Trung Quốc và phản quốc
Trần
Gia Phụng
1.- Chuyện dài Trung Quốc
Đối với người Việt Nam, Trung Quốc
là chuyện dài bất tận, bắt đầu ngay
từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc,
và có lẽ không khi nào chấm dứt, v́
không thể nào thay đổi khu vực địa
lư chính trị. Các nhà cầm quyền
Trung Quốc, dù bất cứ chế độ nào,
luôn luôn t́m cách thôn tính Việt
Nam, bành trướng xuống Đông Nam Á.
Điều nầy không cần chứng minh, người
Việt Nam nào cũng biết.
2.- Trung Quốc và phản quốc
Chuyện dài Trung Quốc chia thành hai
tập rơ rệt. Tập thứ nhất, từ thời
lập quốc đến thế kỷ 19, là những
thiên anh hùng ca giữa nước của dân
tộc, với các chương nổi bật như Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lư
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần
B́nh Trọng, Lê Lợi, Quang Trung...
Tập thứ hai, từ đầu thế kỷ 20 cho
đến nay, chuyện dài Trung Quốc hoàn
toàn đổi chiều, chỉ là những trang
thảm sử nhục nhă do đảng CSVN dựng
nên. Tập hai nầy có thể chia làm hai
chương chính từ 1924 đến 1954 và từ
1954 đến 1975.
Chương thứ nhất bắt đầu với Nguyễn
Ái Quốc. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (người
Việt Nam có tên Nga là Lin hay Linov),
ủy viên Đông phương bộ, phụ trách
cục phương Nam, một cán bộ lănh
lương của Đệ tam Quốc tế Cộng sản (QTCS),
từ Liên Xô qua Trung Hoa để phát
triển cộng sản xuống vùng Đông Nam
Á. Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc
bắt liên lạc với đảng Cộng Sản Trung
Hoa (CSTH) và mời Lưu Thiếu Kỳ, Chu
Ân Lai đến giảng dạy tại những khóa
huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc lập ra
để đào tạo cán bộ. Nguyễn Ái Quốc
chính là người đại diện QTCS đứng ra
thành lập đảng CSVN tại Hương Cảng
ngày 6-1-1930 (Sau vâng lệnh đảng CS
Liên Xô, đổi thành ngày 3-2-1930.)
Cuộc giao du giữa hai đảng CSVN và
CSTH bắt đầu từ đây. Khi đến Trung
Hoa lần thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đến
căn cứ Diên An, nơi đặt bộ chỉ huy
CSTH, trong nhiều tuần lễ vào mùa
thu năm 1938, có thể để học tập và
huấn luyện. Trong giai đọan đầu của
cuộc chiến chống Pháp, Việt Minh (một
mặt trận của CSVN) thất bại, phải co
cụm lên rừng núi và về nông thôn.
V́ vậy, vừa được tin Mao Trạch Đông
chiến thắng và thành lập nước Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Hoa ngày
1-10-1949, Hồ Chí Minh gởi liền hai
đại diện là Lư Bích Sơn và Nguyễn
Đức Thủy đến Bắc Kinh vào cuối năm
đó để xin viện trợ. (Qiang Zhai,
China & Vietnam Wars, 1950-1975, The
University of North Carolina Press,
2000, tt. 10-15.)
Tiếp theo, đích thân Hồ Chí Minh qua
Bắc Kinh và Moscow vào đầu năm 1950.
Tại Moscow, Hồ Chí Minh lănh chỉ thị
về thực hiện Cải cách ruộng đất sắt
máu theo kiểu cộng sản. Trên đường
về, trở lại Bắc Kinh, Hồ Chí Minh kư
với các nhà lănh đạo Trung Quốc Hiệp
ước Pḥng thủ Hỗ tương giữa hai bên.
Từ đó, CSTH cử La Quư Ba sang làm cố
vấn cho Hồ Chí Minh, và ào ạt viện
trợ cho VM.
Từ tháng 4 đến tháng 9-1950, Trung
Quốc viện trợ cho VM 14,000 súng,
17,000 súng tự động, 150 trọng pháo
đủ lọai, 2,800 tấn lúa, cùng đạn
dược, quân phục, máy truyền tin,
thuốc men…(Chính Đạo, Việt Nam niên
biểu, tập B, Houston: Văn Hóa, 1997,
tr. 191.)
Theo tài liệu của CSVN, từ tháng
12-1950 đến tháng 6-1954, “chính phủ
nước Việt nam Dân chủ Cộng Ḥa đă
nhận được viện trợ của quốc tế là
21,517 tấn vật chất, bao gồm vũ khí,
đạn dược, nguyên liệu quân giới, vận
tải, xăng dầu, gạo, thực phẩm, quân
trang, quân y, thông tin, công binh
(trong đó vũ khí đạn dược là 4,253
tấn; vận tải xăng dầu là 5,069 tấn;
gạo, thực phẩm – 9,590 tấn.) Tổng số
viện trợ trị giá 136 triệu đồng nhân
dân tệ (34 triệu rúp) theo thanh
tóan giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong số đó, vũ khí trang bị kỹ
thuật gồm có 24 khẩu sơn pháo 75 ly,
24 khẩu lự pháo 105 ly, 76 khẩu pháo
cao xạ 37 ly (của Liên Xô), 12 khẩu
pháo hỏa tiễn H6 (của Liên Xô, 715
xe ô tô vận tải (trong đó có 685 xe
của Liên Xô).” (Lê Mậu Hăn chủ biên,
Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III,
Hà Nội: Giáo Dục, 2001, tr. 103.)
Viện trợ nhiều, th́ ân t́nh nhiều.
Sau năm 1954, Bắc Việt tiến lên xă
hội chủ nghĩa, càng ngày càng nghèo
đói, lấy ǵ trả nợ ân t́nh? Để đền
ơn đáp nghĩa, nhà cầm quyền Hà Nội
không có ǵ ngoài việc lấy của gia
bảo là đất đai do cha ông để lại, để
hiến dâng cho Bắc Kinh.
Theo tài liệu về phía Trung Quốc,
"Vào tháng Sáu năm 1956, hai năm sau
khi chính phủ của ông Hồ Chí Minh đă
thành lập tại Hà Nội, thứ trưởng
Ngoại giao Việt Nam Ung văn Khiêm đă
nói với ông Li Zhimin, tham tán sứ
quán Trung Quốc tại Việt Nam, rằng
theo dữ liệu của Việt Nam th́ đảo
Tây Sa (tức Paracels, Ḥang Sa) và
đảo Nansha (tức Spratleys, Trường
Sa) là một phần thuộc Trung Quốc
theo lịch sử." (Quan điểm của Bắc
Kinh về chủ quyền tại Hoàng Sa và
Trường Sa, RFA 12-12-2007.)
Tài liệu tuyên truyền của Trung Quốc
có thể không đáng tin, nhưng thư của
thủ tướng Phạm Văn Đồng đề ngày
14-9-1956, gởi cho thủ tướng Chu Ân
Lai, th́ là thật đáng tin v́ chứng
tích rơ ràng c̣n để lại, nguyên văn
như sau:
Thưa Đồng chí Tổng lư,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để
Đồng chí Tổng lư rơ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
ḥa ghi nhận và tán thành bản tuyên
bố ngày 4 tháng 9 năm 1959 của Chính
phủ nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa
quyết định về hải phận của Trung
Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
ḥa tôn trọng quyết định ấy và sẽ
chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải
phận 12 hải lư của Trung Quốc, trong
mọi quan hệ với nước Cộng ḥa Nhân
dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng
lư lời chào rất trân trọng.
Chương hai tập hai chuyện dài Trung
Quốc từ 1954 đến 1975 được tiếp nối
bằng viện trợ của Trung Quốc để tấn
công Việt Nam Cộng Ḥa.
Trung Quốc chẳng những viện trợ súng
ống, đạn dược mà cả quân viễn chinh
nữa.
Trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày
30-7-1979, một viên chức ngọai giao
Trung Quốc cho biết tứ năm 1954 đến
1971, 300,000 binh sĩ Trung Quốc đă
chiến đấu bên cạnh binh sĩ Bắc Việt,
trong đó hàng ngàn người đă tử trận
và hàng chục ngàn người đă bị
thương. (Jacques Massu, Jean-Julien
Fonde, L’aventure Viet-Minh, Paris:
Plon, 1980, tr. 293, phần chú
thích.)
Tiết lộ của của viên chức ngọai giao
Trung Quốc được một tài liệu của một
cựu cán bộ CSVN là ông Nguyễn Minh
Cần xác nhận khi ông cho biết Bắc
Việt đă mời quân Trung Cộng vào đóng
giữ từ khu Việt Bắc xuống tới Hà
Nội. (Nguyễn Minh Cần, Công lư đ̣i
hỏi, California: Văn Nghệ, 1997, tr.
114.)
Trở lại cuộc họp báo của viên chức
bộ Ngọai giao Trung Quốc, ông ta c̣n
xác định số lượng vơ khí Trung Quốc
viện trợ cho CSVN từ 1950 đến 1977
lên đến 2,000,000 súng hạng nhẹ,
27,000 đại pháo, 270 triệu băng đạn,
18 triệu đạn đại pháo, 179 chiếc máy
bay và 145 chiến hạm.(Jacques Massu,
Jean-Julien Fonde, sđd. tr. 293,
phần chú thích.)
Tuy nhiên tất cả những tài liệu tạm
dẫn đó cũng đủ để giải thích v́ sao,
CSTH rất tức giận khi CSVN quay mặt
với Trung Quốc, để chạy theo Liên Xô
năm 1978. Sau đó, v́ Liên Xô sụp đổ
năm 1991, CSVN đành trở lại quy
thuận Trung Quốc.
Từ đó, trước mặt Trung Quốc, đảng
CSVN trở nên mềm nhủn, nhu nhược, và
liên tiếp kư hai hiệp ước nhượng đất
và nhượng biển cho Trung Cộng. Thứ
nhất là “Hiệp ước về biên giới trên
đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc”
ngày 30-12-1999 (mất ải Nam Quan) và
thứ hai là “Hiệp ước phân định lănh
hải” ngày 25-12-2000 (mất khoảng
10,000 Km2 mặt biển Vịnh Bắc Việt).
Chuyện biên giới là chuyện dai dẳng
cả trăm năm chưa giải quyết, mà v́
quá nhu nhược trước mặt Trung Quốc,
đảng CSVN kư liền hai hiệp ước, làm
mất đất đai do tổ tiên dày công xây
dựng.
Như thế, v́ tham vọng quyền lực, v́
muốn duy tŕ sự lănh đạo của đảng
CSVN, nên CSVN chạy theo cầu cạnh
Trung Quốc, phục vụ quyền lợi Trung
Quốc, nhượng đất cho Trung Quốc và
phạm tội phản quốc. Nói ngắn ngọn:
Đi với Trung Quốc nên phản quốc.
Chuyện Tam sa ngày 2-12-2007 chỉ là
diễn biến mới trong câu chuyện phản
quốc của CSVN. Câu chuyện nầy chắc
chắn sẽ chưa kết thúc nếu CSVN cứ
tiếp tục cầm quyền tại Việt Nam
3.- Dẹp phản quốc để chống Trung
Quốc
Trung Quốc là một trong những đại
nạn của lịch sử Việt Nam. Đại nạn
nầy càng gia trọng khi những kẻ phản
quốc cầm quyền, luôn luôn manh tâm
bán đứng đất nước để mưu đồ quỵền
lực và quyền lợi riêng tư. Hăy trở
lui với phản ứng của nhà cầm quyền
CSVN đối với vụ Tam Sa.
Có ba điều cần nhấn mạnh: 1) Trong
sinh họat dân chủ, cấp cao nhất là
Quốc hội. Việc Tam Sa do Quốc hội
Trung Quốc quyết định. Vậy cấp cao
hơn là ai? Phải chăng là Bộ Chính
trị đảng CSTH? Bộ Chính trị đảng
CSTH cũng nằm trong Quốc hội và điều
khiển Quốc hội, th́ c̣n ai cao hơn?
2) Đúng là lịch sử Việt Nam có đủ
bằng chứng rằng các đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt
Nam. Tuy nhiên, TRUNG QUỐC nói rằng
họ cũng có đủ bằng chứng cho thấy Hồ
Chí Minh, Phạm Văn Đồng, và đảng
CSVN đă nhượng các vùng đất và biển
nầy cho Trung Quốc. Đảng CSVN trả
lời sao đây? Đối với người Việt Nam,
những bằng chứng nầy là bằng chứng
PHẢN QUỐC của đảng CSVN. 3) Nói đến
công ước Liên Hiệp Quốc, th́ hiện
nay, Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam vừa mới giữ ghế không thường
trực hai năm trong Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc. Giải quyết những vụ
tranh chấp, xâm lăng lănh thổ giữa
các nước trên thế giới, nằm trong
chức năng của HĐBALHQ. Việt Nam đang
ngồi trong Hội đồng mà không dám đưa
vấn đề ra Hội đồng. Việt Nam cũng
không đưa ra kiện tụng ở Ṭa án Quốc
tế đặt tại The Hague (Ḥa Lan). Thế
th́ nói công ước quốc tế làm ǵ?
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Thế
mà CSVN quá sợ Trung Quốc, nên không
dám đánh. Quân đội Nhân dân “anh
hùng” của CSVN đứng bất động. Không
lẽ “anh hùng” Quân đội nhân dân chỉ
là công cụ để CSVN đàn áp dân chúng,
giúp CSVN bán dần và bán rẻ đất đai
của tổ tiên cho Trung Quốc?
Chúng ta cần chú ư rằng nguồn gốc
của vụ Tam Sa, hay của những hành
động xâm lăng ngang ngược của CSTH,
chẳng những do bản chất hiếu chiến
và xâm lăng của tập đ̣an lănh đạo
Bắc Kinh, mà c̣n bắt nguồn từ kẻ nội
thù của người Việt. Kẻ nội thù đó
chính là đảng CSVN, kẻ đă thụ ơn
Trung Quốc, làm tay sai cho Trung
Quốc, sợ sệt Trung Quốc, từ từ
nhượng bộ Trung Quốc hết điểm nầy
đến điểm khác.
Trong khi nhu nhược với Trung Quốc,
CSVN hết sức độc tài ở trong nước.
Cho đến nay, vào đầu thế kỷ 21, Việt
Nam vẫn chưa có tự do chính trị,
chưa có tự do bầu cử, chưa có tự do
báo chí, nghĩa là CSVN vẫn duy tŕ
chế độc độc tài. Ở trong nước càng
độc tài, càng đàn áp, CSVN càng bị
phản đối từ nhiều phía, từ dân chúng
trong nước, đến dư luận thế giới.
Càng bị phản đối, CSVN lại càng bám
gót Trung Quốc để tiếp tục tồn tại.
Càng bám gót Trung Quốc, CSVN càng
nhượng bộ, càng phản quốc.
Hồ Chí Minh đă từng mượn biệt hiệu
Áí Quốc của các nhà cách mạng yêu
nước chân chính để làm tên riêng,
nhưng khi qua Liên Xô, lănh lương
của Đệ Tam Quốc Tế, lănh sứ mạng
phát triển cộng sản xuống Đông Nam
Á, đưa chủ nghĩa Mác-xít về làm hại
đất nước, Áí Quốc trở thành phản
quốc.
Học tṛ của Hồ Chí Minh trong đảng
CSVN tiếp tuc sách lược của ông, làm
tay sai cho Trung Quốc, tiếp tục
phản quốc. V́ vậy, muốn chống Trung
Quốc hữu hiệu, trước tiên phải dẹp
bỏ phản quốc. Chỉ khi nào kẻ phản
quốc không c̣n, th́ mới chấm dứt
t́nh trạng nhượng bộ đất đai, mới có
thể nói chuyện tập hợp tổng lực toàn
dân, chống Tung Quốc một cách hữu
hiệu, như trước kia nhà Lư, nhà Trần
đă làm.
Trần
Gia Phụng