LỄ TẠ ƠN THANKSGIVING
Nguyễn Quư Đại
Hơn
bốn trăm năm trước vùng Bắc Mỹ là nơi mà những người cùng khổ khắp năm Châu
đến t́m vàng, hy vọng thoát khỏi những khó khăn về kinh tế hay chạy trốn v́
lư do tôn giáo. Miền đất hứa của những người lao động nhọc nhằn, đầy dẫy
những hiểm nguy, bất công, bóc lột, kỳ thị… Họ phải chiến đấu để bảo vệ sự
sống c̣n và vượt qua nhiều khó khăn để thành lập Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, một
quốc gia độc lập, dân chủ và giàu mạnh nhất thế giới. Hàng năm Canada và Hoa
Kỳ có lễ tạ ơn Thanksgiving để nhớ lại nguồn gốc tổ tiên.
Tạ ơn là truyền thống của mỗi dân tộc, từ thời xa xưa người ta tin các vị thần linh đă làm cho mùa màng được tươi tốt, gia súc sinh sản nhiều đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Dân tộc Việt Nam ở vùng nông thôn cũng thường tổ chức ngày hội tế lễ Kỳ Yên, cúng Thần Hoàng, đầu vụ mùa gặt có cúng cơm lúa mới...“lạy trời mưa xuống lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày“.
Các đời Vua có tục tế lễ Nam Giao để tạ ơn trời đất, nhờ mưa thuận gió ḥa đem lại no cơm, ấm áo cho toàn dân. Thanksgiving là ngày tạ ơn Trời vừa tạ ơn Đời, ơn Người. Tục ngữ, ca dao VN nói lên ḷng biết ơn người:
-Ơn
ai một chút chớ quên
-Một miếng khi đói bằng một gói khi no
-Uống nước, nhớ nguồn
-Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
-Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng..
Năm 1879 Quốc Hội Canada chọn ngày 06 tháng 11 làm Thanksgiving. Tới 1957 Canada căn cứ vào lịch sử ấn định ngày Thứ Hai thứ nh́ của tháng 10 là ngày lễ Thanksgiving.[1] Người Mỹ nghỉ lễ vào thứ Năm cuối của tháng 11 để họp mặt đại gia đ́nh, quây quần trong bữa tiệc Lễ Tạ Ơn .
Nguồn gốc lễ Tạ ơn gắn liền với các lễ hội ngày mùa được tổ chức ở Âu Châu từ hai ngàn năm trước. Theo tài liệu th́ những người Âu Châu di cư đầu tiên tại Bắc Mỹ được tổ chức ở Newfoundland và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578. Một lễ hội khác được tổ chức vào ngày 4.12.1619 khi 38 người khai hoang từ giáo khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia và làm lễ tạ ơn. Trước đó, cũng có một buổi tiệc Tạ ơn tổ chức bởi Francisco Vásquez de Coronado cùng với nhóm người da đỏ Teya, ngày 23.5.1541 tại Texas ăn mừng việc họ t́m ra lương thực. Một sự kiện tương tự xảy ra một phần tư thế kỷ sau vào ngày 8.9.1565 tại St. Augustine, Florida khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất liền, ông và những người trên thuyền đă tổ chức một bữa tiệc Tạ ơn có gà Tây nướng trộn đậu que, bí đỏ với người bản xứ.
Ngày
16 Tháng 9 năm 1620 tàu buồm Mayflower[2]
khởi hành từ Plymouth với 101
người Anh di cư do thuyền trưởng Christopher Jones (1570-†1622) cùng với
thuỷ thủ đoàn 34 người đàn ông, 31 trẻ em. Trong đoàn có 35
người đă bị vua Jacques đệ nhất
đuổi ra khỏi xứ. Họ đặt tên là nhóm Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim
Fathers hay Pères Pèlerins) theo đạo Tin Lành cải cách ly khai / Puritan
separatists đă rời Anh quốc sống ở Leyden Ḥa Lan, thuê tàu để
vượt Đại Tây Đương t́m vùng đất hứa.
Thời gian đó có băo mùa thu, tàu buồm có đầy đủ ánh sáng, pḥng chứa hàng
hóa dài 9,15 m. Nơi trú ẩn dành cho hành khách vào ban đêm và lúc biển động
thời tiết xấu, trần
rất
thấp, người lớn không thể đứng. Thời
tiết tốt hành khách ở trên boong tàu và
nấu ăn với
chảo than nhỏ được để
trong hộp cát. Cuộc hành tŕnh lênh đênh 65 ngày dài trên biển
qua 2750 hải lư,
Mayflower đă traỉ qua nhiều
cơn băo nặng, thành tàu bị vỡ nước tràn vô tàu khiến mọi người
sợ hăi, hành khách phải
ở dưới hầm tàu ói mửa, say sóngMột
hành khách và một thủy thủ chết v́ bệnh,
bà Elizabeth Hopkins sinh con trai đặt tên là Oceanus
Lúc
đầu họ muốn đến Jamestown, Virgina nơi đă có người di dân từ trước, nhưng
tàu Mayflower bị băo giạt lên phía Bắc và đến Cape Cod Bay ngày 21.11.1620
là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts). Họ
xuống tàu qùy gối tạ ơn Thiên Chúa, nhưng
trên vùng đất cằn cỗi này bắt đầu giá lạnh và tuyết rơi.
Dưới sự lănh đạo của
Capt Miles Standish họ phải tiếp tục thực hiện những
cuộc thám sát để
t́m đến
vùng đất mà trên đó họ có thể trồng trọt, sinh sống.
Ngày 15 Tháng 12 'Mayflower'
đến Plymouth Rock. Trong suốt mùa đông hành
khách vẫn ở trên Mayflower. bị bệnh viêm phổi, bệnh lao, rất
nhiều người
chết v́ bệnh truyền nhiễm, chỉ 53 người c̣n sống. Trước hoàn
cảnh khốn cùng, như một phép lạ họ gặp thổ dân da Đỏ láng giềng
(Narranganset và Wampanoag) đă
cho họ bí rợ, thịt gà, giúp họ sống qua mùa đông, họ
tự xây dựng những ngôi lều vào mùa xuân. May
mắn thay, họ đă gặp
thổ dân Squanto/Tisquanto một
người tốt bụng nói tiếng Anh, hết ḷng
giúp đỡ họ làm thế nào để
săn thú rừng,
bắt cá ở sông và chỉ
cách trồng ngô, gieo hạt giống do chính ông mang lại. Trong mùa thu, những
người di dân thu hoạch
được thực phẩm.
Nhóm dân di cư Pilgrim mở tiệc ăn mừng, tạ ơn Thượng Đế
"uống
nước nhớ nguồn" với người bản xứ (thổ dân da
Đỏ) đă giúp họ những ngày đầu khó khăn trên đất Mỹ. Từ đó trở đi
Thanksgiving thành một tập quán của Hoa Kỳ. Thanksgiving mang ư nghĩa
đặc biệt là một truyền thống từ những nhà lập quốc cho đến các người định cư
lập nghiệp trên đất nước này. Thanksgiving vừa bày tỏ tinh thần tín ngưỡng,
cảm tạ Thượng Đế, vừa thể hiện tinh thần hợp tác giữa các dân tộc chung sống
ḥa b́nh.
Tổng
thống Washington George (1732-†1799) chọn ngày 26.11.1789.
Thời
Nam Bắc phân tranh các tiểu bang miền Bắc chọn ngày lễ Thanksgiving riêng.
Năm 1830 bà Sarah Josepha Buell Hale
(1788-†1879)
là nhà văn tác giả của cuốn "Mary Had a Little Lamb." Bà viết
trên Boston Ladies’ Magazine và Godey’s Lady’s Book và đi vận động khắp các
tiểu bang để có chung một ngày lễ trọng đại nầy. Măi cho đến năm 1863 Tổng
thống Abraham Lincoln (1809-†1865) thống nhất chọn ngày thứ Năm cuối của
tháng 11 làm lễ thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân đầu tiên đă
dựng nên nước Mỹ. Đến đời T.T. Frank Delano Roosevelt năm 1940 đă biểu quyết
ngày thứ Năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 chung cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ cho
đến ngày nay. Mọi người được nghỉ bốn ngày cuối tuần vào ngày thứ Năm và thứ
Sáu của tuần đó.
Thanksgiving thể hiện truyền thống sinh hoạt của Pilgrims các cư dân đầu tiên trên đất Mỹ, người lớn, trẻ con mặc y phục kiểu Pilgrim trong lễ hội hay diễn hành. Ngoá ra c̣n có các h́nh thức khác xuất xứ từ những cổ tục lâu đời hơn của các dân tộc về lễ hội ngày mùa như cornucopia, chiếc mỏ h́nh cái sừng cong tràn đầy trái cây, rau quả, một biểu trưng đặc biệt về Thanksgiving. Những h́nh ảnh đẹp trang trí trong dịp lễ cũng là trái củ, hoa lá, bông lúa ḿ..
Tiệc
tùng thường có gà Tây quay vàng, bí rợ (thức ăn chính mà người da Đỏ đă mang
tới cho di dân) với những thứ rau như đậu que, khoai lang, bắp, nấu nướng
theo lối cổ truyền, rau xà lách và bánh nhân bí ngô hoặc nhân hạt pecan và
mứt dâu cranberry loại bánh cổ truyền đặc thù của Mỹ là bánh nhân bí đỏ và
bánh nhân hạt pecan.
Người di cư Pilgrim khởi đầu của những cuộc hải hành nối tiếp đến vùng đất mới bao la, trù phú với nhiều hứa hẹn cho một tương lai rực rỡ …Năm 1630 có thêm 17 tàu chở người di dân đến với 'Thế giới mới/ Neuen Welt'. Trong 250 năm sau các thuyền buồm tiếp tục vượt Đại Tây Dương, đó là những cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử thế giới. Đến cuối Thế kỷ 19 có khoảng 11.000.000 người đă đến đất Mỹ. Nay dân số của Hiệp Chủ Quốc Hoa Kỳ hơn 300 triệu người.
Sau biến cố ngày 30.4.1975 người VN phải từ bỏ quê hương giống như những người di dân đầu tiên đến nước Mỹ. Trong những thập niên qua hơn 1.267510 người Việt cùng đón mừng Thanksgiving trọng đại nầy, tạ ơn Thượng Đế đă ban cho đời sống hội nhập tốt đẹp sung trúc trên đất nước tự do dân chủ, phú cường ….
Tài liệu
The Mayflower and the Passengers (Caleb H. Johnson)
The History of thanksgiving & h́nh trên Internet
[1] Pons Collins dictionary of the Enlish Language
[2] Theo tài liệu hăng tàu 'Mayflower' năm 1588 đă tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại Armada Tây Ban Nha. Các loại tàu có kích thước tương tự và h́nh dạng của một Galleon. Một Dreimastschiff với một lâu đài cao, khoảng 180 tấn, chiều dài 28m, chiều rộng 8m (90 'x 24'), sâu 3,5 đến 4m, vũ khí trang bị 10 khẩu súng, hải hành đoàn 40 người tàu có hai buồm vuông trên cột buồm mui và cột chính. Các 'Mayflower' thương măi sử dụng trong việc vận chuyển rượu vang từ vùng Địa Trung Hải đến Anh, vải và lông thú đi đến nước Pháp. Năm 1620 một chiếc tàu "Mayflower chở một nhóm ly khai tôn giáo Anh. Năm 1607-1608 đă bỏ chạy sang sống lưu vong tại Ḥa Lan. Những người nầy được gọi là Pilgrims fathers không trở về Anh, họ muốn di cư đến một vùng đất mới