Trung Quốc: Những mắc xích... tiến chiếm Việt Nam (?)
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết
Chính sách đối với Việt Nam
Trung Quốc từ hơn 30 năm qua
(không kể trong thời kỳ
chiến tranh trước năm 1975),
đă và đang chuyển ḿnh tiến
về Đông Nam Á. Và Việt Nam
là một trong những thí điểm
lớn để cho tư bản Trung Quốc
định cư cùng với những ảnh
hưởng chính trị và quân sự
để thực hiện mộng bá quyền
nước lớn và thôn tính vùng
Đông Nam Á cùng biển Đông.
Trước sự cạnh tranh kinh tế
toàn cầu ngày càng gay gắt,
việc hạ giá thành phẩm là
việc làm ưu tiên để có thể
chiếm lĩnh thị trường thế
giới. Đó là chính sách chung
của mọi quốc gia. Do đó,
Việt Nam là một mảnh đất béo
bở cho tài phiệt Trung Quốc
đầu tư v́:
- Nhân công c̣n quá rẻ, ngay
cả đối với nhân công Trung
Quốc vốn dĩ đă quá rẻ mạt;
- Chi phí cho việc bảo vệ
môi trường không bị đ̣i hỏi
gắt gao như ở Trung Quốc
hiện tại;
- Và quan trọng nhất là mọi
thủ tục hành chánh và dịch
vụ xuất nhập cảng đều được
dễ dàng v́ cung cách quản lư
địa phương ở Việt Nam dễ bị
mua chuộc.
Từ 3 yếu tố trên, Việt Nam
đối với Trung Quốc có thể
được ví như là Mễ Tây Cơ với
Hoa Kỳ trong lănh vực đầu tư
và sản xuất.
Thêm một yếu tố tâm lư quan
trọng khiến cho các nhà đầu
tư Trung Quốc di chuyển
xuống Việt Nam là Trung Quốc
t́m thấy nơi đây một xứ sở
giống như đất nước của họ,
một đất nước đang chuyển
ḿnh từ từ và đang từ bỏ chủ
thuyết cộng sản không tưởng
để tiến tới một nền kinh tế
thị trường tự do đầy hấp dẫn.
C̣n về tâm lư chung của hai
dân tộc, có nhiều điểm tương
đồng chính nhất là việc quan
hệ kinh doanh dựa theo cách
tiếp cận có tính cách cá
nhân và thường sử dụng quyền
lực áp đặt để lấn át pháp
luật hầu mang lại mọi dễ dăi
trong thủ tục hành chánh.
Hăy nghe Zou Qinghai, Chủ
tịch pḥng Thương măi Triết
Giang tuyên bố:
"Chúng tôi hiểu thông suốt
rằng phải đưa tiền hối lộ
mới xong công việc. Cách
thức phát triển của Việt Nam
chỉ đơn giản là một bản sao
của Trung Quốc".
Hiện tại, tính đến cuối năm
2005, đầu tư của Trung Quốc
chính thức vào Việt Nam
tương đối c̣n khiêm nhường
so với các quốc gia trong
vùng như Đài Loan, Nhật Bản,
Đại Hàn là $734 triệu Mỹ kim
so với hơn $50 tỷ của ba
nước vừa kể trên. Nhưng qua
những con số không chính
thức có liên quan đến những
đối tác Hồng Kông th́ mức
thẩm thấu vào Việt Nam có
thể lên đến $3.7 tỷ. Và
thương măi hai chiều dự kiến
trong năm 2008 là trên $10
tỷ Mỹ kim.
Các công ty Trung Quốc chú
trọng đầu tư vào năng lượng
và tài nguyên thiên nhiên
của Việt Nam. Trung Quốc đă
kư thoả thuận trong việc
thăm ḍ dầu khí ở vịnh Bắc
Việt trong khi Hồ Cẩm Đào
viếng thăm thủ đô Hà Nội vào
tháng 10, 2005. Việt Nam vẫn
là một lợi điểm cho Trung
Quốc v́ hai quốc gia đă kư
hiệp ước tự do mậu dịch với
nhau. Từ đó, Trung Quốc có
thể chuyển ngành dệt sang
Việt Nam để tránh vấn đề
hạng ngạch (quota) trong
việc xuất cảng các sản phẩm
nầy qua Hoa Kỳ và Liên Hiệp
Âu Châu.
Ảnh hưởng lên môi sinh Việt
Nam
Gần 20 năm qua, Trung Quốc
đă bắt đầu chuyển dịch các
cơ sở sản xuất qua Việt Nam
v́ áp lực của luật ô nhiễm
môi trường ở bản địa là
chính. Các đầu tư di chuyển
về Việt Nam cũng v́ luật lệ
ở Trung Quốc nghiêm ngặt hơn
qua việc bảo vệ môi trường ở
một số khu vực tại Trung
Quốc, đặc biệt ở các tỉnh ở
miền duyên hải như Thượng
Hải, Hong Kong, Triết Giang.
Chính quyền ở những tỉnh nầy
khuyến khích đầu tư ở Việt
Nam đối với các công nghệ
gây ô nhiễm môi trường nhiều
nhất như công nghệ thép,
plastic, điện tử, hoá chất
v.v... Cơ quan bảo vệ môi
trường ở các tỉnh trên đă
bắt đầu ngăn cấm và tước
quyền sử dụng đất, nước, và
điện của những cơ sở có nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường
trầm trọng. Đó cũng là một
trong những lư do chính để
các nhà đầu tư Trung Quốc
xuôi Nam, một nơi có chi phí
dùng trong an toàn lao động
rẻ mạt.
Từ những nhận định và phân
tích trên đây, quả thật Việt
Nam đang phải hứng chịu
nhiều hệ quả của việc bành
trướng và phát triển kinh tế
và kỹ nghệ của Trung Quốc.
Tư thế của một đàn em Việt
Nam trước một đàn anh nước
lớn Trung Quốc cho đến nay
vẫn là một sự thuần phục
hoàn toàn. Thuần phục trong
tư thế chính trị, quân sự
lẫn kinh tế. Trung Quốc đă
tạo được một sức ép quá mạnh
trong ba lănh vực trên,
khiến cho Việt Nam luôn luôn
đang ở thế bị động và không
thể nào thoát khỏi tầm ảnh
hưởng của ba gọng kềm trên.
Chiến lược xâm chiến Việt
Nam của Trung Quốc
Chúng ta thử h́nh dung các
mắc xích có thể kết nối bảy
sự kiện đang được khai triển
ở Việt Nam và các quốc gia
lân cận. Đó là:
1 - Công tŕnh xây dựng xa
lộ Trường sơn,
2 - Mở rộng đường số 9 nối
liền biên giới Thái-Lào ra
biển Đông qua thị xă Đồng
Hới,
3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu
Dung Quất,
4 - Dự án quốc tế giữa Trung
Quốc, Lào, và Thái Lan trong
việc khai thông ḷng sông
Cửu Long để tàu vận tài nặng
có thể lưu thông trên thủy
lộ nầy,
5 - Thiết lập xa lộ nối liền
thành phố Nam Ninh và Hà
Nội,
6 - Miễn hộ chiếu cho người
Trung hoa vào tận mũi Cà
Mau,
7 - Dự án khai thác quặng
bauxite ở vùng Tây nguyên
(Cao nguyên).
Công tŕnh xây dựng xa lộ
Trường Sơn: Từ năm 2001, cựu
Thủ tướng Việt Nam cộng sản
Vơ Văn Kiệt đă ra lịnh bằng
mọi giá phải xây dựng xa lộ
Trường Sơn nối liền Bắc-Nam
dọc theo biện giới
Việt-Miên-Lào, huy động hàng
trăm ngàn thanh niên xung
phong thời bấy giờ. Theo
quan điểm chiến lược quân sự
mới, xa lộ Trường Sơn sẽ
không c̣n là con đường chiến
lược một khi có chiến tranh
như lănh đạo Việt Nam biện
minh cho việc xây dựng nầy,
v́ với vũ khí tối tân hiện
tại, sẽ không có việc di
chuyển vũ khí và quân đội
bằng đường bộ qua kinh
nghiệm hai trận chiến ở Iraq
và Afganistan. Thiết nghĩ
đây là con đường chiến lựơc
dành cho mục đích kinh
tế-chính trị, nhưng không
hẳn để áp dụng cho Việt Nam
v́ trong suốt chiều dài của
xa lộ là vùng thưa dân cư
nếu không nói là hoang dă.
Như vậy mục tiêu chính phải
chăng là nhắm tới một mục
tiêu bí mật nhằm giải quyết
huyết lộ vận chuyển hàng hoá
hai chiều ở miền Tây Trung
Quốc ra hải ngoại. Thử hỏi,
Quốc lộ I, con đường huyết
mạch của Việt Nam, cần phải
được nâng cấp v́ nhu cầu
giao thông và phát triển cho
Việt Nam, nhất là từ Quảng
Trị trở ra Bắc nhưng tại sao
không được lưu tâm đến?
Đường số 9 được nới rộng
thành một xa lộ để khai
thông một huyết mạch mới
đông tây từ Thái Lan ra biển
Đông nối liền thị xă Đồng
Hới và thành phố Chepone của
Lào. Có được con đường nầy,
hàng hoá hai chiều của Trung
Quốc có thể được chuyển vận
bằng đường sông và đường bộ
để tiếp cận với các quốc gia
khác qua biển Đông.
Về nhà máy lọc dầu Dung
Quất: Tuy vùng nầy không có
hạ tầng cơ sở như giao
thông, điện nuớc, và dân cư
thưa thớt, và rất xa trung
tâm sản xuất dầu thô hàng
ngàn dậm. Địa điểm nầy phải
chăng được chọn lựa để đáp
ứng mục tiêu chuyển vận dầu
khí vào vùng đất phía Tây
Nam của Trung Quốc, thay v́
phải chuyển vận bằng xe từ
Thượng Hải, Hong Kong bằng
đường bộ rất tốn kém? Có
phải, chính v́ các lư do
trên mà Việt Nam chấp nhận
mọi tốn kém để xây dựng nhà
máy Dung Quất dù cho tư bản
Pháp và Liên bang Nga đă rút
ra khỏi dự án từ ban đầu.
Và công tŕnh quốc tế thứ tư
là trục vớt đá ngầm cùng nới
sâu ḷng sông Cửu Long không
ngoài mục đích vận chuyển
của các tàu vận tải hàng hóa
có trọng tải trên 20 ngàn
tấn nối liền Vân Nam (Tây
Nam Trung Quốc), Thái, Lào,
và Việt Nam, và giao thương
với thế giới. Vân Nam là một
tỉnh sản xuất hoá chất hàng
đầu của Trung Quốc; do đó,
nhu cầu vận chuyển nguyên
liệu nhập cảng và xuất cảng
thành phảm ra ngoại quốc là
một nhu cầu chính yếu.
Thiết lập xa lộ nối liền Nam
Ninh và Hà Nội: Song song
với việc trên, một thiết lộ
cũng đă được khai thác và
nối liền hai thành phố. Việc
xây dựng hoàn toàn do nhân
viên và chuyển viên Trung
Quốc đăm nhiệm, cũng như bề
ngang của đường xe lửa dựa
theo tiêu chuẩn Trung Quốc;
do đó, xe lửa Việt Nam không
thể sử dụng được. Hiện tại,
chúng ta chỉ thấy các toa xe
lửa hoàn toàn mang bản hiệu
chữ Tàu mà thôi. Phải chăng,
thiết lộ nầy ngoài nhu cầu
phục vụ các dịch vụ giao
thương kinh tế giữa hai nước
hay c̣n một ẩn dụ nào khác?
Đó là con đường tháo chạy an
toàn cho lănh đạo Việt Nam
hiện tại, mỗi khi có biến
động lờn ở Việt Nam?
Việc miễn hộ chiếu cho người
Trung hoa vào tận Mũi Cà
Mau: Măi cho đến tháng 11,
2008, người Trung hoa được
tự do đi lại, không cần hộ
chiếu chỉ ở các tỉnh miền
Bắc. Sau ngày trên, người
Trung hoa có thể đi lại vào
tận cao nguyên thậm chí đến
tận Cà Mau không cần xin hộ
chiếu. Quyết định nầy là một
lợi khí lớn cho Trung Quốc
để chuyển vận hàng hoá và
thực phẩm chính thức hay
không chính thức xâm nhập
vào tận miền Nam bằng đường
bộ. Hiện tại, tại Sài G̣n,
hoá chất bảo vệ thực vật
không nhản hiệu được bày bán
tự do, đủ loại thực phẩm,
cây trái được bày bán ở thị
trường miền Nam. Thử hỏi,
thời gian thu hoạch trong
nội địa Trung Quốc, chuyển
vận bằng xe từ biên giới Bắc
Việt (không có máy điều hoà
không khí) xuôi Nam, làm sao
các thực phẩm cây trái trên
vẫn c̣n tươi rói, thậm chí
cả cuống và lá vẫn xanh tươi
như vừa mới hái? Một trong
những nguồn lợi chính của Đà
Lạt là rau cũ, nhưng thị
trường đă bị ối động v́
không địch lại với hàng
Trung Quốc v́ giá rẽ hơn,
trong khi phí tổn chuyên chở
rất cao.
Sau cùng, dự án khai thác
quặng bauxite do chính Thủ
tướng cộng sản Nguyễn Tấn
Dũng ra lịnh tiến hành ngay,
mặc dù có biết bao góp ư từ
những nhà chuyên môn trong
nước và hải ngoại, thậm chí
có những góp ư hoàn toàn
trái ngược của Tướng cộng
sản Vơ Nguyên Giáp, cùng
kinh nghiệm của các quốc gia
đă khai thác như Nga Sô, Nam
Mỹ, Phi Châu, Trung Quốc và
Úc Châu.
Tất cả đểu khuyến cáo là
không hiệu quả kinh tế và
mức độ ô nhiễm môi trường
rất cao. Chính Trung Quốc
phải đóng cửa một nhà máy
mới vừa khánh thành tiêu tốn
trên 1 tỷ Nhân dân tệ v́
không giải quyết được áp lực
của ngựi dân và sức ép của
luật môi trường. Chính v́
vậy mà Việt Nam "phải vâng
lịnh" tiến hành ngay việc
xây dựng hai nhà máy khai
thác ở Đắk Nông dưới sự quản
lư của nhân công, kỹ sư và
thiết bị hoàn toàn do phía
Trung Quốc cung cấp. Hiện
tại (tháng 2, 2009), theo
tướng Giáp, đă có trên 100
nhân viên Trung Quốc hiện
diện ở hai công trường nầy.
Dự án khai thác nầy đ̣i hỏi
một lượng điện năng khổng lồ
và nguồn nước thật dồi dào,
chưa kể đến nguy cơ môi
trường trước mắt là không
khí bị ô nhiễm, môi trường
nước cũng bị ô nhiễm do bùn
"đỏ" trôi theo đường nước đi
vào sông Đồng Nai, nguồn
nước chính dự trù cho việc
khai thác nầy. Nguy hiểm
nhất là bùn đỏ sẽ chiếm lĩnh
một diện tích vô cùng to lớn
và hệ sinh thái chung quanh
hoàn toàn bị huỷ diệt, cùng
vùng đất khai thác và vùng
đất chứa bùn đỏ bị hoang hoá
hoàn toàn. Theo ước tính,
muốn sản xuất 1,2 triệu tấn
nhôm hàng năm, phải cần đền
một lượng điện gấp đôi lượng
điện Việt Nam đang có hiện
nay. V́ vậy, để kết luận,
tính cách khả thi của dự án
không cao, nếu không nói là
bất khả thi.
Như vậy, quyết định trên có
phải là một quyết định đánh
trống bơ dùi hay không? Hay
là c̣n có một ư đồ nào khác
hơn là việc khai thác nhôm?
Sự hiện diện của công nhân,
chuyên viên, kỹ sư Trung
Quốc ở vùng Cao nguyên,
xương sống của Việt Nam,
nguồn nguyên liệu dồi dào
c̣n lại của Đất Nước, có thể
là một nhân tố chính
trị-quânsự- kinh tế để Trung
Quốc có thêm điều kiện để
khống chế Việt Nam?
Nhu cầu nhôm của Việt Nam
hàng năm vào khoảng 100 đến
150 ngàn tấn dễ dàng được
nhập cảng từ Úc châu. Thử
hỏi với lượng sản xuất hàng
triệu tấn dùng để xuất cảng
sang Trung Quốc mà thôi, do
đó, càng thêm bị lệ thuộc
vào quốc gia nầy, và dễ dàng
bị khuynh đảo cũng như áp
lực của Trung Quốc.
Nếu tổng hợp bảy mắc xích
trên lại với nhau, chúng ta
có thể h́nh dung được một sự
phối hợp chiến lược nhuần
nhuyễn về quân sự-kinh
tế-chính trị. Nhưng sự phối
hợp đó có thể chỉ để phục vụ
cho nhu cầu của đàn anh nước
lớn để:
Chuyển vận hàng hóa xuất
cảng từ lục địa Tây Nam
Trung Quốc sang Thái, Lào,
Việt Nam và quốc tế. Sản
phẩm nhập cảng chiến lược
của Trung Quốc là dầu khí,
và Dung Quất sẽ là nguồn
cung cấp quan trọng cho vùng
nầy. Và biết bao lợi ích
khác nữa cho Trung Quốc cả
về kinh tế lẫn quân sự và
chính trị.
Nếu dự kiến cảnh tượng trên
đây là một sự thật th́ đây
sẽ không thể hiện tinh thần
hội nhập và phát triển bền
vững theo tinh thần của Liên
Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô
đậm thêm lư tính thần phục,
nếu không nói là nô lệ của
cường quyền để phục vụ cho
nhu cầu kinh tế, chính trị,
và quân sự của Trung Quốc
hơn là tạo thêm phúc lợi cho
người dân Việt.
Xuyên qua bảy cản ngại đă
phân tích ở phần trên để lư
giải cho việc phát triển
không đồng bộ đưa đến t́nh
trạng bế tắc hiện tại của
Việt Nam trong vấn đề hội
nhập vào tiến tŕnh ṭan cầu
hóa trên thế giới, Việt Nam
đang tiếp tục đi theo chiều
hướng kinh tế chỉ huy, do đó
không c̣n đủ sức quán tính
mạnh để vượt ra khỏi rào cản
thần phục và xin-cho, để rồi
cuối cùng giải pháp thần
phục vẫn là giải pháp dễ
nhất và an toàn nhất cho
công cuộc bảo vệ quyền lực.
Từ những lư do đó, làm sao
lănh đạo Việt Nam có thể đem
lại niềm tin cho người dân
được. Biết đến bao giờ thái
độ thần phục của Việt Nam
được chấm dứt để cho người
dân Việt có khả năng đứng
vững trên hai chân của ḿnh.
Lịch sử Việt Nam trong tương
lai chắc chắn sẽ không quên
ghi lại những trang sử đen
tối của dân tộc trong giai
đoạn nầy.
Thay lời kết:
Qua những nhận định và phân
tích vừa kể trên, quả thật
chúng ta đă thấy thật rơ âm
mưu thôn tính Việt Nam của
Trung Quốc và lư tính thuần
phục của Việt Nam hiện tại.
Đất Nước là Đất Nước của
chung, của cả dân tộc. Từ
người lănh đạo quản lư Đất
Nước cho đến người dân cùng
đinh trong xă hội cần phải
được dự phần và chia xẻ
trách nhiệm đối với Đất
Nước.
Ở các quốc gia tiến bộ và
phát triển, người có quyền
hạn càng cao th́ trách nhiệm
càng lớn. Một tai nạn xe lửa
hay máy bay có thể khiến cho
ông/bà Bộ trưởng Giao thông
phải nhận lănh trách nhiệm
và từ chức. Huống chi trong
việc quản lư một Đất Nước.
Việt Nam từ bao năm nay, có
biết bao chính sách, kế
hoạch... bị phá sản mà nhân
sự đề ra chính sách vẫn ung
dung tự tại trên cương vị
cũ, có khi càng cao hơn để
có điều kiện đề ra những
chính sách phá sản khác! Đó
là một trong nhiều nghịch lư
làm tŕ trệ sự tiến hóa và
phát triển của Dân tộc.
Tóm lại, cho đến ngày hôm
nay, có thể nói qua những
phân tích trên đây, mọi hành
xử của cộng sản Việt Nam đều
do cộng sản TQ điều khiển từ
xa; Việt Nam hoàn toàn không
c̣n khà năng quyết định vận
mệnh của đất nước nếu không
có sự "góp ư" của Trung
Quốc. Qua việc đàn áp người
dân trong nước trong khi
biểu t́nh chống Trung Quốc
lấn chiếm Hoàng Sa và Trường
Sa, cũng như qua việc Việt
Nam để công an Trung Quốc
đàn áp người dân trong khi
biểu t́nh chống việc rước
đuốc thế vận vừa qua đủ để
nói lên tính nô lệ Trung
Quốc của nhà cầm quyền cộng
sản Viêt Nam hiện tại.
Hiện tại, nội bộ đảng cộng
sản Việt Nam đang có nhiều
rạn nứt trầm trọng, và rạn
nứt nầy có thể làm cho đảng
cộng sản tan ră trong tương
lai. Nhưng điều đó không có
nghĩa là chúng ta phải chờ
đợi trong thụ động mà cả
người Việt trong nước hay
tại hải ngoại cần phải thúc
đẩy càng mạnh thêm để tiến
tŕnh dân chủ và nhân quyền
ở Việt Nam diễn ra càng
nhanh hơn nữa.
Sách Lịch sử Việt Nam của Cụ
Trần Trọng Kim có ghi là
Việt Nam trong suốt chiều
dài lịch sử trải qua bốn lần
bị Bắc thuộc. Ngày hôm nay,
có thể được ghi thêm là Bắc
thuộc lần thứ năm kể từ ngày
3 tháng 2 năm 1930 và kết
thúc vào ngày … Ngày đó sẽ
do tất cả người Việt trong
và ngoài nước quyết định.
Mai Thanh Truyết
2/2009
http://tiengnoitudodanchu.org/modules.php?name=News&file=article&sid=7041
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết là
Chủ tịch Ban chấp hành Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam (VAST) tại Hoa Kỳ
"Láng giềng cưỡi cổ, cướp
đất toàn diện, lấn biển lâu
dài, thôn tính tương lai”