Thế Nào Là Dân Chủ
		
		
		Nguyễn Phúc Bảo Ân
		
		
		Thế nào là dân chủ? 
		Người dân Việt đă bao giờ thực sự được sống trong một xă hội dân chủ 
		thực sự chưa?  
		
		Đối với nhiều người, 
		thuật ngữ dân chủ có thể là quen thuộc, rất quen thuộc, nhưng lại là một 
		khái niệm đă bị hiểu sai và sử dụng sai, nhất là khi các chế độ chuyên 
		chế, các chính thể quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của 
		quần chúng khi tư gắn cho ḿnh cái mác dân chủ. Chính v́ điều này mà dân 
		chúng ở các quốc gia này, trong đó có cả người Việt nam đă hiểu biết về 
		khái niệm dân chủ một cách mơ hồ hoặc hoàn toàn sai lệch,. Đối với họ, 
		dân chủ có nghĩa là nhân dân làm chủ, nhà nước quản lư và đảng lănh đạo, 
		tức là người dân có quyền làm chủ về mọi hành vi của ḿnh. Thực ra, khi 
		đề cập đến dân chủ là đề cập đến một khái niệm mà đối tượng của nó là 
		chính phủ, chứ không phải là người dân. Theo từ nguyên học (etymology) 
		th́ thuật ngữ dân chủ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp
		 
		δημοκρατία 
		- (dēmokratía) 
		có nghĩa là “the power to the people”: “Quyền Lực Của Nhân Dân”, thuật 
		ngữ này được kết hợp bởi căn ngữ 
		 
		δῆμος 
		(dêmos) 
		tức là nhân dân và  
		κράτος (krátos) 
		tức là quyền lực hoặc chính phủ.  
		
		Theo tự điển triết học 
		th́ dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong đó quyền lực 
		tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân- gọi là 
		dân chủ trực tiếp- hoặc bởi các đại diện do nhân dân bầu ra từ một hệ 
		thống bầu cử tự do –gọi là dân chủ đại nghị”. Và, theo Tổng Thống 
		Abraham Lincoln th́ dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và v́ dân”
		
		Như vậy, bầu cử là một 
		định chế trọng tâm của các chính phủ dân chủ kiểu đại diện, v́ trong một 
		nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí 
		của người dân –là người bị quản lư- mà cơ chế căn bản để chuyển sự nhất 
		trí đó thành quyền lực nhà nước là tổ chức bầu cử tự do và công bằng.
		
		Cũng cần phải hiểu 
		rằng tất cả các nền dân chủ hiện đại đều tổ chức bầu cử, nhưng không 
		phải tất cả các cuộc bầu cử đều là dân chủ. Các chế độ độc tài cánh 
		hữu, các chế độ Marxist và các chế độ độc đảng cũng có tiến hành bầu cử, 
		nhưng chủ yếu là để mị dân, để hợp pháp hóa cho quyền lực của họ. Trong 
		các cuộc bầu cử như thế, có thể chỉ có một ứng cử viên, hoặc một nhóm 
		ứng cử viên, mà không có bất cứ ứng cử viên hoặc nhóm ứng cử viên đối 
		lập tranh cử và tất nhiên là cử tri không có bất cứ một sự lựa chọn nào 
		khác. Trong các cuộc bầu cử đó, cũng có thể đề cử nhiều ứng cử viên cho 
		một vị trí, nhưng chỉ có các ứng cử viên được sự chấp thuận của đảng, 
		của chính phủ mới được đảm bảo chọn lựa với những thủ thuật hoặc nhưng 
		hăm dọa đối với các ứng cử viên khác. Một số cuộc bầu cử có thể có sự 
		chọn lựa thực sự, nhưng chỉ được thực hiện trong nội bộ đảng cầm quyền. 
		Tất cả các loại bầu cử đó đều không phải là dân chủ, mà chỉ là “đảng cử 
		dân bầu”. Một số thí dụ điển h́nh trong lịch sử của những nền “dân chủ” 
		này là  
		
		
		Iraq
		 
		
		dưới thời Saddam 
		Hussein 
		và   
		
		
		Philippines thời Ferdinand 
		Marcos  
		
		cũng 
		như ở tất cả các nước trong khối xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu, 
		 
		Nước Việt 
		Nam Dân Chủ Cộng Ḥa  
		
		
		trước đây và tất nhiên 
		nền “dân chủ” kiểu này hiện vẫn đang tồn tại ở Công Ḥa Nhân Dân Cuba, 
		Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, Cộng Ḥa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, Cộng 
		Ḥa Dân Chủ Nhân Dân Lào và cả Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện 
		nay.
		
		Thế nào là 
		bầu cử dân chủ?
		
		Jeane 
		Kirkpatrick, học giả và cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc, đă đưa ra 
		định nghĩa sau: “Các cuộc bầu cử dân chủ không đơn thuần là biểu tượng 
		cho một thể chế, mà là các hoạt động mang tính chất cạnh tranh, định kỳ, 
		đầy đủ và xác định, trong đó các nhân vật chủ chốt của chính phủ được 
		bầu lên do chính những công dân được hưởng quyền tự do phê phán, chỉ 
		trích chính phủ, công bố các phê phán và đề xuất các lựa chọn khác một 
		cách công khai”.  
		
		Nguyên tắc 
		trên đây của Kirkpatrick muốn nói lên điều ǵ? Đó là các cuộc bầu cử dân 
		chủ mang tính cạnh tranh. Các đảng đối lập và các ứng cử viên phải được 
		hưởng quyền tự do ngôn luận, quyền hội họp và biểu t́nh khi cần thiết để 
		thể hiện tiếng nói phê phán chính phủ một cách công khai và giới thiệu 
		các chính sách cũng như các ứng cử viên cho cử tri. Việc đơn giản chấp 
		nhận phe đối lập tham dự bỏ phiếu kín cũng chưa đủ là dân chủ. Bầu cử mà 
		trong đó phe đối lập bị cấm sử dụng các phương tiện thông tin phát sóng 
		(phát thanh, truyền h́nh) hoặc bị sách nhiễu hoặc các tờ báo của họ bị 
		kiểm duyệt th́ cũng không phải là dân chủ. Đảng cầm quyền có thể được 
		hưởng lợi thế trong phân chia vị trí trí cầm quyền, nhưng các nguyên tắc 
		và cách thức bầu cử phải công bằng.  
		
		Bầu cử dân 
		chủ phải mang tính định kỳ. Các thể chế dân chủ không bầu các nhà độc 
		tài hay các tổng thống với nhiệm kỳ suốt đời. Các công chức được bầu 
		phải có trách nhiệm với nhân dân và họ phải quay lại gặp các cử tri theo 
		định kỳ để có được sự nhất trí cho họ tiếp tục giữ quyền hay không. 
		Nghĩa là các công chức trong thể chế dân chủ phải chấp nhận rủi ro có 
		thể bị băi miễn khỏi chức vụ. Chỉ có một ngoại lệ đó là vị trí thẩm 
		phán, để ngăn cách họ khỏi áp lực của công chúng và đảm bảo tính vô tư 
		trong công việc, các thẩm phán có thể được bầu hoặc chỉ định suốt đời và 
		chỉ bị phế truất khi mắc các sai lầm nghiêm trọng.
		
		Bầu cử dân 
		chủ phải mang tính đầy đủ. Việc xác định các công dân và cử tri phải đủ 
		rộng để bao gồm một tỷ lệ lớn các công dân trưởng thành. Một chính phủ 
		do một nhóm nhỏ và độc quyền lựa chọn không phải là dân chủ, cho dù cách 
		thể hiện hoạt động của nó là dân chủ. Một trong những đấu tranh vĩ đại 
		của dân chủ trong lịch sử là cuộc đấu tranh của những nhóm bị khai trừ 
		(sắc tộc, tôn giáo, phụ nữ) đ̣i quyền công dân đầy đủ để có quyền bầu cử 
		và đề cử vào các vị trí lănh đạo. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, khi Hiến pháp được 
		kư vào năm 1787 th́ chỉ những người da trắng sở hữu tài sản mới có quyền 
		bầu cử và đề cử. Tiêu chuẩn sở hữu này chấm dứt vào đầu thế kỷ 19 và tới 
		năm 1920 phụ nữ mới giành được quyền bầu cử. Đối với người Mỹ da đen th́ 
		măi tới phong trào đ̣i quyền dân chủ diễn ra vào những năm 1960 mới 
		giành được quyền bầu cử đầy đủ tại phía nam Hoa Kỳ. Và cuối cùng, tới 
		năm 1971 các công dân trẻ tuổi mới được trao quyền bầu cử khi Hoa Kỳ hạ 
		tuổi bầu cử từ 21 xuống 18 tuổi. 
		 
		
		Bầu cử dân 
		chủ phải mang tính xác định. Bầu cử dân chủ để xác định sự lănh đạo cho 
		chính phủ. Những vị đại diện cho dân chúng được bầu thông qua h́nh thức 
		phổ thông để nắm quyền lực mà quyền lực này sẽ bị luật pháp và hiến pháp 
		chi phối, điều chỉnh. Họ không phải là những nhà lănh đạo bù nh́n hay 
		tượng trưng.  
		
		Sau cùng, 
		các cuộc bầu cử dân chủ không bị hạn chế trong việc lựa chọn các ứng cử 
		viên. Các cử tri cũng có thể phải quyết định các vấn đề chính sách một 
		cách trực tiếp thông qua trưng cầu dân ư và các sáng kiến được đưa vào 
		bỏ phiếu kín. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, các vấn đề lập pháp có thể phải quyết 
		định trực tiếp trước các cử tri. Khi có một sáng kiến luật, chính các 
		công dân có thể thu thập một số lượng chữ kư đủ theo quy định (thường 
		theo tỷ lệ % số cử tri đăng kư tại bang) và yêu cầu vấn đề đó phải được 
		đưa ra bỏ phiếu trong lần tiếp theo, ngay cả khi có sự phản đối của cơ 
		quan lập pháp bang hay thống đốc bang. Như tại bang California, các cử 
		tri phải xử lư hàng tá các sáng kiến luật mỗi khi tổ chức bầu cử, từ 
		những vấn đề liên quan tới ô nhiễm môi trường tới vấn đề phí bảo hiểm 
		ô-tô.  
		
		Đạo đức dân 
		chủ và phe đối lập trung thành  
		
		Các nền dân 
		chủ được phát triển trên cơ sở tính công khai và tính trách nhiệm, với 
		một điểm đặc biệt quan trọng là hành động bầu cử. Để được tự do bỏ phiếu 
		và hạn chế tối đa khả năng hăm dọa khi bầu cử, cử tri phải được quyền bỏ 
		phiếu kín, đồng thời phải bảo vệ được các thùng phiếu và việc kiểm phiếu 
		phải được tiến hành công khai tối đa có thể, khi đó các công dân mới tin 
		tưởng rằng kết quả bầu cử là chính xác và chính phủ đă được thành lập do 
		chính sự nhất trí của họ.  
		
		Một trong 
		những khái niệm khó khăn nhất để một số người chấp nhận, đặc biệt là ở 
		những quốc gia đang trải qua thời kỳ chuyển giao quyền lực có tính chất 
		lịch sử bằng vũ lực là khái niệm “phe đối lập trung thành”. Tuy nhiên, ư 
		tưởng này lại có tính chất sống c̣n cho dân chủ, khái niệm này có nghĩa 
		là các bên trong một thể chế dân chủ cùng chia sẻ một cam kết chung 
		hướng tới các giá trị cơ bản của xă hội. Các đối thủ chính trị không cần 
		thiết phải thương yêu nhau, nhưng họ phải biết chấp nhận nhau và thừa 
		nhận vai tṛ quan trọng và hợp pháp của nhau. Hơn nữa, các nguyên tắc cơ 
		bản của xă hội phải khuyến khích sự dung ḥa và sự lễ độ trong các cuộc 
		tranh luận xă hội.  
		
		Khi bầu cử 
		kết thúc, người thua cuộc chấp nhận sự quyết định của cử tri. Nếu đảng 
		cầm quyền thua cuộc, sự chuyển giao quyền lực sẽ diễn ra một cách ḥa 
		b́nh. Cho dù ai thắng cuộc, các bên đều nhất trí hợp tác với nhau để 
		giải quyết các vấn đề chung của xă hội. Những người thua cuộc, nay trở 
		thành bên đối lập chính trị, biết rằng họ sẽ không bị mất mạng hay phải 
		ra ṭa. Ngược lại, bên đối lập, cho dù họ gồm một hay nhiều đảng phái 
		khác nhau, có thể tiếp tục tham gia vào đời sống xă hội với một nhận 
		thức là họ đang đóng vai tṛ quan trọng trong một nền dân chủ xứng đáng 
		với tên gọi như thế. Không phải họ trung thành với các chính sách cụ thể 
		của chính phủ mà họ trung thành với tính hợp pháp cơ bản của nhà nước và 
		trung thành với quá tŕnh dân chủ.  
		
		Khi tới lần 
		bầu cử tiếp theo, các đảng đối lập lại có cơ hội để cạnh tranh quyền 
		lực. Hơn nữa, xă hội đa nguyên, do số người nắm quyền lực trong chính 
		phủ chỉ có giới hạn, c̣n tạo cơ hội tranh cử cho những người thua cuộc 
		vào các vị trí quyền lực công cộng khác ngoài chính phủ. Những người 
		thua cuộc trong bầu cử có thể lựa chọn tiếp tục hoạt động như một đảng 
		đối lập chính thức, hoặc họ cũng có thể quyết định tham gia vào các hoạt 
		động chính trị, các tranh luận công cộng thông qua viết sách báo, giảng 
		dạy hoặc liên kết với các tổ chức tư nhân quan tâm tới các vấn đề chính 
		sách công. Cuối cùng, bầu cử dân chủ không phải là cuộc chiến đấu một 
		mất một c̣n mà chỉ là sự cạnh tranh để được phục vụ xă hội.
		
		Trở lại với các nước 
		cộng sản ở Đông Âu trước đây, cũng như các nước trong phe XHCN hiện nay 
		để thấy rằng các lănh tụ của họ một khi đă được “bầu” vào các chức vụ 
		th́ họ sẽ tại vị cho đến măn đời như Lê-nin, Phidel Castro, Mao Trạch 
		Đông, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh, thậm chí trước khi ĺa đời, họ c̣n 
		có đặc quyền truyền ngôi báu lại cho con cái, cho thân nhân, và sau khi 
		đă chết thối thây rồi nhân dân vẫn phải xem họ là những vị “lănh tụ vĩ 
		đại sống măi trong sự nghiệp của quần chúng”. Điều đáng buồn, đáng tiếc 
		là không ít người dân đang sống ở các quốc gia này vẫn tin rằng họ đang 
		được sống, được thụ hưởng một nền dân chủ thực sự trên một đất nước dân 
		chủ thực sự, chỉ v́ chế độ cộng sản đă quá tinh vi trong các chính sách 
		tuyên truyền, nhồi sọ, đặc biệt là với sách lược “lộng giả thành chân”.
		
		Một nhầm lẫn khác cũng 
		khá phổ biến đối với nhiều người là khái niệm tự do và dân chủ, bởi tự 
		do và dân chủ thường hay được sử dụng thay lẫn nhau nhưng hai 
		 
		thuật ngữ 
		này  
		hoàn toàn 
		
		không 
		đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một tập hợp những tư tưởng và 
		nguyên tắc về tự do và cũng bao gồm một tập hợp các thông lệ và các thủ 
		tục đă được đúc kết lại từ quá tŕnh lâu dài, thường không bằng phẳng, 
		của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa tự do. 
		Trên cơ sở này chúng ta có thể định rơ được các nguyên tắc cơ bản đă 
		được thử thách qua thời gian đối với một chính phủ lập hiến, vấn đề nhân 
		quyền, vấn đề b́nh đẳng trước pháp luật mà bất cứ một xă hội nào được 
		gọi là dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
		
		Chúng ta coi 
		những sự thật sau đây là hiển nhiên: mọi con người được sinh ra đều 
		b́nh đẳng, họ đă được tạo hóa ban cho một số quyền không thể tước bỏ 
		được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh 
		phúc. Để bảo đảm cho các quyền đó, các chính phủ được thiết lập nên 
		với quyền lực chính đáng dựa trên sự nhất trí của những người bị quản lư 
		(người dân.  
		
		Trong những 
		lời đáng ghi nhớ này của bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson 
		đă đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân 
		chủ. Các chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do 
		cơ bản mà Jefferson đă nêu, mà chính các chính phủ đó được lập ra để bảo 
		vệ các quyền tự do đó - các quyền mà mọi cá nhân hiển nhiên có do sự tồn 
		tại của ḿnh.  
		
		Theo quan 
		điểm của các nhà triết học thời đại khai sáng của thế kỷ 17 và 18 th́ 
		các quyền không thể tước bỏ được là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban 
		cho họ. Các quyền này không bị phá hủy khi xă hội dân sự được thiết lập 
		và không một xă hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc “chuyển 
		nhượng” các quyền này.  
		
		Các quyền 
		không thể tước bỏ bao gồm các quyền tự do ngôn luận và thể hiện, tự do 
		tín ngưỡng và nhận thức, tự do hội họp và quyền được bảo vệ b́nh đẳng 
		trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ các 
		quyền mà các công dân có được trong một nền dân chủ. Các xă hội dân chủ 
		đồng thời thừa nhận các quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng, và 
		c̣n lập nên các quyền chủ chốt mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải 
		duy tŕ. V́ các quyền này tồn tại không phụ thuộc vào chính phủ, do đó 
		chúng không thể bị luật pháp băi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ư muốn 
		nhất thời của đa số cử tri nào đó. Ví dụ như điều sửa đổi bổ sung đầu 
		tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ không đưa ra quyền tự do tín ngưỡng hay tự to 
		báo chí cho dân chúng. Điều sửa đổi bổ sung đó nghiêm cấm Quốc hội thông 
		qua các luật vi phạm tới tự do ngôn lụân, tự do tín ngưỡng và quyền hội 
		họp ôn ḥa. Nhà sử học Leonard Levy đă phát biểu: “Các cá nhân có thể tự 
		do khi chính phủ của họ không tự do”. 
 
		
		Các nội dung 
		chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con người cần 
		phải thay đổi tùy theo xă hội, nhưng tất cả các nền dân chủ đều được 
		giao trọng trách trong việc xây dựng các cấu trúc xă hội lập hiến, lập 
		pháp để bảo đảm cho các quyền con người đó. 
		 
		
		Tự do ngôn 
		luận và thể hiện là huyết mạch của bất kỳ xă hội dân chủ nào. Tranh 
		luận, bỏ phiếu, hội họp và phản kháng, thờ phụng và bảo đảm công lư cho 
		mọi người - tất cả những điều này có được đều dựa trên sự tự do và thông 
		suốt của ngôn luận và thông tin. Patrick Wilson, người Canađa, sáng lập 
		ra chương tŕnh truyền h́nh Đấu tranh cho Dân chủ đă nhận xét: “Dân chủ 
		là trao đổi thông tin: mọi người trao đổi với người khác về các vấn đề 
		chung của họ và gây dựng nên một số phận chung. Trước khi con người tự 
		quản được ḿnh th́ họ cần phải được tự do để tự thể hiện ḿnh đă”.
		
		Các công dân 
		trong thể chế dân chủ được sống với một niềm tin chắc chắn là thông qua 
		trao đổi cởi mở về các tư tưởng và quan điểm, chân lư và sự thật sẽ được 
		t́m thấy để chiến thắng sai lầm hay dối trá, đồng thời các quan điểm hay 
		các tư tưởng khác sẽ được nhận biết giá trị rơ hơn, các vấn đề thỏa hiệp 
		cũng được xác định rơ ràng và khi đó con đường dẫn tới tiến bộ, phát 
		triển sẽ được khai thông. Sự cởi mở trong trao đổi càng lớn th́ kết quả 
		càng tốt đẹp. Nhà b́nh luận người Mỹ F.B. White đă diễn tả điều đó theo 
		cách sau: “Báo chí ở đất nước tự do của chúng ta được tin cậy và hữu ích 
		cho mọi người không phải v́ nó có đặc điểm tốt đẹp nào đó mà chính v́ sự 
		đa dạng rất lớn của nó. Chừng nào càng có nhiều chủ thể, mỗi chủ thể đều 
		theo đuổi một sự thật riêng của họ th́ chúng ta - những người dân càng 
		có cơ hội đạt tới chân lư và mọi vấn đề luôn được sáng tỏ. Càng nhiều 
		[chủ thể] th́ càng tốt”. 
 
		
		Trái hẳn với 
		các chế độ độc tài, các chính phủ dân chủ không kiểm soát, ra lệnh hay 
		đánh giá nội dung của bài viết hoặc bài nói chuyện. Thể chế dân chủ dựa 
		trên các công dân có học vấn và hiểu biết mà khả năng tiếp cận của họ 
		đối với thông tin càng lớn th́ càng làm cho họ có nhiều khả năng tham 
		gia đầy đủ hơn vào các hoạt động xă hội. Sự dốt nát sinh ra sự thờ ơ. 
		Thể chế dân chủ đạt được thịnh vượng dựa trên sức mạnh của các công dân 
		luôn được tắm trong các ḍng tư tưởng, dữ kiện, ư kiến và sự xét đoán 
		một cách tự do.  
		
		Nhưng chính 
		phủ nên làm ǵ trong trường hợp các phương tiện thông tin hoặc một số tổ 
		chức khác lạm dụng quyền tự do ngôn luận để tạo ra các thông tin mà theo 
		đa số là không đúng sự thật, phản cảm, vô trách nhiệm hoặc đơn giản chỉ 
		là khó chấp nhận? Nói chung, câu trả lời sẽ là: không làm ǵ cả! Đơn 
		giản chỉ là: công việc của chính phủ không phải để xử lư những vấn đề 
		như thế. Nói chung, phương thuốc cho tự do ngôn luận chính là ngôn luận 
		tự do hơn. Điều này có vẻ nghịch lư, nhưng nhân danh ngôn luận tự do, 
		thể chế dân chủ đôi khi phải bảo vệ quyền của các cá nhân và các tổ chức 
		khi họ tự cho rằng các chính sách phi dân chủ đang đàn áp ngôn luận tự 
		do. Các công dân của xă hội dân chủ bảo vệ các quyền này với một niềm 
		tin tưởng là sự tranh luận cởi mở cuối cùng sẽ dẫn tới sự thật lớn hơn 
		và các hành động của dân chúng sẽ khôn ngoan hơn so với khi ngôn luận 
		hay sự bất đồng bị bóp nghẹt.  
		
		Hơn thế nữa, 
		những người ủng hộ tự do ngôn luận lập luận rằng sự đàn áp ngôn luận tự 
		do mà ta thấy đối với ai đó hôm nay sẽ có khả năng là mối đe dọa tới 
		ngôn luận tự do của chính chúng ta vào ngày mai, điều mà cả ta và những 
		người khác đều cảm thấy không chấp nhận được. Một trong những biện luận 
		kinh điển cho quan điểm này là của nhà triết học người Anh John Stuart 
		Mill, ông đă chỉ ra từ năm 1859 trong bài viết “Bàn về Tự do” rằng toàn 
		dân bị tổn hại khi ngôn luận bị đàn áp. “Nếu dư luận là đúng, họ bị tước 
		đoạt mất cơ hội chuyển sự nhầm lẫn thành sự thật, nếu dư luận là sai, họ 
		mất cơ hội để có được nhận thức rơ ràng hơn và mất cơ hội nh́n nhận sự 
		thật sâu sắc hơn khi được đối chiếu với sai lầm”. 
		 
		
		Hệ quả của 
		tự do ngôn luận là quyền của nhân dân được nhóm họp và đ̣i hỏi một cách 
		ôn ḥa chính phủ phải lắng nghe những mối bất b́nh của họ. Không có 
		quyền hội họp, không có quyền được lắng nghe, khi đó tự do ngôn luận 
		không c̣n giá trị nữa. Do đó, tự do ngôn luận coi như là vô nghĩa nếu 
		không được gắn bó mật thiết, nếu không nói là không thể tách rời với 
		quyền hội họp, phản kháng và quyền đ̣i hỏi thay đổi. Các chính phủ dân 
		chủ có thể quy định một cách hợp pháp về thời gian và địa điểm của các 
		cuộc tập hợp và tuần hành chính trị để duy tŕ ḥa b́nh, nhưng họ cũng 
		không thể sử dụng quyền lực để đàn áp sự phản kháng hoặc ngăn cản các 
		nhóm, các tổ chức phản đối lên tiếng cho công luận nghe rơ. 
		 
		
		Tự do tín 
		ngưỡng, hay nói rộng hơn là tự do về nhận thức có nghĩa là không ai bị 
		đ̣i hỏi phải tin theo một tôn giáo hoặc một niềm tin nào ngược lại với 
		mong muốn của chính họ. Hơn nữa, không ai bị trừng phạt hay ngược đăi 
		bằng bất kỳ h́nh thức nào chỉ v́ họ chọn lựa tôn giáo này chứ không phải 
		tôn giáo khác, hoặc không chọn lựa một tôn giáo nào cả. Nhà nước dân chủ 
		công nhận niềm tin tôn giáo của con người là vấn đề hết sức riêng tư.
		
		Theo một 
		nghĩa liên quan, tự do tôn giáo có nghĩa là không một người nào bị chính 
		phủ bắt buộc phải chấp nhận một nhà thờ hoặc một tín ngưỡng chính thức 
		nào cả. Trẻ em không bị bắt buộc phải theo học ở một trường tôn giáo và 
		không một ai bị đ̣i hỏi phải tham dự các công việc tôn giáo, cầu nguyện 
		hoặc tham gia vào các hoạt động tôn giáo ngược với ư nguyện của họ. Trải 
		qua lịch sử và truyền thống lâu đời, rất nhiều các quốc gia dân chủ đă 
		thiết lập một cách chính thống các nhà thờ hoặc tôn giáo với sự bảo trợ 
		của nhà nước. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm nhẹ trách nhiệm của các 
		chính phủ dân chủ trong vai tṛ bảo vệ tự do cho các cá nhân mà tín 
		ngưỡng của họ khác với tôn giáo được khuyến khích một cách chính thống. 
		 
		
		Các thể chế 
		dân chủ dựa trên nguyên tắc là chính phủ tồn tại để phục vụ nhân dân, 
		c̣n nhân dân không tồn tại để phục vụ chính phủ. Nói cách khác, nhân dân 
		là các công dân của nhà nước dân chủ chứ không phải là đối tượng của nhà 
		nước dân chủ. Khi nhà nước bảo vệ quyền của công dân, th́ đáp lại, công 
		dân trung thành với nhà nước của họ. Dưới một chế độ độc tài, nhà nước 
		tồn tại như một thực thể tách rời xă hội, đ̣i hỏi ḷng trung thành và sự 
		phục vụ từ những người dân của họ mà không có một bổn phận tương xứng 
		nào đối với dân chúng để đảm bảo có được sự nhất trí của người dân đối 
		với các hành động của họ.
		
		Chẳng hạn, 
		khi các công dân trong một xă hội dân chủ đi bầu cử là họ thực thi quyền 
		và trách nhiệm của họ để nhằm xác định ai sẽ là người thay mặt họ thực 
		hiện việc quản lư xă hội. Trái lại, trong một nhà nước độc tài, những 
		hoạt động bầu cử chỉ nhằm hợp pháp hóa sự lựa chọn đă định sẵn của chế 
		độ. Sự bầu cử trong một xă hội như thế không dính líu ǵ tới quyền cũng 
		như trách nhiệm của các công dân, mà chỉ là một sự bày tỏ cưỡng bức sự 
		ủng hộ của công chúng cho chính phủ.  
		
		Tương tự, 
		các công dân trong một xă hội dân chủ được tận hưởng quyền tham dự vào 
		các tổ chức không phụ thuộc vào chính phủ và được tự do tham gia vào các 
		hoạt động của xă hội. Đồng thời họ cũng phải chấp nhận nghĩa vụ đi kèm 
		quyền tham gia đó: Tự t́m hiểu và học hỏi về các vấn đề, biết dung ḥa 
		khi xử sự với những người có quan điểm trái ngược, và biết thỏa hiệp khi 
		cần thiết để đạt được thỏa thuận. 
		 
		
		Tuy nhiên, 
		trong một nhà nước độc tài chỉ có rất ít hoặc không có các tổ chức hoặc 
		các nhóm t́nh nguyện tư nhân. Nếu có, các tổ chức đó không đóng vai tṛ 
		như các phương tiện để cho các cá nhân để tranh luận về các vấn đề hay 
		thực hiện các công việc riêng của họ, các tổ chức này chỉ phục vụ như 
		một cánh tay của nhà nước để bắt các đối tượng của nhà nước phải phục 
		tùng.  
		
		Thực hiện 
		nghĩa vụ quân sự cho ta một ví dụ khác về sự trái ngược của quyền và 
		trách nhiệm trong các xă hội dân chủ và phi dân chủ. Cả hai loại xă hội 
		đó đều yêu cầu các thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự trong thời b́nh. 
		Trong nhà nước độc tài, sự bắt buộc này được áp đặt một cách đơn phương. 
		Trong nhà nước dân chủ, thời hạn phục vụ trong quân đội là một nhiệm vụ 
		mà các công dân phải thực hiện thông qua luật của chính phủ do chính các 
		công dân đó bầu ra. Trong mọi xă hội, việc thực hiện nghĩa vụ quân sự 
		thời b́nh có thể không được các cá nhân hoan nghênh. Nhưng người 
		lính-công dân trong một xă hội dân chủ thực hiện nghĩa vụ đó với một 
		nhận thức là họ đang đảm nhiệm một bổn phận mà xă hội đó đă tự cam kết 
		phải thực hiện. Hơn thế nữa, các thành viên trong một xă hội dân chủ có 
		quyền thực hiện nghĩa vụ đó theo cách tập thể hoặc thay đổi bổn phận đó: 
		giải trừ nghĩa vụ quân sự bắt buộc và thành lập quân đội tự nguyện như 
		Hoa Kỳ và một số nước khác đă làm; thay đổi thời hạn phục vụ trong quân 
		đội như ở Đức; hoặc duy tŕ một đội ngũ nam giới dự bị cho nghĩa vụ quân 
		sự như một phần cơ bản của quyền công dân ở Thụy Sỹ. 
		 
		
		Quyền công 
		dân trong những ví dụ kể trên dẫn đến một định nghĩa rộng hơn về quyền 
		và nghĩa vụ, bởi lẽ chúng là hai mặt đối lập của một vấn đề. Việc thực 
		hiện các quyền của một cá nhân cũng đồng thời là trách nhiệm của họ phải 
		bảo vệ và nâng cao các quyền đó của chính họ và của người khác. Ngay cả 
		các công dân trong các thể chế dân chủ đă được thiết lập vững mạnh cũng 
		thường hiểu sai mối quan hệ đó và thường chỉ chú ư tới lợi ích của quyền 
		con người trong khi phớt lờ các trách nhiệm, nghĩa vụ. Như nhà chính trị 
		học Benjamin Barber ghi nhận: “Dân chủ thường được hiểu như là sự thống 
		trị của số đông và quyền càng được hiểu như sự sở hữu của các cá nhân và 
		dẫn đến như là sự đối lập tất yếu đối với dân chủ số đông. Nhưng như thế 
		là hiểu sai cả về quyền lẫn dân chủ”. 
		 
		
		Chúng ta 
		nhận thấy một sự thật chắc chắn là khi các công dân thực hiện các quyền 
		cơ bản hay quyền không thể tước bỏ được - như tự do ngôn luận, hội họp 
		và tôn giáo th́ chính các quyền đó sẽ thiết lập nên các giới hạn đối với 
		mọi chính phủ được xây dựng trên cơ sở dân chủ. Do đó, những quyền cá 
		nhân chính là bức tường thành ngăn chặn sự lạm dụng của chính phủ hoặc 
		bất kỳ số đông chính trị nhất thời nào. 
		 
		
		Nhưng theo 
		một nghĩa khác, quyền con người, cũng như các cá nhân con người không 
		hoạt động một cách cô lập. Quyền không phải là sự sở hữu riêng của cá 
		nhân mà nó chỉ tồn tại khi nó được thừa nhận bởi các công dân khác của 
		xă hội. Cử tri, như triết gia người Mỹ Sidney Hook đă diễn tả,là “người 
		trông coi sau chót đối với sự tự do của chính họ”.. Với quan điểm này 
		th́ chính phủ dân chủ do dân bầu và có trách nhiệm trước dân không thể 
		là kẻ đối lập với các quyền cá nhân mà phải là người bảo hộ các quyền 
		đó. Chính khi nâng cao các quyền lợi của họ mà các công dân trong một 
		thể chế dân chủ thực hiện các nghĩa vụ và bổn phận dân sự của họ. 
		 
		
		Nói rộng ra 
		th́ các nghĩa vụ này bao gồm cả sự tham gia vào các hoạt động dân chủ để 
		đảm bảo dân chủ được thực hiện. Ở mức tối thiểu, các công dân nên tự t́m 
		hiểu, nghiên cứu các vấn đề bức xúc đang diễn ra trong xă hội của họ, 
		như việc bỏ phiếu bầu một cách sáng suốt cho các vị trí lănh đạo cao 
		cấp. Việc thực hiện một số nghĩa vụ khác như tham gia đoàn hội thẩm 
		trong các phiên ṭa dân sự hoặc h́nh sự hầu hết mang tính tự nguyện hoặc 
		đôi khi tuân theo luật quy định.  
		
		Cốt lơi của 
		hành động dân chủ là sự tham gia của các công dân một cách tích cực và 
		tự nguyện vào trong đời sống chung của cộng đồng hay quốc gia của họ. 
		Nếu không duy tŕ được sự tham gia rộng răi này, dân chủ sẽ tàn lụi và 
		trở thành đặc quyền dành riêng cho một số nhóm và tổ chức. Nhưng với sự 
		cam kết tích cực của các cá nhân trong toàn xă hội, các thể chế dân chủ 
		có thể vượt qua các cơn băo chính trị hay kinh tế - vấn đề không thể 
		tránh khỏi đối với mọi xă hội- mà không phải hy sinh các quyền lợi và sự 
		tự do mà họ đă tuyên thệ ǵn giữ.
		
		Tham gia 
		tích cực vào đời sống xă hội thường được hiểu một cách hạn hẹp như là sự 
		tranh giành các vị trí chính trị. Nhưng sự tham gia của các công dân 
		trong một xă hội dân chủ mang ư nghĩa rộng lớn hơn rất nhiều việc chỉ 
		tham gia vào các cuộc tranh cử. Ở các cấp khu vực hoặc thị xă, các công 
		dân có thể tham gia vào những việc như hoạt động trong các ủy ban trường 
		học, thành lập các nhóm cộng đồng hoặc kể cả giữ các vị trí lănh đạo ở 
		địa phương. Ở cấp bang, tỉnh, hoặc quốc gia, các công dân có thể đóng 
		góp ư kiến của họ bằng cách phát biểu hoặc gửi văn bản tới các cuộc 
		tranh luận về các vấn đề chung hoặc họ có thể tham gia vào các đảng 
		chính trị, liên đoàn lao động hoặc các tổ chức t́nh nguyện. Cho dù ở cấp 
		nào, một nền dân chủ lành mạnh cũng dựa trên sự tham gia liên tục và 
		công khai của đa số công dân.
		
		Diane 
		Ravitch đă viết: “Dân chủ là một quá tŕnh, một cách thức sống và làm 
		việc cùng nhau. Đó là một quá tŕnh luôn phát triển chứ không đứng im. 
		Nó đ̣i hỏi sự hợp tác, thỏa hiệp và dung ḥa giữa các công dân. Thực 
		hiện dân chủ là một điều khó khăn chứ không dễ dàng. Tự do đồng nghĩa 
		với nghĩa vụ chứ không phải được miễn các nghĩa vụ”. 
		 
		
		Thể chế dân 
		chủ là sự biểu hiện các lư tưởng về tự do và tự thể hiện, nhưng nó cũng 
		là sự thể hiện rơ ràng về bản chất của loài người. Nó không đ̣i hỏi con 
		người phải có một đạo đức toàn diện, nó chỉ đ̣i hỏi con người phải có 
		trách nhiệm. Như nhà thần học người Mỹ Reinhold Nieburh đă phát biểu: 
		“Khả năng của con người đấu tranh cho sự công bằng sẽ tạo nên dân chủ, 
		nhưng sự tuột dốc của con người dẫn tới bất công sẽ tạo nên đ̣i hỏi tất 
		yếu của dân chủ”.  
		
		Theo nguyên 
		tắc, việc bảo vệ nhân quyền được chấp nhận rộng răi: được đưa vào hiến 
		pháp của các nước trên thế giới cũng như được đưa vào trong Hiến chương 
		Liên Hợp Quốc hoặc trong các hiệp định quốc tế như Thỏa ước Helsinki 
		(Hội nghị về an ninh và Hợp tác châu Âu - CSCE). 
		 
		
		Để bảo vệ 
		các quyền không thể tước bỏ được, như quyền tự do ngôn luận, các chính 
		phủ phải biết kiềm chế bằng cách tự giới hạn các hành động của ḿnh. 
		Trong khi để khuyến khích giáo dục, phát triển y tế và đảm bảo công ăn 
		việc làm lại đ̣i hỏi chính phủ điều ngược lại: chính phủ phải tích cực 
		tham gia trong việc thúc đẩy một số chính sách và chương tŕnh xă hội. 
		Sự chăm sóc đầy đủ về sức khỏe và các cơ hội giáo dục phải là quyền lợi 
		đương nhiên của mọi trẻ em. Nhưng điều đáng buồn là trên thực tế không 
		phải như vậy, nhất là ở các nước cộng sản, trong đó có cả Việt nam, đặc 
		quyền đặc lợi chỉ tập trung chủ yếu trong tay của tầng lớp thống trị và 
		thân tộc của họ c̣n đa phần người dân, là tầng lớp bị trị vẫn đang bị 
		hạn chế đến mức thấp nhất những quyền này, ngay cả quyền cơ bản nhất là 
		được b́nh đẳng trước pháp luật.
		
		Bởi 
		 
		quyền 
		b́nh đẳng trước pháp luật hay sự bảo vệ b́nh đẳng của luật như vẫn được 
		phát biểu, là một yếu tố cơ bản đối với bất kỳ một xă hội công bằng và 
		dân chủ nào. Bất kể giàu hay nghèo, dân tộc chiếm đa số hay thiểu số tôn 
		giáo, liên minh chính trị của nhà nước hay phe đối lập, tất cả đều được 
		hưởng sự bảo hộ b́nh đẳng của pháp luật. 
		 
		
		Nhà nước dân 
		chủ không thể đảm bảo là cuộc sống sẽ đối xử b́nh đẳng với tất cả mọi 
		người, và do đó nó cũng không có trách nhiệm để thực hiện điều đó. Tuy 
		nhiên, John P. Frank - chuyên gia về luật hiến pháp đă viết: “Nhà nước 
		không được áp đặt thêm các điều bất công cho xă hội trong bất kỳ hoàn 
		cảnh nào, nhà nước cần phải đối xử công bằng và b́nh đẳng với tất cả mọi 
		người dân của ḿnh”.  
		
		Không ai có 
		quyền cao hơn luật, hơn nữa, luật chính là sáng tạo của con người chứ 
		không phải là sự áp đặt lên con người. Công dân của thể chế dân chủ cầu 
		viện tới luật v́ họ hiểu rằng, bằng cách gián tiếp, họ đang cầu viện tới 
		chính họ với tư cách là những người đă tạo ra luật. Khi luật được xây 
		dựng bởi chính người dân, những người phải phục tùng luật, th́ khi đó cả 
		luật và dân chủ sẽ cùng được thực thi. 
		 
		
		Frank chỉ ra 
		rằng tại bất kỳ xă hội nào trong lịch sử th́ những người nắm quyền quản 
		lư hệ thống tư pháp h́nh sự đều có khả năng dẫn tới sự lạm dụng và dễ có 
		hành động bất công. Nhân danh nhà nước, các cá nhân có thể bị bỏ tù, tài 
		sản bị tịch thu, bị hành hạ, bị đi đầy và bị hành quyết mà không có sự 
		chứng minh hợp pháp, và thường cũng không có một kết tội công khai nào. 
		Không có một xă hội dân chủ nào chấp nhận những lạm dụng như thế.
		
		Mọi nhà nước 
		bắt buộc phải có quyền lực để duy tŕ trật tự và xử phạt tội phạm, nhưng 
		các nguyên tắc và thủ tục để nhà nước thực thi pháp luật bắt buộc phải 
		được công khai, rơ ràng, không che dấu, không tùy tiện, không được sử 
		dụng vào mục đích chính trị của nhà nước.
		
		Các yêu cầu 
		cơ bản để có quyền b́nh đẳng trước pháp luật trong một nền dân chủ là 
		ǵ?
		
		*Cảnh sát 
		không có quyền đột nhập và lục soát bất kỳ ngôi nhà của người dân nào 
		nếu không có lệnh của ṭa án với lư do rơ ràng. Thể chế dân chủ không 
		cho phép cảnh sát mật gơ cửa nhà dân vào lúc nửa đêm.
		
		*Không 
		ai bị bắt, giam giữ nếu không có văn bản rơ ràng chỉ ra sự vi phạm. 
		Những người đó không những phải được biết lư do chính xác của sự kết tội 
		chống lại họ mà c̣n phải được trả tự do ngay lập tức theo nguyên tắc 
		lệnh đ́nh quyền nếu ṭa thấy sự kết tội đó không có chứng cứ và sự bắt 
		giữ là vô lư.
		
		*Không 
		được kéo dài thời gian giam giữ đối với người bị cho là có tội, họ cần 
		phải được đưa ra xét xử trước công luận một cách không chậm trễ, được 
		đối diện và chất vấn trước những người kết tội họ.
		
		*Nhà 
		chức trách phải chấp nhận thả tự do khi người bị coi là có tội đă đóng 
		tiền bảo lănh hoặc trả tự do theo một số điều kiện nào đó trong khi chờ 
		phiên ṭa xét xử, nếu như ít có nguy cơ người đó trốn chạy hay gây thêm 
		tội ác. Các h́nh phạt độc ác hay bất thường so với truyền thống hay quy 
		luật của xă hội phải được ngăn cấm.
		
		*Không 
		ai có thể bị cưỡng ép tự làm chứng chống lại họ. Cần phải nghiêm cấm 
		tuyệt đối mọi hành động tự kết tội một cách cưỡng bức. Như một hệ quả 
		tất yếu, cảnh sát không được sử dụng sự hành hạ hoặc sự lạm dụng về thân 
		thể hay tinh thần đối với người bị t́nh nghi trong bất kỳ hoàn cảnh nào. 
		Hệ thống luật pháp trong đó ngăn cấm sự thú tội cưỡng bức sẽ làm giảm 
		ngay lập tức động cơ của cảnh sát sử dụng sự hành hạ, đe dọa hoặc bất kỳ 
		một h́nh thức lạm dụng nào để có được thông tin, ngay cả ṭa án cũng 
		không cho phép đưa các thông tin kiểu đó ra trước ṭa xét xử để chứng 
		minh.
		
		*Mọi người 
		đều không thể bị kết tội kép: không thể bị kết tội hai lần cho cùng một 
		tội. Bất kỳ người nào đă được ṭa xử vô tội đều có thể không bao giờ bị 
		kết tội lại với cùng hành vi đó.
		
		*Để 
		tránh khả năng lạm dụng quyền của các nhà chức trách nên mọi quy định về 
		luật hồi tố đều bị băi bỏ. Luật hồi tố là các luật được xây dựng sau khi 
		đă xảy ra sự kiện để người nào đó có thể bị kết án cho dù điều luật đó 
		không có hiệu lực vào thời điểm xảy ra sự kiện).
		
		*Bị 
		đơn có thể có thêm sự bảo hộ để chống lại các cưỡng bức của nhà nước. Ví 
		dụ tại Hoa Kỳ, người bị kết tội có quyền có luật sư làm đại diện cho họ 
		trong suốt quá tŕnh tiến hành tố tụng kể cả khi chính bản thân họ không 
		đủ tiền để chi phí cho sự đại diện hợp pháp đó. Cảnh sát phải thông báo 
		cho người bị t́nh nghi về các quyền của họ vào lúc bị bắt, kể cả quyền 
		có luật sư, quyền giữ im lặng (để tránh cưỡng bức nhận tội). 
		 
		
		Một thủ đoạn 
		bất công thường thấy là kết tội các bên đối lập vào tội phản bội tổ 
		quốc. Do đó, tội phản quốc bắt buộc phải được giới hạn một cách thận 
		trọng về định nghĩa để nó không bị lợi dụng trở thành vũ khí dập tắt mọi 
		phê phán, góp ư đối với chính phủ. 
 
		
		Các giới hạn 
		đó không có nghĩa là nhà nước thiếu quyền lực cần thiết để thực thi luật 
		pháp và trừng phạt tội phạm. Mà ngược lại, hệ thống tư pháp h́nh sự 
		trong một xă hội dân chủ sẽ đạt được hiệu quả khi sự quản lư của nó được 
		chính người dân đánh giá là công bằng và có tác dụng bảo vệ quyền của 
		mỗi cá nhân cũng như lợi ích chung của xă hội. 
		 
		
		Các thẩm 
		phán có thể được chỉ định hay được bầu cho một nhiệm kỳ giới hạn hoặc vô 
		hạn. Dù thẩm phán được chọn theo cách nào đi chăng nữa th́ điều cốt yếu 
		là họ phải độc lập, không bị phụ thuộc vào thế lực chính trị cầm quyền 
		để đảm bảo tính vô tư trong công việc. Các thẩm phán không thể bị cách 
		chức chỉ v́ các lư do không quan trọng hay chỉ thuần túy v́ chính trị, 
		họ chỉ bị cách chức khi phạm các tội nghiêm trọng hoặc có hành động nguy 
		hiểm và việc kết tội phải được tiến hành theo đúng các thủ tục tố tụng, 
		chẳng hạn như thông qua quá tŕnh luận tội và đưa ra ṭa xét xử. 
		 
		
		Nền tảng 
		chính xây dựng nên một chính phủ dân chủ là hiến pháp - đó là sự tuyên 
		bố chính thức các quy định, các giới hạn, các thủ tục và các định chế. 
		Hiến pháp của một quốc gia là bộ luật tối cao của đất nước đó, và tất cả 
		mọi công dân, từ thủ tướng tới nông dân đều chịu sự chi phối của nó. Ở 
		mức độ tối thiểu, hiến pháp -thường được hệ thống hóa thành một văn bản 
		duy nhất- xây dựng quyền lực cho chính phủ quốc gia, mang lại sự đảm bảo 
		cho các quyền cơ bản của con người và đưa ra các thủ tục hoạt động cơ 
		bản cho chính phủ.  
		
		Một thực tế đáng buồn 
		cho dân tộc Việt nam là chỉ có những người dân thấp cổ bé họng mới chịu 
		sự chi phối của hiến pháp, c̣n các ủy viên trong bộ chính trị, đặc biệt 
		là chủ tịch nước, tổng bí thư đảng và thủ tướng chính phủ… là nhưng 
		người có quyền cao hơn luật pháp, là những người không bị hiến pháp chi 
		phối, đó là lư do tại sao chủ tịch Hồ Chí Minh đă phạm phải một sai lầm 
		vô cùng nghiêm trọng khi tiến hành đấu tố địa chủ và hành quyết hơn 
		300,000 nông dân miền bắc trong cải cải ruộng đất từ 1949 đến 1956 mà 
		vẫn không bị một ṭa án nào xét xử  nhưng lại tiếp tục tại vị chức chủ 
		tịch nước cho đến cuối đời… Và gần đây nhất, cũng bởi cao hơn luật pháp, 
		bởi không bị hiến pháp chi phối mà thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đă phạm 
		phải một sai lầm cũng vô cùng nghiêm trọng là bán Tây Nguyên cho Trung 
		Cộng vào khai thác bô-xít để tàn phá môi trường sinh thái của đất nước, 
		để công nhân quốc pḥng của Trung Cộng nghênh ngang tàn phá môi trường 
		văn hóa của dân tộc, mà vẫn không có một ṭa án cấp nào có thể xét xử 
		hầu có thể ngăn chặn sự sai phạm này để giữ ǵn nguồn sống cho quê hương 
		và an ninh cho đất nước. Buồn thay!
		
		Thế giới vốn vận động 
		và thay đổi không ngừng, tất nhiên khái niệm tự do và dân chủ cũng không 
		ngoài quy luật đó. Trong khuôn khổ một bài viết, v́ thế, người viết 
		không có tham vọng tŕnh bày một cách đầy đủ và trọn vẹn thế nào là dân 
		chủ, chỉ mong ước được góp một phần nhỏ giúp người dân Việt hiểu một 
		cách chính xác hơn về dân chủ bởi khi chúng ta chưa hiểu đích thực cái 
		mà chúng ta đang t́m kiếm th́ e rằng chúng ta sẽ khó ḷng mà t́m được nó.
		
		
		Huế, ngày Đông chí năm 
		2009
		
		Nguyễn Phúc Bảo Ân