” Hải quân Mỹ và gửi tín hiệu
cho các quốc gia vùng về vai tṛ
của ḿnh. Trung Quốc muốn nhắn
nhủ “biển đông thuộc chủ
quyền của Trung quốc, Mỹ không
nên tạo ảnh hưởng làm ǵ”.
Đừng có lộn xộn trong vùng đó,
nó thuộc chủ quyền của chúng
tôi. Đó là nội dung Trung quốc
muốn chuyển cho Mỹ và các quốc
gia Á Châu.
Dĩ nhiên tín hiệu đó Hoa Thịnh
Đốn đă nắm từ trước. Nhưng bận
bịu với những biến động ở Trung
Đông, Mỹ không dành ưu tiên cao
cho mặt trận Á Châu. Dù vậy, Mỹ
cũng không thể làm ngơ khi thấy
Trung quốc làm mưa làm gió và
t́m mọi cách chận đứng vai tṛ
của Mỹ ở Châu Á. Nếu ảnh hưởng
Mỹ bị co cụm, và Trung quốc trổi
dậy như một thế lực nguy hiểm,
đầy tham vọng th́ khả năng một
cuộc chiến tranh ở Châu Á khó
tránh khỏi. Lúc đó, Mỹ có muốn
can thiệp, trở tay cũng không
kịp v́ t́nh thế đă vượt ra khỏi
tầm ảnh hưởng của Mỹ.
Thái
Độ Của Trung Quốc
Rỏ ràng Trung Quốc đang t́m mọi
cách bành trướng vị trí chiến
lược của họ về mặt quân sự.
Những đ̣i hỏi thô bạo, tham lam,
không căn cứ về chủ quyền ở biển
Đông. Những trạm chán, áp bức và
thái độ hiếu chiến với Việt Nam
cho thấy dă tâm của Trung quốc.
Hiện nay, không những đường biển
của Việt Nam bị co cụm mà một số
quốc gia khối ASIAN cũng bị áp
lực, trước sự hiện diện căn cứ
quân sự Trung quốc tại các khu
vực đang tranh chấp.
Tại đảo Woody (Phú Lâm) nằm
trong quần đảo Trường Sa, Hải
quân Trung quốc đă thiết lập một
hải cảng chừng 350 mét với đường
băng dài 2500 mét dành cho máy
bay, chiến đấu cơ, tàu quân sự
của Quân đội Nhân dân Trung
Quốc. Tin giới nghiên cứu tiết
lộ, Trung Quốc muốn biển đảo
Woody thành một căn cứ quân sự,
từ đó hướng tầm kiểm soát và làm
nhiệm vụ yểm trợ các hoạt động
tại biển Đông, nhất là khu vực
đảo Trường Sa nếu chiến tranh
xảy ra. Tại đây, các trạm lưu
trử dầu, vũ khí, đạn dược đă
được xây cất và đang đi vào qui
tŕnh hoạt động. Nhiều hỏa tiển
Silkworm có mục tiêu chống tàu
chiến cũng đă đặt tại căn cứ
này. Với tầm bắn gần 60 dặm tại
Woody, hoả tiển Silkworm có thể
răn đe các tàu chiến dám lảng
vảng trong các khu vực thuộc
phạm vi kiểm soát của Trung
Quốc. Hơn nữa, một trạm thu nhận
tín hiệu t́nh báo đă được thiết
lập tại đảo Rocky, nằm về phiá
bắc của Woody. Đảo Rocky là đảo
có độ cao nhất, dễ dàng làm
nhiệm vụ quan sát các tàu chiến
và những di chuyển trong vùng
biển Đông.
Trong quan hệ ngoại giao, Mỹ đă
tái khẳng định chính sách cũa Mỹ
đối với tranh chấp tại biển Đông
là “các bên không nên dùng vũ
lực để chiếm chủ quyền về lănh
hải, ngăn chận giao thông thuộc
khu vực biển Đông và nằm trong
lănh vực hàng hải quốc tế.”
Thực ra, bên cạnh đường biển, Mỹ
cũng rất quan tâm đền đuờng trời
nằm trong khu vực biển Đông. V́
ngoài cuộc trạm chán tại hồi đầu
năm 2009, trước đó, không quân
Mỹ -Trung quốc cũng đă từng đụng
độ. Tháng 4 năm 2001, máy bay
chiến đấu cơ F-8/J8II của hải
quân Trung Quốc và EP-3E của Mỹ
đă đụng nhau tại biển Đông.
Chiến đấu cơ Trung quốc đă bám
đuôi máy bay thám sát Mỹ để
khiêu khích, v́ bay qua gần,
F-8/J8II đă mất khả năng kiểm
soát, đụng vào phần cánh máy bay
Mỹ, F-8/J8II rớt xuống biển, phi
công Trung Quốc bị thiệt mạng.
Máy bay EP-3E của Mỹ đă phải hạ
cánh khẩn cấp tại đảo Hải Nam,
toàn bộ phi hành đoàn 24 người
đă bị Trung Quốc bắt giữ, 11
ngày sau Trung Quốc mới chịu
giao trả lại cho Mỹ.
Phản
Ứng Của Mỹ
Cuộc trám chán lần thứ nhất ở
trên không, Trung Quốc muốn
khẳng định với Mỹ và các quốc
gia Á Châu là chủ quyền của
Trung Quốc ở biển Đông gồm cả
vùng biển lẫn vùng trời. Tuy
nhiên, phải đợi đến lần đụng độ
thứ hai, khi tàu dân sự thám
hiểm Mỹ USNS Impeccable bị tàu
chiến Trung Quốc khiêu khích,
th́ Hoa Thịnh Đốn thấy rỏ phải
có thái độ, để Trung Quốc bớt
hung hăng và hiếu chiến.
Tại Hội nghị các quốc gia thuộc
khối ASIAN (Association of
Southeast Asian Nations) tại
Thái hôm tháng 7, 2009, bộ
trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, bà
Hillary Clinton đă tham dự và
trao đổi với lănh đạo các quốc
gia ASEAN. Tại đây, bà ngoại
trưởng Mỹ cũng đă kư kết thoả
ước hữu nghị và hợp tác TAC
(Treaty of Amity and Cooperation
in Southeast Asia) với khối
ASEAN, một thoả ước tương đối
lơng lẻo trong thiết lập quan hệ
đối thoại về an ninh và hợp tác
vùng, chủ trương tôn trọng chủ
quyền, lănh thổ và không can
thiệp vào nội bộ. Đây là thoả
ước mà thời tổng thống Goerge W.
Bush, phiá Mỹ đă từ chối kư kết.
Hồi năm 2007, bà Ngoại trưởng
Condoleezza Rice thay v́ tham dự
hội nghị thường niên của ASEAN
th́ lại bay qua Trung Đông. Lúc
đó Mỹ đặt mối quan tâm Trung
Đông quan trọng hơn Á Châu. Lần
này, phát biểu tại Bang kok, bà
Tân Ngoại trưởng Hillary Clinton
cho biết “chúng tôi đă trở
lại”. Bà muốn ám chỉ đến
chính sách bỏ rơi Á Châu từ thời
cựu Tổng thống George W. Bush.
T́nh thế hiện nay đă khác sau
khi Hoa Kỳ thay đổi lănh đạo
cùng với chính sách mới về Á
Châu. Điều này cho thấy, Hoa
Thịnh Đốn đă gửi thông điệp rất
mạnh mẽ cho Trung Quốc và ASEAN.
Hoa Kỳ không thể để Trung Quốc
“múa gậy vườn hoang” tại
biển Đông.
Những biến động tại Biển Đông
với viễn ảnh Trung Quốc kiểm
soát đường biển là điều không
thể chấp nhận về mặt chủ quyền,
không những đối với các quốc gia
đang trong ṿng tranh chấp gồm
Việt Nam, Mă Lai Á, Philipine,
Đài Loan..v..v… mà ngay cả đối
với quyền lợi Hoa Kỳ cũng bị ảnh
hưởng. Nói cách khác, nếu điều
đó xảy ra, hải chiến giữa Trung
Quốc và các quốc gia dành chủ
quyền trên biển Đông khó tránh
khỏi. Lúc đó, Hoa kỳ không thể
đứng bên lề hoặc làm đồng minh
của Trung Quốc, v́ như vậy Hoa
Kỳ tự triệt hạ vai tṛ và quyền
lợi chiến lược của ḿnh tại Á
châu. Chiến tranh trên biển Đông
xảy ra, điều khủng hoảng nhất
đối với Mỹ và thế giới là gần
30% đường dẫn dầu quốc tế bị
đ́nh động, hơn 50% hàng hoá vận
chuyển bằng đường thủy trên toàn
thế giới bị gián đoạn. Lo ngại
hơn nữa, nếu Trung Quốc kiểm
soát các vùng tranh chấp, khả
năng các đường lưu thông trên
biển sẽ bị Hải quân Trung Quốc
ngăn chận. V́ vậy, sự hiện diện
của Mỹ tại biển Đông vô cùng
quan trọng, vừa có thể cầm chân
thái độ khiêu khích, hiếu chiến
của Trung Quốc, vừa làm trọng
tài để giải quyết những tranh
chấp trong vùng, vừa làm chổ đối
trọng cho các quốc gia khối
ASEAN, nhằm tránh một cuộc chiến
tranh thế giới có thể xảy ra.
Về mặt thực tế, nếu có trạm chán
quân sự, chiến tranh giữa Trung
Quốc với Đài Loan hoặc Việt Nam
là những đối tác có nguy cơ dẫn
đến tác động lớn nhất.
Trung Quốc Và Đài Loan
Trung Quốc đă hăm he dùng vũ lực
để giải quyết Đài Loan. Nếu
không có Hiệp ước bảo vệ giữa Mỹ
và Đài Loan, Trung Quốc đă chiếm
Đài Loan từ lâu. Mỹ không khuyến
khích Đài Loan đi vào qui chế
độc lập v́ như vậy sẽ khiêu
khích Trung Quốc, nhưng Mỹ cũng
khẳng định, nếu Trung Quốc đánh
Đài Loan, quân Mỹ sẽ không khoan
tay đứng nh́n. Tham vọng của
Trung Quốc vẫn là phải chiếm Đài
Loan và làm chủ toàn bộ khu vực
biển Đông. Muốn vậy, Trung Quốc
phải triệt hạ Việt Nam.
Hồi tháng 10 năm ngoái, Mỹ đă
bán cho Đài Loan 6.4 tỷ mỹ kim
vũ khí quân sự gồm 300 Patriot
III chống hoả tiển, 30 máy bay
trực thăng tấn công Apache, 32
hoả tiển Harpoon và 182 hoả tiển
Javelin chống tăng. Hiệp ước Đài
Loan 1979 (Taiwan Relations Act
1979) cho phép Mỹ bán vũ khí cho
Đài Loan để “tăng cường khả
năng pḥng thủ và tự vệ của quốc
gia này”. Hiệp ước cũng khẳng
định “nếu dùng bất cứ các phương
tiện quân sự, hoặc bao vây, tảy
chay Đài Loan nhằm áp chế Đài
Loan tức là cố ư khiêu khích gấy
chiến và làm mất quân b́nh trong
vùng, đều dẫn đến mối quan tâm
sâu xa của Mỹ”.
Đài Loan rất muốn trang bị tàu
ngầm tối tân của Mỹ nhưng v́ sợ
Đài Loan khiêu khích Trung quốc,
Mỹ đă từ chối bán. Đối với Trung
Quốc, một Đài Loan trang bị tàu
ngầm tối tân được coi như thái
độ thách thức, làm cho t́nh thế
thêm rối rắm và căng thẳng.
Trước đây, Đài Loan từng mua 2
chiếc tàu ngầm của Phần Lan, sự
kiện này đă dẫn đến việc Trung
Quốc triệu hồi đại sứ Trung Quốc
tại Phần lan. Áp lực, quan hệ
ngoại giao hai nước đă xấu đi
trong suốt nhiều năm trời. Với
số quân chừng 350 ngàn so với
hơn 2.5 triệu quân của Trung
Quốc, trang bị vũ khí yếu so với
tầm vóc hiện đại của quân Trung
Quốc, Đài Loan hoàn toàn không
khả năng tự vệ khi Trung Quốc mở
cuộc tấn công bất ngờ. V́ vậy,
nếu bất cứ lư do ǵ Hiệp ước Đài
Loan năm 1979 không c̣n giá trị,
đảo Đài Loan thuộc vào tay Trung
Quốc chỉ c̣n là thời gian.
Việt
Nam Trước Viễn Ảnh Chiến Tranh
Trước thái độ Trung Quốc leo
thang, ngang ngược xâm chiếm
lănh thổ. Việt Nam giữ thái độ
ngậm bồ ḥn. Dù vậy, thời gian
gần đây, có dấu hiệu cho thấy
Việt Nam đang từng bước tân
trang quân đội để chuẩn bị đối
đầu. Kinh nghiệm cuộc chiến
tranh biên giới 1979, khi Trung
Quốc đánh bất ngờ vẫn c̣n chưa
phai nhạt đối với các lănh tụ
cộng sản Hà Nội. Và viễn ảnh của
chiến tranh Việt – Trung sẽ xảy
ra để giải quyết các mối bất
đồng là điều “không thể tránh
khỏi”.
Từ tháng 4 năm 1999 Hà Nội đă
trang bị nhiều hoả tiển Scud của
Bắc Hàn với tổng số lên đến cả
trăm triệu mỹ kim. Việt Nam cũng
đă chi ra 300 triệu mỹ kim để
mua hệ thống hoả tiển pḥng thủ
trên không S300 PMU1 của Nga.
Đây là loại hỏa tiển bắn các mục
tiêu bay thấp. Hà Nội cũng bày
tỏ ư định muốn mua S300 PMU2,
một loại hoả tiển pḥng không
trang bị đầu đạn có định hướng
dùng để ngăn chận hoả tiển bắn
từ xa, tốc độ S300 PUM2 là
10,000 km một giờ và có thể bắn
xa đến 200 km, thay v́ chỉ có
150 km như S300 PMU1.
Tháng 3 năm 2001, Tổng thống Nga
Vladimir Putin tuyên bố khi có
mặt tại Hà Nội “Việt Nam
không những phải tái chỉnh trang
thiết bị quân sự cũ mà cần mua
thêm nhiều trang thiết bị quân
sự tối tân của Nga nữa”. Năm
1995 Hà Nội mua sáu chiếc phản
lực Sukhoi Su-27 trị giá 150
triệu mỹ kim, đồng thời đặt mua
thêm 6 chiếc Su-27 nữa cho năm
1997. Những năm sau đó, Hà Nội
liên tiếp mua máy bay Su-30,
nhiều hoả tiển, hoả tiển chống
tàu chiến Mosquito có khả năng
điều khiển bay ở độ thấp, bắn
mục tiêu xa 120 kilometer và
trang bị thêm 4 trạm kiểm soát
sóng radar để phát hiện máy bay
“Trung Quốc” xâm nhập.
Cuối tháng 11 năm 2007, Nga
chuyển giao 2 tàu tuần tra
Molniya có gắn đầu hoả tiển, sau
đó trong năm 2007 Nga giúp Việt
Nam tự sản xuất thêm 20 chiếc
tuần tra loại này. Tất cả những
kỷ thuật quốc pḥng cho công
nghệ chế tạo tàu Molniya đă được
Nga chuyển giao cho Việt Nam với
phí tổn gần 1 tỷ dollars. Chưa
an tâm, Việt Nam bỏ ra thêm 300
triệu mỹ kim để mua lại công
nghệ chế tạo hoả tiển Yakhont
chống tàu chiến. Năm 2009, Việt
Nam đă mua thêm 12 chiếc phản
lực loại cực tối tân Su-30MK2 và
6 chiếc tàu ngầm Kilo của Nga,
tổng giá tiền gần 2.5 tỷ
dollars.
Chưa bằng ḷng với các trang
thiết bị quân sự của Nga, Việt
Nam cũng t́m cách mua thêm các
vũ khí hiện đại khác của Ấn Độ.
Việt Nam ngơ ư mua hoả tiển
Brahmos, có tầm bắn xa 300 km.
Nhưng v́ đây là loại hoả tiển
tối tân nhất của Ấn, bị ràng
buộc về thoả thuận không tiết lộ
bí mật kỷ thuật, nên Ấn không
thể bán cho Hà Nội. Giới chức
ngoại giao Ấn tiết lộ, họ nghĩ
Ấn có thể bán cho Hà Nội loại
hoả tiển có tầm kỷ thuật thấp
hơn, đó là loại hoả tiển đối
không Prithvi với chức năng
không thua ǵ hoả tiển Brahmos.
Việt nam cũng đang có ư t́m kiếm
những vũ khí tối tân khác, trong
đó khai dụng “nguyên tử” như một
lá chắn trước áp lực và dă tâm
của Trung quốc. Năm ngoái, ông
Christopher Hill, trưởng phái
đoàn Mỹ đặc trách về “nguyên tử”
tường tŕnh trước Thượng viện Mỹ
về chuyến đi Á châu, nhằm chuẩn
bị cho cuộc thương thuyết về
nguyên tử với Bắc Hàn. Khi
Thượng Viện Mỹ đặt vấn đề liệu
Việt Nam có đi theo con đường
của Bắc Hàn không? Ông
Christopher Hill trả lời một
cách tự tin là “Việt Nam chưa
có khả năng nghiên cứu về nguyên
tử và không có tham vọng sở đắc
vũ khí nguyên tử như Bắc Hàn,
chúng ta có thể tin điều này”.
Nói vậy chứ không phải vậy, v́
liệu Mỹ có thể tin cậy được
những lời hứa hẹn của Hà Nội.
Quan hệ mật thiết với B́nh
Nhưỡng, Hà Nội có thể t́m kiếm
trợ giúp về mặt kỹ thuật để xây
dựng ḷ "hạt nhân nguyên tử"
và điều này đă nằm trong ṿng
quan tâm của lănh đạo Hà nội,
trước t́nh trạng láng giềng
khổng lồ chực “ăn tươi nuốt
sống”. Điều cản trở Việt Nam
không phải là B́nh Nhưỡng mà
chính là Bắc Kinh, v́ không đời
nào Bắc Kinh cho phép B́nh
Nhưỡng giúp Việt Nam thủ đắc khả
năng pḥng ngừa “lá chắn
nguyên tử” để chống lại họ.
V́ vậy, Việt Nam đă t́m đến Ấn
Độ như một nguồn cung cấp kỷ
thuật “nguyên tử” sau B́nh
Nhưỡng.
Tháng 10 năm 2005, Trung tướng
Nguyễn Thịnh, chủ nhiệm Trung
tâm Nghiên cứu Quốc pḥng dẫn
đầu phái đoàn quân sự đến thăm
Viện Nghiên cứu Quốc pḥng Ấn.
Tại đây, ông Thịnh đă bày tỏ
mong muốn được Ấn Độ giúp Việt
Nam kỷ thuật để xây dựng cơ sở
chế tạo hoả tiển. Việt Nam cũng
muốn mua hoả tiển điểu khiển tối
tân Brahmos, có tầm bắn xa 300km
của Ấn. Ông Thịnh cho biết, Việt
Nam cần hoả tiển có tầm bắn xa
để bảo vệ biển Đông và cầm chân
hải quân Trung quốc. Hoả tiển
Brahmos của Ấn Độ là sản phẩm
quân sự chung Nga và Ấn. Brahmos
là viết tắt của chữ Brahmaputra,
tên một ḍng sông Ấn và Moscow.
Đây là hoả tiển bay nhanh nhất
thế giới ở tốc độ vượt âm thanh.
Với kích thước nặng từ 2500kg
đến 3000kg tuỳ theo dàn phóng,
dài 8.4 m, đường kính 0.6m,
Brahmos có thể bắn mục tiêu xa
290km. Điều tiện lợi của hoả
tiển này là có thể bắn trên tàu
chiến, tàu ngầm, mặt đất và cả
máy bay. Đặc biệt, Brahmos có
thể tái chỉnh trang để gắn cho
các chiến đấu cơ Su-30 và
Su-30MK2 của Nga mà Hà Nội đang
có.
Mặc dù việc mua bán này sẽ không
thuận thảo v́ Ấn Độ không thể
chuyển giao công nghệ quốc pḥng
tối tân cho Việt Nam, nhưng Ấn
cũng đă t́m cách giúp Việt Nam
huấn luyện chuyên viên về tàu
ngầm. Hiện tại, Ấn cấp hơn 500
học bổng cho du học sinh Việt
Nam và Ấn cũng đang huấn luyện
Việt Nam về kỷ thuật nguyên tử
chỉ “dùng cho dân sự”. Điều cần
lưu tâm là nếu Việt Nam đồng ư
cho Ấn sử dụng cảng Cam Ranh,
việc chuyển giao kỷ thuật cao
của hoả tiển Brahmos và cả công
nghệ “hạt nhân nguyên tử” cho
Việt Nam, có thể à những vấn đề
mà cả Trung quốc, Hoa Kỳ, Nhật
và các nước Đông Nam Á sẽ bị bất
ngờ.
Chiến tranh Việt – Trung sẽ phải
xảy ra để giải quyết những tranh
chấp chủ quyền ở Biển Đông. Nhân
dân Việt Nam không thể chấp nhận
lănh thổ càng lúc càng bị co cụm
và nhục nhă trước t́nh trạng bị
mất đất, mất biển. Đồng thời, dù
lănh đạo đảng CSVN có nhịn nhục,
khiếp sợ đến cở nào th́ Trung
Quốc cũng phải chiếm các vùng
biển Đông, v́ nhu cầu chiến lược
quân sự và tham vọng bá quyền.
Hiện nay, Việt Nam đang nhịn
nhục để mua thời gian, hiện đại
hoá quân đội, chuẩn bị cho giai
đoạn thử lửa, đối đầu và đánh
trả nếu không c̣n sự chọn lưạ.
Trung Quốc với tổng số chi tiêu
cho ngân quỹ quốc pḥng hàng năm
trên 150 tỷ dollars và 2.5 triệu
quân chính quy, nửa triệu quân
Việt Nam không đủ vai vế để
đương cự nếu chiến tranh bùng nổ.
(*)
Sau cuộc chiến Việt - Trung
1979, Việt Nam đă bỏ mất cơ hội
hiện đại hoá quân đội. Giờ mới
bắt đầu th́ đă muộn. Phải mất
một thời gian dài, tốn nhiều
tiền của, công sức, trí tuệ,
quan hệ và sự khôn ngoan để Việt
Nam đưa quân đội xứng với tầm cở
thể kỷ 21. Tuy nhiên, đảng CSVN
cần hiểu rằng quân đội chỉ có
thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
khi quân đội “hy sinh để
bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ
đảng”, nhất là đảng đang
“phản bội và đi ngược lại
quyền lợi” của dân tộc.
Nếu chỉ dựa vào vũ khí quân sự
tối tân th́ vài chục năm sau
Việt Nam cũng không đủ sức đối
đầu với Trung quốc. Hiểm hoạ bị
hán hoá trên nhiều lănh vực, kể
cả lănh thổ là điều khả thi nếu
Hà Nội chỉ biết bám vào sức mạnh
của quân đội. Từ ngàn xưa, Trung
Quốc luôn mạnh hơn Việt Nam
nhưng Đại Hán vẫn không thể nuốt
nổi An Nam. Chính nhờ vào ḷng
yêu nước, ư chí quật cường và
tinh thần đoàn kết trên dưới một
ḷng của Vua tôi nước Nam mà
Việt Nam c̣n hiện hữu đến hôm
nay. Chiếm thành dễ, nhưng giữ
thành khó. Đảng CSVN đă chiếm
được đất nước Việt Nam nhưng
không bao giờ giữ được ḷng dân.
Chế độ độc tài Hà nội cai trị
dân dựa vào bạo lực, mất đi sức
mạnh của trấn áp, chế độ công an
trị sẽ bị đổ nhào. Kẻ chơi dao,
chết v́ dao. Chế độ bạo lực sẽ
là nạn nhân của bạo lực. Lịch sữ
đă minh chứng như vậy đối với
các chế độ độc tài, bạo ngược,
cuồng vọng như Tần Thủy Hoàng,
Hitler, Mussolini,
Ceausescu..v.v…
Hiện nay, Hà nội không thể huy
động ḷng yêu nước, ư chí quật
cường và sức mạnh dân tộc để
chống ngoại xâm. Một chế độ độc
tài, đảng trị, mất ḷng dân,
không đủ khả năng bảo vệ Tổ Quốc
khi bị ngoại xâm. Cho dù mưu
toan thay tên, đổi đảng hay bỏ
hẳn luôn mục tiêu xây dựng Chủ
nghĩa xă hội, để được làm đồng
minh của Mỹ, Nhật, Ấn cho thế
trận Trung - Việt..v.v…vẫn không
thể giải quyết được yếm thế của
Hà Nội. Tứ bề thọ địch, ngoại
công nội kích, chế độ độc đảng
Hà nội khó tồn tại lâu dài trước
nhiều áp lực. Chỉ có một nước
Việt Nam Tự do, Dân chủ mới có
thể giữ được sự toàn vẹn lănh
thổ. Điều này chính là mục tiêu
mà Nhân dân Việt Nam đang đấu
tranh và những người yêu nước
trong đảng CSVN cũng như các thế
lực quốc tế không thể xem
thường.
CA, tháng 8 năm 2009