Thế Nào Là Dân Chủ
Nguyễn Phúc Bảo Ân
Thế nào là dân chủ?
Người dân Việt đă bao giờ thực sự được sống trong một xă hội dân chủ
thực sự chưa?
Đối với nhiều người,
thuật ngữ dân chủ có thể là quen thuộc, rất quen thuộc, nhưng lại là một
khái niệm đă bị hiểu sai và sử dụng sai, nhất là khi các chế độ chuyên
chế, các chính thể quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của
quần chúng khi tư gắn cho ḿnh cái mác dân chủ. Chính v́ điều này mà dân
chúng ở các quốc gia này, trong đó có cả người Việt nam đă hiểu biết về
khái niệm dân chủ một cách mơ hồ hoặc hoàn toàn sai lệch,. Đối với họ,
dân chủ có nghĩa là nhân dân làm chủ, nhà nước quản lư và đảng lănh đạo,
tức là người dân có quyền làm chủ về mọi hành vi của ḿnh. Thực ra, khi
đề cập đến dân chủ là đề cập đến một khái niệm mà đối tượng của nó là
chính phủ, chứ không phải là người dân. Theo từ nguyên học (etymology)
th́ thuật ngữ dân chủ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp
δημοκρατία
- (dēmokratía)
có nghĩa là “the power to the people”: “Quyền Lực Của Nhân Dân”, thuật
ngữ này được kết hợp bởi căn ngữ
δῆμος
(dêmos)
tức là nhân dân và
κράτος (krátos)
tức là quyền lực hoặc chính phủ.
Theo tự điển triết học
th́ dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong đó quyền lực
tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân- gọi là
dân chủ trực tiếp- hoặc bởi các đại diện do nhân dân bầu ra từ một hệ
thống bầu cử tự do –gọi là dân chủ đại nghị”. Và, theo Tổng Thống
Abraham Lincoln th́ dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và v́ dân”
Như vậy, bầu cử là một
định chế trọng tâm của các chính phủ dân chủ kiểu đại diện, v́ trong một
nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí
của người dân –là người bị quản lư- mà cơ chế căn bản để chuyển sự nhất
trí đó thành quyền lực nhà nước là tổ chức bầu cử tự do và công bằng.
Cũng cần phải hiểu
rằng tất cả các nền dân chủ hiện đại đều tổ chức bầu cử, nhưng không
phải tất cả các cuộc bầu cử đều là dân chủ. Các chế độ độc tài cánh
hữu, các chế độ Marxist và các chế độ độc đảng cũng có tiến hành bầu cử,
nhưng chủ yếu là để mị dân, để hợp pháp hóa cho quyền lực của họ. Trong
các cuộc bầu cử như thế, có thể chỉ có một ứng cử viên, hoặc một nhóm
ứng cử viên, mà không có bất cứ ứng cử viên hoặc nhóm ứng cử viên đối
lập tranh cử và tất nhiên là cử tri không có bất cứ một sự lựa chọn nào
khác. Trong các cuộc bầu cử đó, cũng có thể đề cử nhiều ứng cử viên cho
một vị trí, nhưng chỉ có các ứng cử viên được sự chấp thuận của đảng,
của chính phủ mới được đảm bảo chọn lựa với những thủ thuật hoặc nhưng
hăm dọa đối với các ứng cử viên khác. Một số cuộc bầu cử có thể có sự
chọn lựa thực sự, nhưng chỉ được thực hiện trong nội bộ đảng cầm quyền.
Tất cả các loại bầu cử đó đều không phải là dân chủ, mà chỉ là “đảng cử
dân bầu”. Một số thí dụ điển h́nh trong lịch sử của những nền “dân chủ”
này là
Iraq
dưới thời Saddam
Hussein
và
Philippines thời Ferdinand
Marcos
cũng
như ở tất cả các nước trong khối xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu,
Nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Ḥa
trước đây và tất nhiên
nền “dân chủ” kiểu này hiện vẫn đang tồn tại ở Công Ḥa Nhân Dân Cuba,
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, Cộng Ḥa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, Cộng
Ḥa Dân Chủ Nhân Dân Lào và cả Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện
nay.
Thế nào là
bầu cử dân chủ?
Jeane
Kirkpatrick, học giả và cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc, đă đưa ra
định nghĩa sau: “Các cuộc bầu cử dân chủ không đơn thuần là biểu tượng
cho một thể chế, mà là các hoạt động mang tính chất cạnh tranh, định kỳ,
đầy đủ và xác định, trong đó các nhân vật chủ chốt của chính phủ được
bầu lên do chính những công dân được hưởng quyền tự do phê phán, chỉ
trích chính phủ, công bố các phê phán và đề xuất các lựa chọn khác một
cách công khai”.
Nguyên tắc
trên đây của Kirkpatrick muốn nói lên điều ǵ? Đó là các cuộc bầu cử dân
chủ mang tính cạnh tranh. Các đảng đối lập và các ứng cử viên phải được
hưởng quyền tự do ngôn luận, quyền hội họp và biểu t́nh khi cần thiết để
thể hiện tiếng nói phê phán chính phủ một cách công khai và giới thiệu
các chính sách cũng như các ứng cử viên cho cử tri. Việc đơn giản chấp
nhận phe đối lập tham dự bỏ phiếu kín cũng chưa đủ là dân chủ. Bầu cử mà
trong đó phe đối lập bị cấm sử dụng các phương tiện thông tin phát sóng
(phát thanh, truyền h́nh) hoặc bị sách nhiễu hoặc các tờ báo của họ bị
kiểm duyệt th́ cũng không phải là dân chủ. Đảng cầm quyền có thể được
hưởng lợi thế trong phân chia vị trí trí cầm quyền, nhưng các nguyên tắc
và cách thức bầu cử phải công bằng.
Bầu cử dân
chủ phải mang tính định kỳ. Các thể chế dân chủ không bầu các nhà độc
tài hay các tổng thống với nhiệm kỳ suốt đời. Các công chức được bầu
phải có trách nhiệm với nhân dân và họ phải quay lại gặp các cử tri theo
định kỳ để có được sự nhất trí cho họ tiếp tục giữ quyền hay không.
Nghĩa là các công chức trong thể chế dân chủ phải chấp nhận rủi ro có
thể bị băi miễn khỏi chức vụ. Chỉ có một ngoại lệ đó là vị trí thẩm
phán, để ngăn cách họ khỏi áp lực của công chúng và đảm bảo tính vô tư
trong công việc, các thẩm phán có thể được bầu hoặc chỉ định suốt đời và
chỉ bị phế truất khi mắc các sai lầm nghiêm trọng.
Bầu cử dân
chủ phải mang tính đầy đủ. Việc xác định các công dân và cử tri phải đủ
rộng để bao gồm một tỷ lệ lớn các công dân trưởng thành. Một chính phủ
do một nhóm nhỏ và độc quyền lựa chọn không phải là dân chủ, cho dù cách
thể hiện hoạt động của nó là dân chủ. Một trong những đấu tranh vĩ đại
của dân chủ trong lịch sử là cuộc đấu tranh của những nhóm bị khai trừ
(sắc tộc, tôn giáo, phụ nữ) đ̣i quyền công dân đầy đủ để có quyền bầu cử
và đề cử vào các vị trí lănh đạo. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, khi Hiến pháp được
kư vào năm 1787 th́ chỉ những người da trắng sở hữu tài sản mới có quyền
bầu cử và đề cử. Tiêu chuẩn sở hữu này chấm dứt vào đầu thế kỷ 19 và tới
năm 1920 phụ nữ mới giành được quyền bầu cử. Đối với người Mỹ da đen th́
măi tới phong trào đ̣i quyền dân chủ diễn ra vào những năm 1960 mới
giành được quyền bầu cử đầy đủ tại phía nam Hoa Kỳ. Và cuối cùng, tới
năm 1971 các công dân trẻ tuổi mới được trao quyền bầu cử khi Hoa Kỳ hạ
tuổi bầu cử từ 21 xuống 18 tuổi.
Bầu cử dân
chủ phải mang tính xác định. Bầu cử dân chủ để xác định sự lănh đạo cho
chính phủ. Những vị đại diện cho dân chúng được bầu thông qua h́nh thức
phổ thông để nắm quyền lực mà quyền lực này sẽ bị luật pháp và hiến pháp
chi phối, điều chỉnh. Họ không phải là những nhà lănh đạo bù nh́n hay
tượng trưng.
Sau cùng,
các cuộc bầu cử dân chủ không bị hạn chế trong việc lựa chọn các ứng cử
viên. Các cử tri cũng có thể phải quyết định các vấn đề chính sách một
cách trực tiếp thông qua trưng cầu dân ư và các sáng kiến được đưa vào
bỏ phiếu kín. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, các vấn đề lập pháp có thể phải quyết
định trực tiếp trước các cử tri. Khi có một sáng kiến luật, chính các
công dân có thể thu thập một số lượng chữ kư đủ theo quy định (thường
theo tỷ lệ % số cử tri đăng kư tại bang) và yêu cầu vấn đề đó phải được
đưa ra bỏ phiếu trong lần tiếp theo, ngay cả khi có sự phản đối của cơ
quan lập pháp bang hay thống đốc bang. Như tại bang California, các cử
tri phải xử lư hàng tá các sáng kiến luật mỗi khi tổ chức bầu cử, từ
những vấn đề liên quan tới ô nhiễm môi trường tới vấn đề phí bảo hiểm
ô-tô.
Đạo đức dân
chủ và phe đối lập trung thành
Các nền dân
chủ được phát triển trên cơ sở tính công khai và tính trách nhiệm, với
một điểm đặc biệt quan trọng là hành động bầu cử. Để được tự do bỏ phiếu
và hạn chế tối đa khả năng hăm dọa khi bầu cử, cử tri phải được quyền bỏ
phiếu kín, đồng thời phải bảo vệ được các thùng phiếu và việc kiểm phiếu
phải được tiến hành công khai tối đa có thể, khi đó các công dân mới tin
tưởng rằng kết quả bầu cử là chính xác và chính phủ đă được thành lập do
chính sự nhất trí của họ.
Một trong
những khái niệm khó khăn nhất để một số người chấp nhận, đặc biệt là ở
những quốc gia đang trải qua thời kỳ chuyển giao quyền lực có tính chất
lịch sử bằng vũ lực là khái niệm “phe đối lập trung thành”. Tuy nhiên, ư
tưởng này lại có tính chất sống c̣n cho dân chủ, khái niệm này có nghĩa
là các bên trong một thể chế dân chủ cùng chia sẻ một cam kết chung
hướng tới các giá trị cơ bản của xă hội. Các đối thủ chính trị không cần
thiết phải thương yêu nhau, nhưng họ phải biết chấp nhận nhau và thừa
nhận vai tṛ quan trọng và hợp pháp của nhau. Hơn nữa, các nguyên tắc cơ
bản của xă hội phải khuyến khích sự dung ḥa và sự lễ độ trong các cuộc
tranh luận xă hội.
Khi bầu cử
kết thúc, người thua cuộc chấp nhận sự quyết định của cử tri. Nếu đảng
cầm quyền thua cuộc, sự chuyển giao quyền lực sẽ diễn ra một cách ḥa
b́nh. Cho dù ai thắng cuộc, các bên đều nhất trí hợp tác với nhau để
giải quyết các vấn đề chung của xă hội. Những người thua cuộc, nay trở
thành bên đối lập chính trị, biết rằng họ sẽ không bị mất mạng hay phải
ra ṭa. Ngược lại, bên đối lập, cho dù họ gồm một hay nhiều đảng phái
khác nhau, có thể tiếp tục tham gia vào đời sống xă hội với một nhận
thức là họ đang đóng vai tṛ quan trọng trong một nền dân chủ xứng đáng
với tên gọi như thế. Không phải họ trung thành với các chính sách cụ thể
của chính phủ mà họ trung thành với tính hợp pháp cơ bản của nhà nước và
trung thành với quá tŕnh dân chủ.
Khi tới lần
bầu cử tiếp theo, các đảng đối lập lại có cơ hội để cạnh tranh quyền
lực. Hơn nữa, xă hội đa nguyên, do số người nắm quyền lực trong chính
phủ chỉ có giới hạn, c̣n tạo cơ hội tranh cử cho những người thua cuộc
vào các vị trí quyền lực công cộng khác ngoài chính phủ. Những người
thua cuộc trong bầu cử có thể lựa chọn tiếp tục hoạt động như một đảng
đối lập chính thức, hoặc họ cũng có thể quyết định tham gia vào các hoạt
động chính trị, các tranh luận công cộng thông qua viết sách báo, giảng
dạy hoặc liên kết với các tổ chức tư nhân quan tâm tới các vấn đề chính
sách công. Cuối cùng, bầu cử dân chủ không phải là cuộc chiến đấu một
mất một c̣n mà chỉ là sự cạnh tranh để được phục vụ xă hội.
Trở lại với các nước
cộng sản ở Đông Âu trước đây, cũng như các nước trong phe XHCN hiện nay
để thấy rằng các lănh tụ của họ một khi đă được “bầu” vào các chức vụ
th́ họ sẽ tại vị cho đến măn đời như Lê-nin, Phidel Castro, Mao Trạch
Đông, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh, thậm chí trước khi ĺa đời, họ c̣n
có đặc quyền truyền ngôi báu lại cho con cái, cho thân nhân, và sau khi
đă chết thối thây rồi nhân dân vẫn phải xem họ là những vị “lănh tụ vĩ
đại sống măi trong sự nghiệp của quần chúng”. Điều đáng buồn, đáng tiếc
là không ít người dân đang sống ở các quốc gia này vẫn tin rằng họ đang
được sống, được thụ hưởng một nền dân chủ thực sự trên một đất nước dân
chủ thực sự, chỉ v́ chế độ cộng sản đă quá tinh vi trong các chính sách
tuyên truyền, nhồi sọ, đặc biệt là với sách lược “lộng giả thành chân”.
Một nhầm lẫn khác cũng
khá phổ biến đối với nhiều người là khái niệm tự do và dân chủ, bởi tự
do và dân chủ thường hay được sử dụng thay lẫn nhau nhưng hai
thuật ngữ
này
hoàn toàn
không
đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một tập hợp những tư tưởng và
nguyên tắc về tự do và cũng bao gồm một tập hợp các thông lệ và các thủ
tục đă được đúc kết lại từ quá tŕnh lâu dài, thường không bằng phẳng,
của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa tự do.
Trên cơ sở này chúng ta có thể định rơ được các nguyên tắc cơ bản đă
được thử thách qua thời gian đối với một chính phủ lập hiến, vấn đề nhân
quyền, vấn đề b́nh đẳng trước pháp luật mà bất cứ một xă hội nào được
gọi là dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
Chúng ta coi
những sự thật sau đây là hiển nhiên: mọi con người được sinh ra đều
b́nh đẳng, họ đă được tạo hóa ban cho một số quyền không thể tước bỏ
được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh
phúc. Để bảo đảm cho các quyền đó, các chính phủ được thiết lập nên
với quyền lực chính đáng dựa trên sự nhất trí của những người bị quản lư
(người dân.
Trong những
lời đáng ghi nhớ này của bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson
đă đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân
chủ. Các chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do
cơ bản mà Jefferson đă nêu, mà chính các chính phủ đó được lập ra để bảo
vệ các quyền tự do đó - các quyền mà mọi cá nhân hiển nhiên có do sự tồn
tại của ḿnh.
Theo quan
điểm của các nhà triết học thời đại khai sáng của thế kỷ 17 và 18 th́
các quyền không thể tước bỏ được là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban
cho họ. Các quyền này không bị phá hủy khi xă hội dân sự được thiết lập
và không một xă hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc “chuyển
nhượng” các quyền này.
Các quyền
không thể tước bỏ bao gồm các quyền tự do ngôn luận và thể hiện, tự do
tín ngưỡng và nhận thức, tự do hội họp và quyền được bảo vệ b́nh đẳng
trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ các
quyền mà các công dân có được trong một nền dân chủ. Các xă hội dân chủ
đồng thời thừa nhận các quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng, và
c̣n lập nên các quyền chủ chốt mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải
duy tŕ. V́ các quyền này tồn tại không phụ thuộc vào chính phủ, do đó
chúng không thể bị luật pháp băi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ư muốn
nhất thời của đa số cử tri nào đó. Ví dụ như điều sửa đổi bổ sung đầu
tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ không đưa ra quyền tự do tín ngưỡng hay tự to
báo chí cho dân chúng. Điều sửa đổi bổ sung đó nghiêm cấm Quốc hội thông
qua các luật vi phạm tới tự do ngôn lụân, tự do tín ngưỡng và quyền hội
họp ôn ḥa. Nhà sử học Leonard Levy đă phát biểu: “Các cá nhân có thể tự
do khi chính phủ của họ không tự do”.
Các nội dung
chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con người cần
phải thay đổi tùy theo xă hội, nhưng tất cả các nền dân chủ đều được
giao trọng trách trong việc xây dựng các cấu trúc xă hội lập hiến, lập
pháp để bảo đảm cho các quyền con người đó.
Tự do ngôn
luận và thể hiện là huyết mạch của bất kỳ xă hội dân chủ nào. Tranh
luận, bỏ phiếu, hội họp và phản kháng, thờ phụng và bảo đảm công lư cho
mọi người - tất cả những điều này có được đều dựa trên sự tự do và thông
suốt của ngôn luận và thông tin. Patrick Wilson, người Canađa, sáng lập
ra chương tŕnh truyền h́nh Đấu tranh cho Dân chủ đă nhận xét: “Dân chủ
là trao đổi thông tin: mọi người trao đổi với người khác về các vấn đề
chung của họ và gây dựng nên một số phận chung. Trước khi con người tự
quản được ḿnh th́ họ cần phải được tự do để tự thể hiện ḿnh đă”.
Các công dân
trong thể chế dân chủ được sống với một niềm tin chắc chắn là thông qua
trao đổi cởi mở về các tư tưởng và quan điểm, chân lư và sự thật sẽ được
t́m thấy để chiến thắng sai lầm hay dối trá, đồng thời các quan điểm hay
các tư tưởng khác sẽ được nhận biết giá trị rơ hơn, các vấn đề thỏa hiệp
cũng được xác định rơ ràng và khi đó con đường dẫn tới tiến bộ, phát
triển sẽ được khai thông. Sự cởi mở trong trao đổi càng lớn th́ kết quả
càng tốt đẹp. Nhà b́nh luận người Mỹ F.B. White đă diễn tả điều đó theo
cách sau: “Báo chí ở đất nước tự do của chúng ta được tin cậy và hữu ích
cho mọi người không phải v́ nó có đặc điểm tốt đẹp nào đó mà chính v́ sự
đa dạng rất lớn của nó. Chừng nào càng có nhiều chủ thể, mỗi chủ thể đều
theo đuổi một sự thật riêng của họ th́ chúng ta - những người dân càng
có cơ hội đạt tới chân lư và mọi vấn đề luôn được sáng tỏ. Càng nhiều
[chủ thể] th́ càng tốt”.
Trái hẳn với
các chế độ độc tài, các chính phủ dân chủ không kiểm soát, ra lệnh hay
đánh giá nội dung của bài viết hoặc bài nói chuyện. Thể chế dân chủ dựa
trên các công dân có học vấn và hiểu biết mà khả năng tiếp cận của họ
đối với thông tin càng lớn th́ càng làm cho họ có nhiều khả năng tham
gia đầy đủ hơn vào các hoạt động xă hội. Sự dốt nát sinh ra sự thờ ơ.
Thể chế dân chủ đạt được thịnh vượng dựa trên sức mạnh của các công dân
luôn được tắm trong các ḍng tư tưởng, dữ kiện, ư kiến và sự xét đoán
một cách tự do.
Nhưng chính
phủ nên làm ǵ trong trường hợp các phương tiện thông tin hoặc một số tổ
chức khác lạm dụng quyền tự do ngôn luận để tạo ra các thông tin mà theo
đa số là không đúng sự thật, phản cảm, vô trách nhiệm hoặc đơn giản chỉ
là khó chấp nhận? Nói chung, câu trả lời sẽ là: không làm ǵ cả! Đơn
giản chỉ là: công việc của chính phủ không phải để xử lư những vấn đề
như thế. Nói chung, phương thuốc cho tự do ngôn luận chính là ngôn luận
tự do hơn. Điều này có vẻ nghịch lư, nhưng nhân danh ngôn luận tự do,
thể chế dân chủ đôi khi phải bảo vệ quyền của các cá nhân và các tổ chức
khi họ tự cho rằng các chính sách phi dân chủ đang đàn áp ngôn luận tự
do. Các công dân của xă hội dân chủ bảo vệ các quyền này với một niềm
tin tưởng là sự tranh luận cởi mở cuối cùng sẽ dẫn tới sự thật lớn hơn
và các hành động của dân chúng sẽ khôn ngoan hơn so với khi ngôn luận
hay sự bất đồng bị bóp nghẹt.
Hơn thế nữa,
những người ủng hộ tự do ngôn luận lập luận rằng sự đàn áp ngôn luận tự
do mà ta thấy đối với ai đó hôm nay sẽ có khả năng là mối đe dọa tới
ngôn luận tự do của chính chúng ta vào ngày mai, điều mà cả ta và những
người khác đều cảm thấy không chấp nhận được. Một trong những biện luận
kinh điển cho quan điểm này là của nhà triết học người Anh John Stuart
Mill, ông đă chỉ ra từ năm 1859 trong bài viết “Bàn về Tự do” rằng toàn
dân bị tổn hại khi ngôn luận bị đàn áp. “Nếu dư luận là đúng, họ bị tước
đoạt mất cơ hội chuyển sự nhầm lẫn thành sự thật, nếu dư luận là sai, họ
mất cơ hội để có được nhận thức rơ ràng hơn và mất cơ hội nh́n nhận sự
thật sâu sắc hơn khi được đối chiếu với sai lầm”.
Hệ quả của
tự do ngôn luận là quyền của nhân dân được nhóm họp và đ̣i hỏi một cách
ôn ḥa chính phủ phải lắng nghe những mối bất b́nh của họ. Không có
quyền hội họp, không có quyền được lắng nghe, khi đó tự do ngôn luận
không c̣n giá trị nữa. Do đó, tự do ngôn luận coi như là vô nghĩa nếu
không được gắn bó mật thiết, nếu không nói là không thể tách rời với
quyền hội họp, phản kháng và quyền đ̣i hỏi thay đổi. Các chính phủ dân
chủ có thể quy định một cách hợp pháp về thời gian và địa điểm của các
cuộc tập hợp và tuần hành chính trị để duy tŕ ḥa b́nh, nhưng họ cũng
không thể sử dụng quyền lực để đàn áp sự phản kháng hoặc ngăn cản các
nhóm, các tổ chức phản đối lên tiếng cho công luận nghe rơ.
Tự do tín
ngưỡng, hay nói rộng hơn là tự do về nhận thức có nghĩa là không ai bị
đ̣i hỏi phải tin theo một tôn giáo hoặc một niềm tin nào ngược lại với
mong muốn của chính họ. Hơn nữa, không ai bị trừng phạt hay ngược đăi
bằng bất kỳ h́nh thức nào chỉ v́ họ chọn lựa tôn giáo này chứ không phải
tôn giáo khác, hoặc không chọn lựa một tôn giáo nào cả. Nhà nước dân chủ
công nhận niềm tin tôn giáo của con người là vấn đề hết sức riêng tư.
Theo một
nghĩa liên quan, tự do tôn giáo có nghĩa là không một người nào bị chính
phủ bắt buộc phải chấp nhận một nhà thờ hoặc một tín ngưỡng chính thức
nào cả. Trẻ em không bị bắt buộc phải theo học ở một trường tôn giáo và
không một ai bị đ̣i hỏi phải tham dự các công việc tôn giáo, cầu nguyện
hoặc tham gia vào các hoạt động tôn giáo ngược với ư nguyện của họ. Trải
qua lịch sử và truyền thống lâu đời, rất nhiều các quốc gia dân chủ đă
thiết lập một cách chính thống các nhà thờ hoặc tôn giáo với sự bảo trợ
của nhà nước. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm nhẹ trách nhiệm của các
chính phủ dân chủ trong vai tṛ bảo vệ tự do cho các cá nhân mà tín
ngưỡng của họ khác với tôn giáo được khuyến khích một cách chính thống.
Các thể chế
dân chủ dựa trên nguyên tắc là chính phủ tồn tại để phục vụ nhân dân,
c̣n nhân dân không tồn tại để phục vụ chính phủ. Nói cách khác, nhân dân
là các công dân của nhà nước dân chủ chứ không phải là đối tượng của nhà
nước dân chủ. Khi nhà nước bảo vệ quyền của công dân, th́ đáp lại, công
dân trung thành với nhà nước của họ. Dưới một chế độ độc tài, nhà nước
tồn tại như một thực thể tách rời xă hội, đ̣i hỏi ḷng trung thành và sự
phục vụ từ những người dân của họ mà không có một bổn phận tương xứng
nào đối với dân chúng để đảm bảo có được sự nhất trí của người dân đối
với các hành động của họ.
Chẳng hạn,
khi các công dân trong một xă hội dân chủ đi bầu cử là họ thực thi quyền
và trách nhiệm của họ để nhằm xác định ai sẽ là người thay mặt họ thực
hiện việc quản lư xă hội. Trái lại, trong một nhà nước độc tài, những
hoạt động bầu cử chỉ nhằm hợp pháp hóa sự lựa chọn đă định sẵn của chế
độ. Sự bầu cử trong một xă hội như thế không dính líu ǵ tới quyền cũng
như trách nhiệm của các công dân, mà chỉ là một sự bày tỏ cưỡng bức sự
ủng hộ của công chúng cho chính phủ.
Tương tự,
các công dân trong một xă hội dân chủ được tận hưởng quyền tham dự vào
các tổ chức không phụ thuộc vào chính phủ và được tự do tham gia vào các
hoạt động của xă hội. Đồng thời họ cũng phải chấp nhận nghĩa vụ đi kèm
quyền tham gia đó: Tự t́m hiểu và học hỏi về các vấn đề, biết dung ḥa
khi xử sự với những người có quan điểm trái ngược, và biết thỏa hiệp khi
cần thiết để đạt được thỏa thuận.
Tuy nhiên,
trong một nhà nước độc tài chỉ có rất ít hoặc không có các tổ chức hoặc
các nhóm t́nh nguyện tư nhân. Nếu có, các tổ chức đó không đóng vai tṛ
như các phương tiện để cho các cá nhân để tranh luận về các vấn đề hay
thực hiện các công việc riêng của họ, các tổ chức này chỉ phục vụ như
một cánh tay của nhà nước để bắt các đối tượng của nhà nước phải phục
tùng.
Thực hiện
nghĩa vụ quân sự cho ta một ví dụ khác về sự trái ngược của quyền và
trách nhiệm trong các xă hội dân chủ và phi dân chủ. Cả hai loại xă hội
đó đều yêu cầu các thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự trong thời b́nh.
Trong nhà nước độc tài, sự bắt buộc này được áp đặt một cách đơn phương.
Trong nhà nước dân chủ, thời hạn phục vụ trong quân đội là một nhiệm vụ
mà các công dân phải thực hiện thông qua luật của chính phủ do chính các
công dân đó bầu ra. Trong mọi xă hội, việc thực hiện nghĩa vụ quân sự
thời b́nh có thể không được các cá nhân hoan nghênh. Nhưng người
lính-công dân trong một xă hội dân chủ thực hiện nghĩa vụ đó với một
nhận thức là họ đang đảm nhiệm một bổn phận mà xă hội đó đă tự cam kết
phải thực hiện. Hơn thế nữa, các thành viên trong một xă hội dân chủ có
quyền thực hiện nghĩa vụ đó theo cách tập thể hoặc thay đổi bổn phận đó:
giải trừ nghĩa vụ quân sự bắt buộc và thành lập quân đội tự nguyện như
Hoa Kỳ và một số nước khác đă làm; thay đổi thời hạn phục vụ trong quân
đội như ở Đức; hoặc duy tŕ một đội ngũ nam giới dự bị cho nghĩa vụ quân
sự như một phần cơ bản của quyền công dân ở Thụy Sỹ.
Quyền công
dân trong những ví dụ kể trên dẫn đến một định nghĩa rộng hơn về quyền
và nghĩa vụ, bởi lẽ chúng là hai mặt đối lập của một vấn đề. Việc thực
hiện các quyền của một cá nhân cũng đồng thời là trách nhiệm của họ phải
bảo vệ và nâng cao các quyền đó của chính họ và của người khác. Ngay cả
các công dân trong các thể chế dân chủ đă được thiết lập vững mạnh cũng
thường hiểu sai mối quan hệ đó và thường chỉ chú ư tới lợi ích của quyền
con người trong khi phớt lờ các trách nhiệm, nghĩa vụ. Như nhà chính trị
học Benjamin Barber ghi nhận: “Dân chủ thường được hiểu như là sự thống
trị của số đông và quyền càng được hiểu như sự sở hữu của các cá nhân và
dẫn đến như là sự đối lập tất yếu đối với dân chủ số đông. Nhưng như thế
là hiểu sai cả về quyền lẫn dân chủ”.
Chúng ta
nhận thấy một sự thật chắc chắn là khi các công dân thực hiện các quyền
cơ bản hay quyền không thể tước bỏ được - như tự do ngôn luận, hội họp
và tôn giáo th́ chính các quyền đó sẽ thiết lập nên các giới hạn đối với
mọi chính phủ được xây dựng trên cơ sở dân chủ. Do đó, những quyền cá
nhân chính là bức tường thành ngăn chặn sự lạm dụng của chính phủ hoặc
bất kỳ số đông chính trị nhất thời nào.
Nhưng theo
một nghĩa khác, quyền con người, cũng như các cá nhân con người không
hoạt động một cách cô lập. Quyền không phải là sự sở hữu riêng của cá
nhân mà nó chỉ tồn tại khi nó được thừa nhận bởi các công dân khác của
xă hội. Cử tri, như triết gia người Mỹ Sidney Hook đă diễn tả,là “người
trông coi sau chót đối với sự tự do của chính họ”.. Với quan điểm này
th́ chính phủ dân chủ do dân bầu và có trách nhiệm trước dân không thể
là kẻ đối lập với các quyền cá nhân mà phải là người bảo hộ các quyền
đó. Chính khi nâng cao các quyền lợi của họ mà các công dân trong một
thể chế dân chủ thực hiện các nghĩa vụ và bổn phận dân sự của họ.
Nói rộng ra
th́ các nghĩa vụ này bao gồm cả sự tham gia vào các hoạt động dân chủ để
đảm bảo dân chủ được thực hiện. Ở mức tối thiểu, các công dân nên tự t́m
hiểu, nghiên cứu các vấn đề bức xúc đang diễn ra trong xă hội của họ,
như việc bỏ phiếu bầu một cách sáng suốt cho các vị trí lănh đạo cao
cấp. Việc thực hiện một số nghĩa vụ khác như tham gia đoàn hội thẩm
trong các phiên ṭa dân sự hoặc h́nh sự hầu hết mang tính tự nguyện hoặc
đôi khi tuân theo luật quy định.
Cốt lơi của
hành động dân chủ là sự tham gia của các công dân một cách tích cực và
tự nguyện vào trong đời sống chung của cộng đồng hay quốc gia của họ.
Nếu không duy tŕ được sự tham gia rộng răi này, dân chủ sẽ tàn lụi và
trở thành đặc quyền dành riêng cho một số nhóm và tổ chức. Nhưng với sự
cam kết tích cực của các cá nhân trong toàn xă hội, các thể chế dân chủ
có thể vượt qua các cơn băo chính trị hay kinh tế - vấn đề không thể
tránh khỏi đối với mọi xă hội- mà không phải hy sinh các quyền lợi và sự
tự do mà họ đă tuyên thệ ǵn giữ.
Tham gia
tích cực vào đời sống xă hội thường được hiểu một cách hạn hẹp như là sự
tranh giành các vị trí chính trị. Nhưng sự tham gia của các công dân
trong một xă hội dân chủ mang ư nghĩa rộng lớn hơn rất nhiều việc chỉ
tham gia vào các cuộc tranh cử. Ở các cấp khu vực hoặc thị xă, các công
dân có thể tham gia vào những việc như hoạt động trong các ủy ban trường
học, thành lập các nhóm cộng đồng hoặc kể cả giữ các vị trí lănh đạo ở
địa phương. Ở cấp bang, tỉnh, hoặc quốc gia, các công dân có thể đóng
góp ư kiến của họ bằng cách phát biểu hoặc gửi văn bản tới các cuộc
tranh luận về các vấn đề chung hoặc họ có thể tham gia vào các đảng
chính trị, liên đoàn lao động hoặc các tổ chức t́nh nguyện. Cho dù ở cấp
nào, một nền dân chủ lành mạnh cũng dựa trên sự tham gia liên tục và
công khai của đa số công dân.
Diane
Ravitch đă viết: “Dân chủ là một quá tŕnh, một cách thức sống và làm
việc cùng nhau. Đó là một quá tŕnh luôn phát triển chứ không đứng im.
Nó đ̣i hỏi sự hợp tác, thỏa hiệp và dung ḥa giữa các công dân. Thực
hiện dân chủ là một điều khó khăn chứ không dễ dàng. Tự do đồng nghĩa
với nghĩa vụ chứ không phải được miễn các nghĩa vụ”.
Thể chế dân
chủ là sự biểu hiện các lư tưởng về tự do và tự thể hiện, nhưng nó cũng
là sự thể hiện rơ ràng về bản chất của loài người. Nó không đ̣i hỏi con
người phải có một đạo đức toàn diện, nó chỉ đ̣i hỏi con người phải có
trách nhiệm. Như nhà thần học người Mỹ Reinhold Nieburh đă phát biểu:
“Khả năng của con người đấu tranh cho sự công bằng sẽ tạo nên dân chủ,
nhưng sự tuột dốc của con người dẫn tới bất công sẽ tạo nên đ̣i hỏi tất
yếu của dân chủ”.
Theo nguyên
tắc, việc bảo vệ nhân quyền được chấp nhận rộng răi: được đưa vào hiến
pháp của các nước trên thế giới cũng như được đưa vào trong Hiến chương
Liên Hợp Quốc hoặc trong các hiệp định quốc tế như Thỏa ước Helsinki
(Hội nghị về an ninh và Hợp tác châu Âu - CSCE).
Để bảo vệ
các quyền không thể tước bỏ được, như quyền tự do ngôn luận, các chính
phủ phải biết kiềm chế bằng cách tự giới hạn các hành động của ḿnh.
Trong khi để khuyến khích giáo dục, phát triển y tế và đảm bảo công ăn
việc làm lại đ̣i hỏi chính phủ điều ngược lại: chính phủ phải tích cực
tham gia trong việc thúc đẩy một số chính sách và chương tŕnh xă hội.
Sự chăm sóc đầy đủ về sức khỏe và các cơ hội giáo dục phải là quyền lợi
đương nhiên của mọi trẻ em. Nhưng điều đáng buồn là trên thực tế không
phải như vậy, nhất là ở các nước cộng sản, trong đó có cả Việt nam, đặc
quyền đặc lợi chỉ tập trung chủ yếu trong tay của tầng lớp thống trị và
thân tộc của họ c̣n đa phần người dân, là tầng lớp bị trị vẫn đang bị
hạn chế đến mức thấp nhất những quyền này, ngay cả quyền cơ bản nhất là
được b́nh đẳng trước pháp luật.
Bởi
quyền
b́nh đẳng trước pháp luật hay sự bảo vệ b́nh đẳng của luật như vẫn được
phát biểu, là một yếu tố cơ bản đối với bất kỳ một xă hội công bằng và
dân chủ nào. Bất kể giàu hay nghèo, dân tộc chiếm đa số hay thiểu số tôn
giáo, liên minh chính trị của nhà nước hay phe đối lập, tất cả đều được
hưởng sự bảo hộ b́nh đẳng của pháp luật.
Nhà nước dân
chủ không thể đảm bảo là cuộc sống sẽ đối xử b́nh đẳng với tất cả mọi
người, và do đó nó cũng không có trách nhiệm để thực hiện điều đó. Tuy
nhiên, John P. Frank - chuyên gia về luật hiến pháp đă viết: “Nhà nước
không được áp đặt thêm các điều bất công cho xă hội trong bất kỳ hoàn
cảnh nào, nhà nước cần phải đối xử công bằng và b́nh đẳng với tất cả mọi
người dân của ḿnh”.
Không ai có
quyền cao hơn luật, hơn nữa, luật chính là sáng tạo của con người chứ
không phải là sự áp đặt lên con người. Công dân của thể chế dân chủ cầu
viện tới luật v́ họ hiểu rằng, bằng cách gián tiếp, họ đang cầu viện tới
chính họ với tư cách là những người đă tạo ra luật. Khi luật được xây
dựng bởi chính người dân, những người phải phục tùng luật, th́ khi đó cả
luật và dân chủ sẽ cùng được thực thi.
Frank chỉ ra
rằng tại bất kỳ xă hội nào trong lịch sử th́ những người nắm quyền quản
lư hệ thống tư pháp h́nh sự đều có khả năng dẫn tới sự lạm dụng và dễ có
hành động bất công. Nhân danh nhà nước, các cá nhân có thể bị bỏ tù, tài
sản bị tịch thu, bị hành hạ, bị đi đầy và bị hành quyết mà không có sự
chứng minh hợp pháp, và thường cũng không có một kết tội công khai nào.
Không có một xă hội dân chủ nào chấp nhận những lạm dụng như thế.
Mọi nhà nước
bắt buộc phải có quyền lực để duy tŕ trật tự và xử phạt tội phạm, nhưng
các nguyên tắc và thủ tục để nhà nước thực thi pháp luật bắt buộc phải
được công khai, rơ ràng, không che dấu, không tùy tiện, không được sử
dụng vào mục đích chính trị của nhà nước.
Các yêu cầu
cơ bản để có quyền b́nh đẳng trước pháp luật trong một nền dân chủ là
ǵ?
*Cảnh sát
không có quyền đột nhập và lục soát bất kỳ ngôi nhà của người dân nào
nếu không có lệnh của ṭa án với lư do rơ ràng. Thể chế dân chủ không
cho phép cảnh sát mật gơ cửa nhà dân vào lúc nửa đêm.
*Không
ai bị bắt, giam giữ nếu không có văn bản rơ ràng chỉ ra sự vi phạm.
Những người đó không những phải được biết lư do chính xác của sự kết tội
chống lại họ mà c̣n phải được trả tự do ngay lập tức theo nguyên tắc
lệnh đ́nh quyền nếu ṭa thấy sự kết tội đó không có chứng cứ và sự bắt
giữ là vô lư.
*Không
được kéo dài thời gian giam giữ đối với người bị cho là có tội, họ cần
phải được đưa ra xét xử trước công luận một cách không chậm trễ, được
đối diện và chất vấn trước những người kết tội họ.
*Nhà
chức trách phải chấp nhận thả tự do khi người bị coi là có tội đă đóng
tiền bảo lănh hoặc trả tự do theo một số điều kiện nào đó trong khi chờ
phiên ṭa xét xử, nếu như ít có nguy cơ người đó trốn chạy hay gây thêm
tội ác. Các h́nh phạt độc ác hay bất thường so với truyền thống hay quy
luật của xă hội phải được ngăn cấm.
*Không
ai có thể bị cưỡng ép tự làm chứng chống lại họ. Cần phải nghiêm cấm
tuyệt đối mọi hành động tự kết tội một cách cưỡng bức. Như một hệ quả
tất yếu, cảnh sát không được sử dụng sự hành hạ hoặc sự lạm dụng về thân
thể hay tinh thần đối với người bị t́nh nghi trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Hệ thống luật pháp trong đó ngăn cấm sự thú tội cưỡng bức sẽ làm giảm
ngay lập tức động cơ của cảnh sát sử dụng sự hành hạ, đe dọa hoặc bất kỳ
một h́nh thức lạm dụng nào để có được thông tin, ngay cả ṭa án cũng
không cho phép đưa các thông tin kiểu đó ra trước ṭa xét xử để chứng
minh.
*Mọi người
đều không thể bị kết tội kép: không thể bị kết tội hai lần cho cùng một
tội. Bất kỳ người nào đă được ṭa xử vô tội đều có thể không bao giờ bị
kết tội lại với cùng hành vi đó.
*Để
tránh khả năng lạm dụng quyền của các nhà chức trách nên mọi quy định về
luật hồi tố đều bị băi bỏ. Luật hồi tố là các luật được xây dựng sau khi
đă xảy ra sự kiện để người nào đó có thể bị kết án cho dù điều luật đó
không có hiệu lực vào thời điểm xảy ra sự kiện).
*Bị
đơn có thể có thêm sự bảo hộ để chống lại các cưỡng bức của nhà nước. Ví
dụ tại Hoa Kỳ, người bị kết tội có quyền có luật sư làm đại diện cho họ
trong suốt quá tŕnh tiến hành tố tụng kể cả khi chính bản thân họ không
đủ tiền để chi phí cho sự đại diện hợp pháp đó. Cảnh sát phải thông báo
cho người bị t́nh nghi về các quyền của họ vào lúc bị bắt, kể cả quyền
có luật sư, quyền giữ im lặng (để tránh cưỡng bức nhận tội).
Một thủ đoạn
bất công thường thấy là kết tội các bên đối lập vào tội phản bội tổ
quốc. Do đó, tội phản quốc bắt buộc phải được giới hạn một cách thận
trọng về định nghĩa để nó không bị lợi dụng trở thành vũ khí dập tắt mọi
phê phán, góp ư đối với chính phủ.
Các giới hạn
đó không có nghĩa là nhà nước thiếu quyền lực cần thiết để thực thi luật
pháp và trừng phạt tội phạm. Mà ngược lại, hệ thống tư pháp h́nh sự
trong một xă hội dân chủ sẽ đạt được hiệu quả khi sự quản lư của nó được
chính người dân đánh giá là công bằng và có tác dụng bảo vệ quyền của
mỗi cá nhân cũng như lợi ích chung của xă hội.
Các thẩm
phán có thể được chỉ định hay được bầu cho một nhiệm kỳ giới hạn hoặc vô
hạn. Dù thẩm phán được chọn theo cách nào đi chăng nữa th́ điều cốt yếu
là họ phải độc lập, không bị phụ thuộc vào thế lực chính trị cầm quyền
để đảm bảo tính vô tư trong công việc. Các thẩm phán không thể bị cách
chức chỉ v́ các lư do không quan trọng hay chỉ thuần túy v́ chính trị,
họ chỉ bị cách chức khi phạm các tội nghiêm trọng hoặc có hành động nguy
hiểm và việc kết tội phải được tiến hành theo đúng các thủ tục tố tụng,
chẳng hạn như thông qua quá tŕnh luận tội và đưa ra ṭa xét xử.
Nền tảng
chính xây dựng nên một chính phủ dân chủ là hiến pháp - đó là sự tuyên
bố chính thức các quy định, các giới hạn, các thủ tục và các định chế.
Hiến pháp của một quốc gia là bộ luật tối cao của đất nước đó, và tất cả
mọi công dân, từ thủ tướng tới nông dân đều chịu sự chi phối của nó. Ở
mức độ tối thiểu, hiến pháp -thường được hệ thống hóa thành một văn bản
duy nhất- xây dựng quyền lực cho chính phủ quốc gia, mang lại sự đảm bảo
cho các quyền cơ bản của con người và đưa ra các thủ tục hoạt động cơ
bản cho chính phủ.
Một thực tế đáng buồn
cho dân tộc Việt nam là chỉ có những người dân thấp cổ bé họng mới chịu
sự chi phối của hiến pháp, c̣n các ủy viên trong bộ chính trị, đặc biệt
là chủ tịch nước, tổng bí thư đảng và thủ tướng chính phủ… là nhưng
người có quyền cao hơn luật pháp, là những người không bị hiến pháp chi
phối, đó là lư do tại sao chủ tịch Hồ Chí Minh đă phạm phải một sai lầm
vô cùng nghiêm trọng khi tiến hành đấu tố địa chủ và hành quyết hơn
300,000 nông dân miền bắc trong cải cải ruộng đất từ 1949 đến 1956 mà
vẫn không bị một ṭa án nào xét xử nhưng lại tiếp tục tại vị chức chủ
tịch nước cho đến cuối đời… Và gần đây nhất, cũng bởi cao hơn luật pháp,
bởi không bị hiến pháp chi phối mà thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đă phạm
phải một sai lầm cũng vô cùng nghiêm trọng là bán Tây Nguyên cho Trung
Cộng vào khai thác bô-xít để tàn phá môi trường sinh thái của đất nước,
để công nhân quốc pḥng của Trung Cộng nghênh ngang tàn phá môi trường
văn hóa của dân tộc, mà vẫn không có một ṭa án cấp nào có thể xét xử
hầu có thể ngăn chặn sự sai phạm này để giữ ǵn nguồn sống cho quê hương
và an ninh cho đất nước. Buồn thay!
Thế giới vốn vận động
và thay đổi không ngừng, tất nhiên khái niệm tự do và dân chủ cũng không
ngoài quy luật đó. Trong khuôn khổ một bài viết, v́ thế, người viết
không có tham vọng tŕnh bày một cách đầy đủ và trọn vẹn thế nào là dân
chủ, chỉ mong ước được góp một phần nhỏ giúp người dân Việt hiểu một
cách chính xác hơn về dân chủ bởi khi chúng ta chưa hiểu đích thực cái
mà chúng ta đang t́m kiếm th́ e rằng chúng ta sẽ khó ḷng mà t́m được nó.
Huế, ngày Đông chí năm
2009
Nguyễn Phúc Bảo Ân