Video Tài Liệu Audio Tài Liệu Nhạc Tin Tức & Thời Sự B́nh Luận

 

Trần Đăng Khoa và thơ văn bỏ mả

Trần Đăng Khoa và thơ văn bỏ mả  

 

Tưởng Năng Tiến

 

Tôi sinh ra ở Sài G̣n, nơi vẫn được mệnh danh là Ḥn Ngọc Viễn Đông. Chỉ ngặt cái là ngay chỗ tôi chôn nhau cắt rốn (Xóm Chiếu, Khánh Hội) th́ lại không được danh giá hay ngọc ngà ǵ cho lắm. Đây là nơi cư trú của những tay anh chị, những cô gái ăn sương, những đứa trẻ bụi đời, và đám phu phen bốc vác ở kho Năm.

Khánh Hội, rơ ràng, không phải là mảnh đất lư tưởng dành cho văn chương hay học thuật. Chưa có nhà văn, nhà thơ hay một vị trí thức khoa bảng nào chào đời tại chốn này. Lều văn, cḥi thơ, hoặc trí thức (xuông) thôi cũng khỏi có luôn.

Sinh hoạt văn hoá của chúng tôi, bởi thế, chỉ xoay quanh… bàn nhậu. Nơi lúc nào cũng rộn ră tiếng cười, mùi mẫn tiếng ca vọng cổ, và rôm rả tiếng chửi thể. Đ… mẹ, thằng nào nói láo là xe cán chết liền!

Nước Việt, tất nhiên, có nhiều địa phương an lành và nền nă hơn như vậy. Và đây mới chính là chỗ xuất thân của những nghệ sĩ, danh nhân, tài tử… Theo như tường thuật của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn – đọc được trên evan.vietexpress.net, vào ngày 7 tháng 1 năm 2008 – quê hương của thần đồng Trần Đăng Khoa (xem ra) rất có vẻ là một nơi như thế:

“May mắn có vài dịp đi qua xă Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, tôi luôn t́m cớ dừng lại rất lâu để ngắm nh́n những bờ ruộng nhấp nhô, những mái nhà thấp thoáng, những hàng tre lập ḷa trong bóng chiều nhập nhoạng của một miền quê nghèo, mà tự hỏi: Tại sao nơi này có thể sinh ra được một thần đồng thơ nhỉ?”

…………..

“Biết đâu năm 1958, Thượng Đế nhàn rỗi đă tản bộ qua đây và rải chút ít bụi thơ xuống bờ băi sông Kinh Thầy đúng cái ngày bà mẹ hữu duyên trở dạ sinh ra Trần Đăng Khoa.”

Tôi vinh hạnh được sinh cùng thời với vị thi sĩ thần đồng nhưng chưa bao giờ may mắn được sống cùng nơi với ông. Khi c̣n chiến tranh chia cách, chúng tôi kẻ Bắc/người Nam. Lúc đất nước thống nhất, Nam-Bắc ḥa lời ca, tôi ca (nhắm) không nổi nên bỏ chạy…  khiến cho “đôi đứa” phải chia xa.

Dù cách xa quê nhà vạn dặm, thỉnh thoảng tôi vẫn nghe thiên hạ nhắc đến  nhà thơ Trần Đăng Khoa. Tuy thế, thơ ca của ông th́ măi đến hôm gần đây tôi mới có cơ duyên được xem qua – chút đỉnh.

Hôm đó, tôi t́nh cờ gặp Phạm Hoàng ở California – khi nhà báo này đến đây để tham dự cuộc Họp mặt Dân chủ - tổ chức vào ngày 6 tháng 6 năm 2009. Sẵn dịp ông ấy tặng cho mấy số tạp chí Cánh Én,  phát hành từ… thế kỷ trước – như là kỷ niệm của một “thời thương khó,” khi báo chí c̣n phải in ấn (rất) lôi thôi chứ chưa được đưa lên net.

Cánh Én số phát hành vào tháng 12 năm 1999, qua “Câu chuyện bên bàn trà,” có lời lời tâm sự rất ngộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa:

“Vừa rồi tôi có đi Tây Nguyên dự lễ bỏ mả của gia đ́nh ông Y Ngông Niết Đam. Nguời Eđê có một tục lệ rất đặc biệt. Khi nhà có nguời chết, gia đ́nh con cháu hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ, khi có điều kiện họ làm lễ bỏ mả. Đó là bữa tiệc linh đ́nh chia tay vĩnh viễn với nguời chết. Sau đó họ không quan tâm đến ngôi mộ ấy nữa, để linh hồn nguời chết được siêu thoát, không c̣n vướng víu cơi trần. Tôi cũng đă làm xong cái lễ bỏ mả cho thơ ca thời niên thiếu của tôi.”

Bỗng dưng nghe một vị thần đồng tuyên bố “làm lễ bỏ mả cho thơ ca thời niên thiếu” của ông (khiến) tôi đâm hoảng, rồi bùi ngùi… hoá tiếc. Thế là tôi vội vàng t́m đọc những thi phẩm mà Trần Đăng Khoa sáng tác vào lúc ấu thời:

A, Bác Hồ!

Bác Hồ ta đó!

Bác mặc tấm áo ka ki

Bàng bạc sương rừng Pắc Bó

Trán Bác có ngôi sao

Thảo nào Bác đi đêm không lạc Bác ơi, Bác!

(Em gặp Bác Hồ – 1969)

Chú ngồi dặn cháu trong pḥng

Ôi ḷng Chú cũng như ḷng mẹ cha

Tiếng thơ Chú bỗng ngân nga

Hoà cùng tiếng vơng quê nhà mẹ đưa

Đất trời sang đẹp hơn xưa

(Thơ kính tặng Chú Tố Hữu – 1969)

Trần Đăng Khoa quả là một cậu bé có thời, và là một người đàn ông thức thời. Ông ấy “làm lễ bỏ mả cho thơ ca thời niên thiếu” là hợp thời, và phải (giá).

Nhân khi t́m đọc Trần Đăng Khoa, tôi c̣n được biết thêm rằng sự nghiệp văn học của ông ta không chỉ giới hạn trong lănh vực thi ca. Qua một cuộc phỏng vấn, do Lê Thị Thái Hoà thực hiện, đọc được ở Thanh Niên Online vào ngày 30 tháng 4 năm 2008, ông cho biết:

” Tôi nói thật, chưa bao giờ tôi viết có xúc cảm hết. Thời trẻ con cũng thế và sau này cũng vậy. Thấy cần viết là tôi viết. Họ đặt kư tôi viết về người này người kia th́ tôi viết. Thế là có tập Chân dung và Đối thoại đấy. »

Thiệt, nghe mà thấy ham hết sức. Sao thằng chả viết lách khoẻ re và dễ (ợt) vậy cà?

Sau khi thưởng lăm mấy bài thơ “viết không cần cảm xúc” – về các Bác và các Chú đầy quyền lực, trong thế giới tuổi thơ của Trần Đăng Khoa – tưởng cũng nên đọc (qua) loại kư mà ông được “đặt… viết về người này người kia” chút xíu.

Báo Văn Nghệ ( số 44, số ra ngày 3 tháng 11 năm 2007) có bài viết của Trần Đăng Khoa về Nguyên Ngọc, với đoạn kết (nguyên văn) như sau:

“Rồi má chỉ ra ngoài cửa nhà, nơi có bao nhiêu là tài sản của má. Sau vách đất, ngay bên cạnh mảnh sân to chừng hơn cái nong phơi thóc là một vạt ngô đă trổ cờ, mấy luống mía sắp bóc lá và cả một ruộng khoai lang. Gia tài ấy của má cũng đă đủ nuôi Nguyên Ngọc rồi…”

“Má Vinh rót nước râu ngô mời tôi với Nguyên Ngọc. Trên chiếc bàn nước bằng gỗ tạp, sau tấm kính vỡ được ghép lại là la liệt giấy khen, bằng khen đủ các kích cỡ thời kháng chiến. Cái th́ đánh máy, cái th́ viết tay, nét chữ đă ố mờ, chỉ có chữ kư của người chỉ huy chứ không có dấu. Những giấy tờ dă chiến như thế, liệu bây giờ người ta có tin không? Nguyên Ngọc cũng đă viết chứng thực cho gia đ́nh má có công nuôi giấu cán bộ Cách mạng. Mọi văn bản cũng đầy đủ rồi, nhưng cơ quan chính sách vẫn chỉ im lặng. Má Vinh cười móm mém:”

- Thôi, chả cần nữa đâu, Thành à. Ḿnh sống được đến bây giờ là may mắn lắm. C̣n mong ǵ thêm nữa. Mà má cũng già rồi. Chẳng biết chết lúc nào. Má chỉ c̣n lo, là lo cho con thôi…”

“Không phải chỉ có má Vinh, bao nhiêu người dân ở khu căn cứ cách mạng này đều thương yêu và lo lắng cho Nguyên Ngọc. Bởi thế, chắc họ sẽ rất vui khi biết Nhà nước trao tặng Nguyên Ngọc Huân chương Độc lập hạng nh́. Biết đâu, điều ấy sẽ làm cho họ thêm tin yêu cách mạng, như những ngày gian khổ xa xưa…”

Cứ theo như lời của Trần Đăng Khoa th́ cuộc sống ở nông thôn (xem chừng) cũng khoẻ, nông dân th́ (có vẻ) dễ vui,  và (xem ra)  cũng hơi … dễ dụ. Dù nhà cửa đă trưng bầy tá lả “bằng khen đủ các kích cỡ,” và dù tất cả đều giá trị không hơn một tờ giấy lộn, họ vẫn “sẽ rất vui khi biết Nhà nước trao tặng Nguyên Ngọc Huân chương Độc lập hạng Nh́.”

Nói thế (chắc) chưa đă miệng nên Trần Đăng Khoa c̣n tḥng thêm câu nữa: “Biết đâu, điều ấy sẽ làm cho họ thêm tin yêu cách mạng, như những ngày gian khổ xa xưa…” Thiệt là quá đă! Đọc Trần Đăng Khoa sao thấy thanh thản, an vui, và an tâm hết sức.

Thực trạng ở nông thôn, và đời sống của nông dân, theo như tường thuật của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – đọc được trên Vietimes, vào ngày 23 tháng 3 năm 2008 – có phần (hơi) khác:

“Chúng ta đang nói về những cuộc tha hương kiếm ăn của hàng triệu con em những người nông dân. Chúng ta chứng kiến hết chuyện bi thương này đến chuyện bi thương khác của các cô gái lấy chồng ngoại quốc. Chúng ta chứng kiến những cô gái trẻ là con em những người nông dân t́m về thành phố để làm tất cả những ǵ họ có thể làm. Liệu chúng ta có c̣n có khả năng cúi mặt khi biết rằng ở nhiều khu du lịch hay vui chơi giải trí có rất nhiều thôn nữ 17 tuổi đă bán dâm từ 10 đến 20 lần một ngày?”

Trong một cuộc phỏng vấn do Nguyễn Thị Ngọc Hải thực hiện (trên báo Người Đô Thị, số ra tháng 10 năm 2008) nhà báo Vơ Đắc Danh cũng đề cập đến t́nh cảnh phũ phàng tương tự: “Nông thôn nghèo hơn. Xơ xác. Chị thử đi một lần. Ra khỏi đường nhựa là nhà không ra nhà, người không ra người, bần cùng tăm tối.”

C̣n chính nhà văn Nguyên Ngọc – người đưa Trần Đăng Khoa đến thăm má Vinh ở ấp Phái Nhất, thôn Quang Hiện, xă Điện Hoà -  chắc phải ứa nước mắt khi viết về “Đất và nông dân”:

… đến hôm nay nhiều người đă phải nói lên một sự thật đă tới hồi không c̣n có thể quay mặt làm ngơ nữa: nông dân chán ruộng, nông dân chán nông thôn. Nghĩa là về cả hai mặt quan trọng, sống c̣n nhất trong đời sống con người đă khủng hoảng thật quá sâu: về kinh tế, người lao động trên ruộng đồng đă chán cả mảnh đất ngàn đời máu thịt của ḿnh; về văn hóa th́ cái nơi vốn là gốc rễ của văn hóa dân tộc ấy đă chán chường đến mức người ta không c̣n muốn sống ở đấy nữa, mặc dầu bỏ ra đi th́ sẽ là lao vào một cuộc phiêu lưu cũng thật mịt mùng!” (Tia Sáng, số ra ngày 2 tháng 7 năm 2008).

Sự tương phản rơ rệt giữa những cái nh́n (thượng dẫn) khiến tôi buộc phải nghĩ rằng Trần Đăng Khoa không phải là người trung thực. Ông ấy chỉ… viết đại, theo như đơn đặt, thế thôi.

Điều may mắn là chỉ hơn một năm sau, qua một cuộc phỏng vấn khác – đọc được vào hôm 13 tháng 7 năm 2009, do Hồng Thanh Quang thực hiện – Trần Đăng Khoa đă nói khác. Ông không đề cập đến chuyện “viết không cần cảm xúc” hay “viết theo đơn đặt” nữa. Thay vào đó, ông nêu lên“thiên chức của nhà văn” bằng những lời lẽ hết sức trang trọng và cảm động:

“Bởi v́ ở Phương Đông cũng như ở Việt Nam, văn chương đích thực, phải tải Đạo, như cụ Đồ Chiểu nói: Chở bao nhiêu Đạo, thuyền không khẳm. V́ thế, trong con mắt của xă hội, nhà văn là cao quí, là đại diện cho giá trị đạo đức và văn hoá xă hội.”

Tôi chỉ là một thường dân, và là  kẻ xuất thân từ một nơi ô tạp nên không dám lạm bàn đến “thiên chức của một nhà văn.” Tôi cũng không dám kỳ vọng  Trần Đăng Khoa, hoặc bất cứ ai, phải trở thành một người “đại diện cho giá trị đạo đức và văn hoá xă hội.”

Sống ở thời buổi nhiễu nhương đâu phải dễ. Lôi thôi chúng bắt lên TV nhận tội th́ bỏ mẹ. Chỉ mong sao, trong tương lai gần, sẽ có lúc nhận được một tin vui (nhỏ): nhà văn Trần Đăng Khoa cũng đă làm lễ bỏ mả cho những tác phẩm  (viết theo đơn đặt) của ông rồi. Được thế thật qúi hoá lằm thay.


<< trở về đầu trang >>
free counters