Trí thức và chế độ cộng sản
Phạm Việt Vinh
Tiến
sĩ A đă từng là một giáo sư người Đức giỏi tại trường Đại học Kỹ thuật thành phố
E.,, một đô thị lớn thuộc Đông Đức cũ. Ông là giáo sư trưởng ngành khi tôi c̣n
là một du học sinh Việt Nam tại E. vào giữa những năm 70 của thế kỷ trước. Đối
với giới sinh viên hồi đó, ông là một người thầy vừa được quư mến, vừa được kính
trọng. Trong giờ ông lên lớp, giảng đường im phăng phắc, tất cả sinh viên từ
người Đức, người Hung đến người Việt đều chăm chú nghe, đều cắm đầu ghi chép hầu
như lấy từng lời của ông v́ mọi điều ông nói ra đều có vẻ như vô cùng quư giá.
Vào cuối những năm 80, ông là người trực tiếp hướng dẫn tôi làm luận án nghiên
cứu khoa học. Lúc này, ngoài vai tṛ giáo sư trưởng ngành, ông c̣n đảm nhiệm
chức vụ chủ tịch công đoàn khoa.Vào giờ ăn sáng, ăn trưa, xung quanh ông lúc nào
cũng có dăm bảy đồng nghiệp ngồi cùng với một thái độ nể trọng.
Tháng 10 năm 1990, nước Đức thống
nhất. Tại tất cả các cơ quan ở Đông Đức, người ta tiến hành kiểm tra, phát giác
hệ thống chân rết của bộ máy An ninh Quốc gia Stasi khét tiếng. Từ đó, vào giờ
ăn sáng, ăn trưa, tôi thấy giáo sư A hầu như chỉ ngồi có một ḿnh. Rồi tôi ngạc
nhiên khi thấy nhiều đồng nghiệp của ông có vẻ như lảnh tránh ông và đôi lúc
nh́n ông với những ánh nh́n khinh ghét. Một thời gian sau, có người nói với tôi:
giáo sư A là „IM“ (viết tắt của tiếng Đức: inoffizieller Mitarbeiter), là người
ngầm cung cấp tin tức cho cơ quan An ninh Quốc gia. Tuy vẫn c̣n là giáo sư, tiến
sĩ tại trường, nhưng tôi thấy ông càng ngày càng cô đơn hơn, buồn thảm hơn. Năm
1992, ông chủ động xin nghỉ hưu trước thời hạn. Với tư cách học tṛ cũ, tôi
thỉnh thoảng vẫn đến thăm ông. Và ông kể với tôi: với vị trí là giáo sư trưởng
ngành và chủ tịch công đoàn, ông vừa là nhà lănh đạo chuyên môn, vừa là người có
thể nh́n nhận được nhiều mặt trong cuộc sống của hơn 300 giáo viên, cán bộ khoa
học và nhân viên trong khoa. Rồi một ngày, ông nhận được giấy mời của cơ quan
Stasi. Tại trụ sở Stasi của tỉnh, người ta yêu cầu ông cộng tác. Việc cộng tác
sẽ đảm bảo cho vị trí công tác và sự thăng tiến của ông. Việc chối từ sẽ được
đánh giá là sự bất hợp tác với cơ quan bảo vệ quốc gia, sự trốn tránh trách
nhiệm của một đảng viên cộng sản. Đối với ông,lời yêu cầu đó là một sự bắt buộc.
Và ông nhận lời. Nhiệm vụ của ông là thường xuyên báo cáo với cơ quan an ninh
quốc gia về khả năng chuyên môn, và đặc biệt là về thái độ chính trị cũng như
diễn biến tư tưởng của đồng nghiệp và cán bộ dưới quyền. Ông kể rằng ông đă
không hề làm những báo cáo sai sự thật. Nhưng cũng v́ những báo cáo của ông mà
có những tiến sĩ không bao giờ được trao đề tài nghiên cứu quan trọng, có những
giáo viên, nhân viên bắt buộc phải đổi nghề. Ngược lại, ông được bầu vào Đảng ủy
trường đại học, được cấp một khoảnh đất rộng răi để xây lên một biệt thự khang
trang bên cạnh các biệt thự của nhiều quan chức lănh đạo thành phố.
Rồi cuộc đời đă không như ông tưởng.
Nhà nước Cộng ḥa Dân chủ (CHDC) Đức sụp đổ. Hồ sơ bộ máy Stasi bị phanh phui.
Nhiều đồng nghiệp, bạn bè ông đă được đọc những ḍng ông ngầm viết về họ. Trong
một buổi họp toàn khoa, ông đă đứng lên thành thật xin lỗi họ. Nhưng dù có muốn,
họ cũng không có thể nh́n ông được như xưa. Ông không bị truy cứu h́nh sự, không
bị trừng phạt, nhưng khi biết vào những lúc trao đổi ngày nào, bên cạnh con mắt
một nhà khoa học, một người bạn, một người đồng nghiệp, ông c̣n có một con mắt
khác để nh́n họ, soi họ dưới một góc độ khác, th́ đối với họ, ông là một người
hai mặt, và ngày nay họ không thể tin ông. Qua bàn tay dù muốn hay không của ông,
có những người khác chính kiến với nền chính trị chính thống đă bị thiệt tḥi. Ở
một mức độ nào đó, họ có quyền coi ông là kẻ phản bội bạn bè. Là một người thông
minh và học cao, có lẽ ông biết rơ điều đó, và ông cũng biết rơ uy quyền khủng
khiếp của cơ quan an ninh chính trị. Nhưng có thể bản thân ông cũng không biết,
khi nhận cộng tác ngầm với Stasi, trong tâm lư của ông có bao nhiêu phần trăm là
ḷng tin vào chế độ, bao nhiêu phần trăm là sự sợ hăi, và bao nhiêu phần trăm là
ước muốn công danh, biệt thự, xe hơi. Kết cục là bên cạnh việc vẫn sử dụng ông
với năng lực một nhà khoa học, chế độ cộng sản Đông Đức đă biến ông thành một
người mật thám. Người ta đă dùng ḷng tin, sự sợ hăi, nỗi ham muốn lợi quyền để
bẻ cong tư cách trí thức của ông, để ông không c̣n được trung thực, không c̣n
được ngay thẳng. Nhân danh việc bảo vệ chế độ, người ta đă đánh sụp ông hoàn
toàn với tư cách một người thầy giáo, một nhà khoa học.
Có lẽ khi nh́n kỹ, tư chất trí thức
chưa bao giờ là đồng minh của một chế độ cộng sản. Stasi Đông Đức là con đẻ của
cơ quan an ninh Liên Xô. Các bài bản của Stasi phần lớn được học hỏi từ bộ máy
an ninh Xô-viết. Lịch sử đă cho thấy rơ, ngay sau khi chính quyền Xô-viết được
thành lập vào năm 1917, đối tượng bị cơ quan an ninh đánh phá khốc liệt và tàn
bạo nhất là tầng lớp quư tộc và trí thức. Với tuyên bố xây dựng nhà nước
công-nông, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một thể chế công khai coi trí
thức là một nhân tố phụ trong xă hội. Dưới lưỡi hái của các cơ quan „Chống phản
cách mạng“, „An ninh Quốc gia“ như Cheka, KGB, hàng trăm ngàn trí thức đă bị sát
hại, tù đầy, trục xuất. Những trí thức được đào luyện trong chế độ mới một mặt
vẫn phải miệt mài sản sinh ra những thành quả khoa học, kỹ thuật diệu kỳ, mặt
khác vẫn nằm trong sự giám sát nghiêm ngặt và khi cần vẫn bị sự khủng bố, triệt
hạ sắt máu của bộ máy an ninh chính trị. Người ta sẽ có lư khi cho rằng, do xuất
phát từ chủ thuyết „vô sản“, do sức mạnh chính quyền ban đầu được dựa vào những
thành phần xă hội đơn giản nên tất cả các chính quyền cộng sản đều có mối thâm
thù với tầng lớp trí thức. Và do muốn dựng xây thế giới trên cơ sở một thứ tôn
giáo trá h́nh, nên các đảng cộng sản phải coi tính trung thực, sự hoài ước „Chân,
Thiện, Mỹ“ – những đặc tính cần thiết của giới trí thức, là những liều thuốc độc.
Biểu hiện căm thù trí thức đạt tới đỉnh cao với sự h́nh thành nhà nước Cộng ḥa
Nhân dân Trung Hoa. Cuộc cách mạng cộng sản Trung Quốc được lănh đạo bởi Mao
Trạch Đông, con của một trung nông, và được dựa hầu như hoàn toàn vào sức mạnh „nông
thôn bao vây thành thị“. V́ vậy, Tôn Dật Tiên, Quốc dân Đảng với hậu thuẫn chính
là tư sản, trí thức phải bị gạt bỏ, triệt tiêu. Trí thức được đánh giá cao hơn „cục
phân“ phải bị xử lư kỹ trước khi sử dụng, phải bị đội mũ lừa, bị cải tạo lao
động tại nông thôn và phải bị tàn sát trong „Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản“.
Là con đẻ, là đàn em của các chính
quyền cộng sản Xô-viết, Đông Đức, Trung Hoa nên trong thực chất, chính quyền
hiện nay ở Hà Nội cũng phải mang trong máu mối thâm thù trí thức. Khi c̣n ngồi
trên ghế nhà trường phổ thông miền Bắc từ cuối những năm 60, người viết bài này
cũng đă được dặn ḍ rất kỹ rằng tầng lớp trí thức là thành phần không kiên định,
hay nghiêng ngả và dễ dàng đi với giai cấp tư sản. Đối với chế độ hiện nay, chủ
thuyết đấu tranh giai cấp, coi công-nông là nền tảng cách mạng, khẩu hiệu „trí
phú địa hào – đào tận gốc, trốc tận rễ“ có thể đă là những vũ khí đă lỗi thời,
được cất làm cổ vật. Nhưng điều quan trọng là chính những vũ khí đó đă tạo ra
nền tảng của chính quyền hiện nay; chính tâm thức công-nông, bài trí thức đó vẫn
đang quyết định hành xử của các cỗ máy công quyền hiện đại. Nhiều đại biểu Quốc
hội có học vấn thực thụ vẫn trộm phàn nàn về sức mạnh áp đảo của thành phần „ít
học“ trong Quốc hội. Những thứ trưởng, bộ trưởng trẻ ngóng mong được làm một
giới „kỹ trị“ mới vẫn đang phải chịu sự điều hành hay nấp bóng của các đại công
thần xuất thân từ chiến trường, đồng ruộng hay thậm chí từ thành phần bất hảo.
Những người ǵn giữ và bảo vệ một chế độ như vậy đương nhiên sẽ căm ghét những
phân tích, nh́n nhận tỉnh táo, khoa học. Khi bắt toàn dân phải nghĩ và đi theo
„lề đường bên phải“, chính thể này không khác nhiều so với việc cách đây 50 năm,
họ đă hành hạ những ai phản đối nhà nước muốn „đặt bục công an giữa trái tim
người“. Trong khi đó, tận t́m sự hợp lư, vượt thoát vạch ngăn lại chính là tố
chất cao nhất của người trí thức. Và điều này sẽ quyết định sức mạnh của một đất
nước. Chăng dây định lề đi cho trí thức là hành vi „phản tri thức“, phá hoại
quốc gia. Khi thực thi chủ trương này, th́ ngay cả với một đội ngũ khoa bảng cao
trong bộ máy chính quyền, nhà nước Việt Nam ngày nay vẫn không vượt thoát được
bản chất „công-nông“ không thể gột rửa. Hơn nữa, khi xuất phát từ một quốc gia
chưa có giai cấp công nhân, và một điền chủ với vài ba mẫu ruộng đă bị đem ra
đấu tố, th́ bản chất này có thể chỉ ở mức độ „tiểu nông“ với những biểu hiện
thiển cận trong nh́n nhận, giảo hoạt trong thái độ và tủn mủn trong hành vi. Với
một chính quyền như vậy, giới trí thức có suy nghĩ độc lập phải được coi là hiểm
họa. Tư tưởng chính trị mong manh có thể đă làm cho ban lănh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam lúc th́ xác quyết „Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp“, lúc th́ khẳng
định „Trung Quốc là đồng minh chiến lược, toàn diện và lâu dài“, nhưng có lẽ,
bản chất „tiểu nông“ đă làm cho họ lúc nào cũng coi trí thức măi măi là đối thủ!
Trong trận tuyến họ tạo ra với trí thức ấy, việc đàn áp, bắt trí thức suy nghĩ,
hành động trong khuôn phép chắc chắn là một nhiệm vụ quan trọng của bộ máy an
ninh cộng sản. Trong hành xử chống lại một đối thủ bị căm ghét về tri thức và tư
tưởng, việc tập trung đánh gục danh dự, nhân cách đối thủ là một đ̣n thông dụng
của cơ quan an ninh chuyên chính.
Khi nhiều người Việt Nam yêu dân
chủ hy vọng vào một trung tướng Trần Độ th́ họ mang ông ra kiểm điểm về quan hệ
nam nữ. Khi xă hội Việt Nam có vẻ như bừng tỉnh với những tiếng nói đối kháng
th́ họ trưng dẫn ra những bản kiểm điểm trong nhà tù của những người bị giam cầm
nhằm chứng minh nạn nhân đă quỵ gối, đă phản lại chính ḿnh. Không thể dùng lư
luận để biện minh cho sự tồn tại của ḿnh, họ gắng sức bôi nhọ các gương mặt
phản kháng bằng những t́nh tiết riêng tư. Chỉ hai ba ngày sau khi bắt giữ luật
sư Lê Công Định, họ tung lên các mạng thông tin bút tích và h́nh ảnh nạn nhân
nói lời hối cải, xin tha thứ. Mọi phán đoán về sự khủng bố, ép cung của công an,
hay về sự gục ngă về tinh thần của Lê Công Định cho đến nay vẫn chỉ là cảm giác.
Điều chắc chắn là những phát biểu, bài viết, hành động của ông cho đến trước khi
bị bắt là kết quả, là tinh hoa của một bộ óc trí thức cần thiết cho một xă hội
văn minh. Khi không thể bẻ gẫy những lập luận của ông, nhà cầm quyền Việt Nam
khoái trá đưa ra một Lê Công Định ảm đạm phủ nhận những suy nghĩ và hành vi
trong lúc có thể được coi là tự do của ḿnh. Trước và sau Lê Công Định, cơ quan
an ninh Việt Nam đă và vẫn đang dùng mọi phương kế đàn áp, lừa phỉnh, nhiều khi
giẫm đạp lên luật pháp của chính họ để bắt không biết bao nhiêu trí thức Việt
Nam cúi mặt trước ống kính của công an để đọc lời chối bỏ những hành vi sáng
suốt và đáng quư của ḿnh. Đó là đỉnh cao của sự lăng nhục, triệt hạ nhân cách
nói chung và trí thức nói riêng. Một trong những bằng cớ cơ quan công an đưa ra
để buộc tội các cá nhân và tổ chức đối kháng là „bị tác động và nhận tiền của
nước ngoài“. Các bằng chứng được viện ra hầu hết đều khiên cưỡng và bịa đặt.
Chính quyền và ban lănh đạo Đảng Cộng sản không tin, hoặc là cố t́nh không tin,
nhưng lại muốn bắt cả dân tộc phải tin rằng không c̣n có những con người Việt
Nam, trí thức Việt Nam sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng tư v́ đất nước. Họ muốn
chứng minh rằng đất Việt đă hết những con người v́ nghĩa. Đó là sự phỉ nhổ vào
tinh khí quốc gia.
Trong cuộc „Thập tự chinh“ hủy diệt
nhân cách trí thức – của cả người có học vấn cao lẫn của người dân thường, này,
từ bài học của đàn anh Stasi, chắc chắn cơ quan an ninh Việt Nam cũng đang có
hàng chục, hàng trăm ngh́n „IM“ như giáo sư A, ở một mức độ nào đó, hoặc là đang
phải tàn phá danh dự của ch́nh ḿnh, hoặc là phải „sống hèn“ như lời nhạc sĩ Tô
Hải mới đây trong Hồi kư của một thằng hèn. Rồi cuối cùng, CHDC Đức cũng sụp đổ.
Một chế độ được dựng xây và bảo vệ bằng sự triệt hạ, nhục mạ trí thức chắc chắn
không thể trường tồn. Chế độ đảng trị Việt Nam không thể là ngoại lệ. Vấn đề
quan trọng là thời gian. V́ thời gian cũng có khả năng biến „sống hèn“ thành tập
quán.
08/2009