Tháng 4, 1865 - Tháng 4, 1975
Phan Quang Tuệ & Đỗ Thái Nhiên
1
Lúc
bấy giờ là đêm ngày 8 tháng 4 năm
1865, Đại tướng Robert Lee, thống
lănh quân đội miền Nam, cùng Ban
Tham Mưu ngừng chân đặt bản doanh bộ
chỉ huy trong một cánh rừng gần Toà
Thị Xă Appomattox, thuộc tiểu bang
Virginia. Sáu ngày liên tiếp trước
đó đạo quân miền Nam đă đi không
ngừng nghỉ tiến về phía Tây hướng về
dăy núi Blue Ridge, nơi tướng Lee
từng tuyên bố ông có thể cầm cự
chiến đấu ít nhất là 20 năm. Nhưng
đêm nay khi tướng Lee và Bộ Tham Mưu
mệt mỏi của ông dừng quân tại
Appomattox th́ đạo quân miền Nam
đang bị quân đội miền Bắc bao vây,
lương thực cạn, hy vọng tiếp tế
không có, hy vọng tăng viện cũng
không. Xa xa tiếng đại bác xé màn
đêm dội về... Tất cả hy vọng của
tướng Lee lúc này chỉ c̣n đặt vào
một vị tướng trẻ gan dạ, John
Gordon. Vị tướng này sáng sớm hôm
sau sẽ tiến quân chọc thủng pḥng
tuyến bao vây của quân đội miền Bắc.
Cách đó không xa, viên sĩ quan phụ
tá của tướng Grant, thống lănh quân
đội miển Bắc, bước vào pḥng riêng
của tướng Grant để đánh thức ông
dậy. Người sĩ quan hầu cận vội mang
đến tướng Grant một tách cà phê nóng
hổi. Tách cà phê dẫu có giúp nhẹ đi
cơn nhức đầu nhưng không làm giảm
bớt mối căng thẳng lo âu của tướng
Grant. Sau cùng tướng Grant kéo ghế
ngồi, và khởi sự thảo bức thư trả
lời thư mới nhận được từ tướng
Robert Lee. “Tôi rất muốn hoà”,
tướng Grant viết, “và mong muốn
kết thúc cuộc chiến mà không phải
tổn thất thêm một nhân mạng nào nữa.
Nhưng cuộc hội kiến do Đại Tướng đề
nghị vào 10 giờ sáng hôm nay không
có một lợi ích nào cụ thể và tôi
không có thẩm quyền quyết định hoà
hay chiến.” Nhưng bức thư của
tướng Grant chưa kịp đến tay tướng
Lee, tiếng súng đă lại bắt đầu nổ.
5 giờ sáng, sương mù c̣n bao phủ
rặng đồi bên kia Appomattox. Loạt
đạn đầu tiên xé màn sương, đánh thức
sáng chủ nhật 9/Apr/1865, tiếp theo
là tiếng thét tiến quân của quân đội
miền nam. Từng đợt tấn công của
tướng Gordon đă đánh bật tuyến pḥng
thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm
nhiều cỗ súng đại bác, đánh bạt hai
bên mở rộng đường tiến quân, và ào
ạt tiến lên đồi. Nhưng từ phiá bên
kia đồi, quân miền Nam đă đụng phải
một bức tường dày đặc, kéo dài hơn 2
dặm, cuả hai đơn vị bộ binh quân đội
miền Bắc. Và ép từ phiá sau là hai
đơn vị bộ binh khác của quân miền
Bắc tiến lên. Quân miền Nam bị ép
vào giữa, tiến không được, lui cũng
không xong, và “chém vè” cũng không
được.
Chỉ trong ṿng 3 tiếng đồng hồ sau,
tướng Lee được tin khấp báo của
tướng Gordon “Quân sĩ của tôi đă
chiến đấu hết ḿnh. Tŕnh Đại Tướng
tôi không làm ǵ hơn được nữa!”.
Lập tức tướng Lee triệu tập Ban Tham
Mưu thâu hẹp để quyết định hoà hay
chiến. Tướng Lee nói với các tướng
bao quanh: “Giờ đây tôi chẳng
c̣n làm ǵ hơn là đến tŕnh diện và
đầu hàng trước tướng Grant”.
Nơi được chọn để nghị hoà là một căn
nhà nhỏ mái ngói thuộc Appomattox,
một thị xă hẻo lánh nằm vào phiá Nam
tiểu bang Virginia. Có độ chừng 20
căn phố, lèo tèo vài cửa hàng nhỏ,
một lữ quán và toà thị xă. Khi mặt
trời leo lên cao là lúc tướng Lee đă
đến điểm hẹn, ông bước theo sự hướng
dẫn của vị sĩ quan tuỳ viên và một
sĩ quan tham mưu thuộc Bộ Tham Mưu
của Tướng Grant. Tướng Lee, uy nghi
trong bộ binh phục đại lễ, hông đeo
trường kiếm, ngồi xuống cạnh một
chiếc bàn gỗ nhỏ. Giờ đây ông đă có
mặt ngay trong ḷng đất đối phương.
Vào khoảng nửa tiếng sau, tiếng giày
nện trên sàn gỗ và tướng Grant bước
vào. Khác hẳn với tướng Lee, tướng
Grant không đeo kiếm, không mặc quân
phục, quần và đôi ủng lấm đầy bùn.
Theo lời yêu cầu của tướng Lee,
tướng Grant đích thân thảo bản văn
kiện chính thức đầu hàng của quân
đội liên hiệp miền Nam và sau đó tự
tay trao cho tướng Lee xem lại.
Chậm răi, từ tốn, tướng Lee rút cặp
kiếng đeo mắt, lấy khăn lau kỹ
lưỡng, đeo kính lên và chăm chú đọc.
“….Vũ khí, đại bác và các tài
sản công phải được liệt kê, sắp xếp
và giao nộp cho một viên sĩ quan do
tôi chỉ định. Những vũ khí này sẽ
không gồm có vũ khí cá nhân của các
sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang
của họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ
quan và binh sĩ sẽ được phép trở về
nguyên quán, và sẽ không bị quấy
nhiễu bởi các cơ quan cầm quyền
chừng nào họ tôn trọng lệnh đầu hàng
và tuân theo luật lệ địa phương nơi
họ cư ngụ.”
Lần đầu tiên trong buổi hội kiến,
gương mặt của tướng Lee tươi hẳn.
Như vậy có nghĩa là sĩ quan và binh
sĩ dưới quyền của ông sẽ không bị
giam giữ như tù binh chiến tranh. Có
nghĩa là họ sẽ không bị đem ra bêu
riếu diễn hành hạ nhục trên các
đường phố. Có nghĩa là họ sẽ không
bị mang ra toà truy tố về tội phản
loạn.
Tướng Lee nói, “Thưa Đại Tướng,
những điều kiện đầu hàng thế này sẽ
có ảnh hưởng rất tốt với quân đội
của tôi.” Và tướng Lee nói
tiếp, “Nhưng thưa ngài, trong
quân đội miền Nam cuả tôi, ngay cả
binh sĩ khi gia nhập cũng mang theo
ngựa của họ vào quân đội.”
Tướng Grant nói ông sẽ không thay
đổi ǵ trong văn kiện đầu hàng,
nhưng sẽ ra khẩu lệnh cho phép mọi
binh sĩ miền Nam được phép mang ngưạ
và lừa về quê quán để sử dụng trong
việc trồng trọt ở các nông trại.
|
Trận đánh quyết định tại Five Forks (Tháng Tư 1865) |
Tướng Lee c̣n thêm một lời yêu cầu
nữa. Ông tŕnh bày cho tướng Grant
biết ông c̣n giam giữ hơn một ngàn
tù binh quân đội miền Bắc nhưng
không có lương thực cung cấp cho họ
và ngay chính quân đội của ông cũng
không c̣n lương thực. Không ngập
ngừng, tướng Grant đề nghị sẽ ra
lệnh xuất kho cấp ngay khẩu phần cho
hơn 25,000 quân sĩ của quân đội liên
hiệp miền Nam.
Tướng Grant hỏi, “Như vậy, đủ
chưa?”
“Thưa, quá đủ, quá đủ, thưa đại
tướng.” Tướng Lee trả lời.
Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay
các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của
tướng Grant, bắt tay tướng Grant,
nghiêng ḿnh chào tất cả mọi người
có mặt và bước ra khỏi pḥng họp.
Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu
đă đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà,
nơi đôi bên nghị hoà. Khi ngựa tướng
Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai
vị tướng quân chạm nhau trong giây
phút, họ đồng ngả nón chào nhau.
Trên bao lơn xung quanh tướng Grant
và suốt trong sân trước căn nhà lịch
sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều
đưa tay chào kính vị tướng bại trận
quân đội liên hiệp miền Nam.
Tin đồn đầu hàng của tướng Lee tràn
lan mau chóng như thuốc súng. Khắp
nơi binh sĩ miền Bắc reo mừng. Họ
liệng lên không trung mũ nón, giày,
bao đạn, áo hay bất cứ vật ǵ có thể
ném tung lên được. Họ ôm nhau, hôn
nhau. Súng ống các loại, kể cả đại
bác bắt đầu nổ. Thế nhưng tướng
Grant nhanh chóng ra lệnh ngưng ngay
tức khắc những biểu lộ nỗi vui mừng
của binh sĩ miền Bắc. “Rồi sẽ có
ngày mừng chiến thắng”, tướng
Grant giải thích, “Nhưng không
phải là ngày hôm nay. Quân đội miền
Nam đă đầu hàng. Chúng ta không được
phép reo mừng trên chiến bại của họ”.
Điều quan trọng với tướng Grant là
phải làm sao để thắng trận, đồng
thời cũng phải ǵn giữ cho bằng được
sự toàn vẹn t́nh cảm giữa những
người cùng trong cộng đồng dân tộc
Hoa Kỳ.
4:30 chiều ngày 9 tháng 4, 1865, Bộ
Trưởng Bộ Chiến Tranh tại Hoa Thịnh
Đốn nhận được một điện văn ngắn ngủi
của tướng Grant, “Tướng Lee đă
buông súng đầu hàng quân đội miền
Nam theo những điều kiện do tôi ấn
định.”
Cách đó không bao xa, tướng Lee cỡi
ngưạ trở về bản doanh của ḿnh. Dọc
hai bên đường, binh sĩ miền Nam
nghiêm chào vị tướng lănh mà họ tôn
sùng. Nhiều người bật khóc, phủ phục
bên đường. Tướng Lee cũng không cầm
được nước mắt. Về đến đại bản doanh,
trước mặt sĩ quan và binh sĩ đứng
chờ, tướng Lee hướng về họ và nói: ”Tôi
đă cố gắng làm tất cả những ǵ có
thể làm được. Và nay ḷng tôi nặng
chĩu và không thể nói ǵ hơn”.
Bước đi vài bước, ông dừng lại và
thêm: “Các anh em hăy trở về quê
quán. Và nếu các ngươi sống được như
những công dân tốt như các anh em đă
từng chiến đầu như các chiến sĩ th́
các ngươi sẽ thành công rồi. Và tôi
sẽ luôn luôn hănh diện v́ các anh em.”
Và tướng Lee biến ḿnh vào trong lều
vải của ḿnh.
Điều kiện đầu hàng được hai tướng
Lee và Grant kư kết tại Appomattox
ngày 9 tháng 4, 1865 th́ 3 ngày sau,
ngày 12 tháng 4 mới là ngày quân
liên hiệp miền Nam chính thức buông
súng đầu hàng.
Hai đạo quân dàn đôi bên con đường
chạy theo phiá Đông rừng Appomattox.
Chỉ huy cánh quân miền Bắc và điều
khiển buổi lễ là tướng Chamberlain,
nguyên là một giáo sư đại học, Huy
Chương Danh Dự, hai lần bị thương
trên chiến trường.
Chỉ huy 28,000 sĩ quan và binh sĩ
liên hiệp miền Nam là tướng Gordon,
một trong những cận tướng can trường
của Đại tướng Lee, 4 lần bị thương
tại mặt trận, một lần bị trúng đạn
xuyên qua mặt.
Tướng Chamberlain đă ghi lại trong
hồi kư cuả ḿnh: ” Từng đoàn,
từng đoàn, họ tiến bước theo nhịp
quân hành, ép chặt vào nhau giống
như một gịng người đội vương miện
màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và
hiệu kỳ. Đây là những người mà gian
lao, đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử
thần không bẻ cong được quyết tâm
của họ. Họ đứng thẳng hàng trước mặt
đoàn quân chúng tôi, một đoàn quân
tơi tả, xương xẩu, nhưng hiên ngang,
mắt sáng ngời chiến thắng, họ là
những h́nh ảnh sống phản ảnh mối
liên hệ thắm thiết chỉ có thể có
giữa những đồng đội trên chiến
trường”.
Không hề dự định trước, cũng như
không hề được chuẩn y trước, tướng
Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh,
“Bồng súng chào!” cho quân đội miền
Bắc. Một tiếng kèn lệnh vang lên, và
lập tức toàn thể đoàn quân miền Bắc
bồng súng lên vai, tiếng báng súng
rập khuôn vang lên.
Phiá đối diện, tướng Gordon thúc nhẹ
con tuấn mă khụy hai chân trước
xuống, người và ngựa cùng cúi đầu,
gươm tuốt trần chúc mũi trong một
dáng đ́ệu hùng vĩ tuyệt vời. Cùng
lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua
bồng súng nghiêm chào. Họ chào những
“anh hùng bại trận”, họ bày tỏ sự
kính trọng của những người Hoa Kỳ
đối với những người Hoa Kỳ.
Và phiá hàng quân miền Bắc tiếp tục
giữ đúng thế nghiêm. Không có thêm
một tiếng kèn. Không có một tiếng
trống. Không có một tiếng hô chiến
thắng. Không có một tiếng nói. Không
cả một tiếng thầm th́. Mà chỉ c̣n là
một hàng quân im phăng phắc. Mọi
nhịp thở như ngừng lại.
Buổi lễ đầu hàng kéo dài 7 tiếng
đồng hồ. Gần 28,000 người, trên
100,000 tấn vũ khí, đạn dược, quân
kỳ, hiệu kỳ lần lượt bỏ xuống. Từng
đơn vị tiến lên, gác súng, tháo bao
đạn, và xếp súng xuống. Kế đến họ
tŕu mến cuốn hay xếp quân kỳ, hiệu
kỳ, lắm cái tơi tả và lắm cái nhuộm
máu đă khô, sau cùng họ khẽ đặt
những lá cờ kia xuống mặt đất…
2
Bây giờ, xin tạm gọi ngày 09 tháng
04 năm 1865 tại Mỹ là
tháng 04/1865, và
30/04/1975 tại Việt Nam là
tháng 04/1975.
Một số người cho rằng Mỹ là quê
hương của “Cow Boy”. Mỹ là
xă hội sống theo phương châm “Bắn
nhanh th́ sống, bắn chậm th́ chết”.
Mỹ là nơi “mắt đổi mắt, răng đổi
răng”. Tại sao giữa những tin đồn
hung hiểm như vậy, người Mỹ lại có
được tháng 04/1865 tuyệt vời như thế
kia? Tuyệt vời bởi lẽ sau nhiều năm
quần thảo với nhau trên núi xương,
sông máu, người Mỹ đă nhanh chóng
làm hoà với nhau, lấy t́nh tự dân
tộc làm gốc. Tuyệt vời bởi lẽ biến
cố Tháng 04/1865 đă nêu bật t́nh cảm
rằng cả người thắng lẩn kẻ bại đều
thiết tha và chân thành tôn kính lẩn
nhau. Tuyệt đối không có cảnh “nhảy
múa trên đau khổ của kẻ bại”. Người
đích thực là kẻ chiến thắng trong
04/1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ.
Mang tháng 04/1865 đặt cạnh tháng
04/1975, mọi người, kể cả những
người khác biệt chính kiến, đều có
thể dễ dàng nhận ra những khác biệt
lớn lao sau đây:
- Chiến bai trong 04/1865 là chiến
bại thật. Chiến bại trong 04/1975 là
chiến bại biểu kiến (thấy vậy mà
không phải vậy). Chiến bại trong
04/1975 là chiến bại của một quân
đội bị “Đồng Minh” đâm sau lưng.
- Sau 04/1865, quân Bắc Mỹ không hề
trả thù quân Nam Mỹ. Tất cả h́nh
thức ăn mừng chiến thắng đều bị ngăn
cấm. Chẳng những không bị ngược đăi,
quân Nam Mỹ c̣n được Bắc quân trao
tặng hơn hai mươi lăm ngàn 25000
phần ăn như một lời chúc thượng lộ
b́nh an trên con đường trở về quê
hương gốc. Sau 04/1975, CSVN ra lệnh
mang ra chợ xử bắn những quân cán
chính nào của VNCH mà Hà Nội gán cho
danh hiệu “ác ôn”. Mặt khác, tất cả
thương bệnh binh của VNCH lập tức bị
đuổi ra khỏi toàn bộ hệ thống quân y
viện của Miền Nam Việt Nam. Đó là lư
do giải thích tại sao những ngày đầu
tháng 05/1975 vô số thương binh
VNCH, kể cả những thương binh vết
thương c̣n mới nguyên, lê lết khắp
phố chợ làng quê…
- Không một người lính nào trong
quân đội Nam Mỹ bị bắt giam như
những tù binh. Ngược lại, tại Việt
Nam 04/1975, CSVN bắt giam nhiều
trăm ngàn quân nhân từ tướng đến
binh (an ninh t́nh báo) của VNCH.
Hành động bắt giam này được thực
hiện bằng lời kêu gọi mang theo mười
ngày lương thực nhằm tạo cho “nạn
nhân” hiểu lầm là họ chỉ đi “học tập
cải tạo” mười ngày. Trong thực tế 10
ngày có nghĩa là một hai thập niên
tù khổ sai.
|
Khi mùa dứt chiến chinh trên quê hương tôi (Tháng Tư 1975) |
- Tháng 04/1865 quân Bắc Mỹ chỉ tịch
thu vũ khí cộng đồng, họ cho phép
quan,quân miền Nam giữ lấy ngựa và
vũ khí cá nhân như những tài sản
riêng. Tháng 04/1975 nhà cửa, xe cộ
của sĩ quan cao cấp của VNCH bị tịch
thu, vợ con của quân nhân các cấp bị
mất việc làm, bị đuổi đi kinh tế mới.
Đặc biệt, không chỉ riêng gia đ́nh
quân cán chính VNCH mà ngay cả người
dân bị goi là “dân vùng ngụy” cũng
bị CSVN đánh đ̣n rất cẩn thận: đánh
tư sản mại bản, đánh công thương kỹ
nghệ gia, đánh tiểu thương, đánh văn
nghệ sĩ, đánh tu sĩ các tôn giáo.
Nói chung, tháng 04/1975 là ngày ghi
dấu toàn bộ xă hội miền Nam Việt Nam
biến thành địa ngục trần gian.
Cùng là CON NGƯỜI, tai sao người Mỹ
đối xử với người Mỹ khác hẳn CSVN
đối xử với người Việt Nam? Phải
chăng văn hoá Mỹ khác với văn hoá
Cộng Sản? Đúng rồi, văn hoá CS hoàn
toàn phản lại văn hoá của loài người.
Nhóm chữ “văn hoá CS” chỉ là kiểu
dùng chữ tạm thời, giúp cho sự diễn
đạt được nhanh chóng. Văn hoá là sự
thăng hoa của văn minh, là cao diểm
của văn minh NGƯỜI. Xuất phát từ
tiền đề triết học duy vật( kim chỉ
nam của đấu tranh giai cấp), trong
tim óc của môn đồ Cộng Sản không có
chỗ dành cho Con Người. Thoạt tiên
Karl Marx dạy người CS hăy nhóm lên
ngọn lửa đấu tranh giai cấp để thống
tri xă hội. Thế nhưng trong thực tế
ư niệm giai cấp rất mơ hồ. Ghét ai
th́ gọi người đó là phú nông, địa
chủ. Thương ai thi goi người đó là
“tư sản dân tộc”. Mặt khác, theo đà
phát triển của văn minh loài người,
triết học Marx đă hiện nguyên h́nh
là một quái tượng tư tưởng vô cùng
to lớn . Từ đó, người Cộng Sản, đặc
biệt là CSVN, hoàn toàn mất hướng
suy nghĩ. Tuy nhiên, trong cuộc đời
mất hướng kia, thói quen đấu tranh
giai cấp đă hằn sâu trên tim óc của
người CS ba phương châm sống gọi là
“ba ác” mà người CS cho là cực kỳ
khôn ngoan:
(1). Ác một là: Sống tức là đấu
tranh chống những người chung quanh
(kể cả đồng chí) để vươn ḿnh lên,
để cai trị mọi người, để tước đoạt
tài sản của người khác càng nhiều
càng tốt.
(2). Ác hai là: Sẵn sàng thực hiện
bất kỳ điều ác nào, kể cả giết cá
nhân hay tập thể người, nhằm hoàn
tất cho bằng được mục tiêu số (1)
(3). Ác ba là: Phương châm (1) và
(2) phải được dấu tuyệt đối kín.
Sống để bụng, chết mang theo. Nhằm
tăng cường cho công việc dấu kín
kia, người CS phải ḷe bịp người đời
bằng cách thường xuyên đề cao Trời
Phật, t́nh Người, t́nh yêu tổ quốc,
yêu nhân loại.
Muốn t́m ra lư do tại sao có sự khác
biệt lớn lao giữa tháng 04/1865 và
04/1975 chúng ta hăy căn cứ vào “ba
ác” kể trên để theo dơi hành động
của đảng CSVN từ 1954 đến ngày nay,
2008.
1955 và các năm kế tiếp, CSVN nhân
danh giai cấp bần cố nông đánh các
mặt trận: Cải cách ruộng đất, Nhân
Văn Giai Phẩm, vụ án xét lại chống
đảng… Mục đích: cướp tài sản của
quần chúng nhân dân và củng cố quyền
thống trị của đảng.
1968 CSVN nhân danh giai cấp vô sản
tàn sát nhiều vạn đồng bào cố đô
Huế. Mục đích: khủng bố quần chúng
Huế để cưởng bách Huế phải tuân phục
Hà Nội.
1975, tháng 04, CSVN vẫn nhân danh
giai cấp vô sản một mặt tống giam
hàng trăm ngàn quân nhân và nhiều
thành phần quần chúng khác nhau, mặt
khác đánh tư sản, công thương gia ,
cưởng đoạt tài nguyên quốc gia, biến
tài nguyên này thành tài sản riêng
của đảng CS, xuất cảng thuyền nhân,
phụ nữ, trẻ em, công nhân lao động…
Tất cả những việc làm kia chỉ v́ mục
đích cướp tài sản của toàn dân và
củng cố quyền thống trị.
1985 đến 2008, kinh tế quốc doanh
của CS bắt buộc phải đầu hàng kinh
tế thị trường, giai cấp tư bản đỏ ra
đời ngay càng đông, càng giàu có một
cách bất lương. CSVN bắt đầu đổi
giọng, không c̣n nhắc đến giai cấp
vô sản nữa, mặc dầu giai cấp nay
ngày càng ph́nh to. CSVN công khai
phục vụ Trung Quốc, phục vụ doanh
nhân quốc tế. CSVN không ngần ngại
thẳng tay đàn áp sinh hoạt tôn giáo,
những tổ chức yêu chuộng tự do dân
chủ, công nhân, dân oan, thanh niên
sinh viên biểu t́nh chống Trung Quôc
xâm lược, chống Olympic Trung Quốc….
Quá tŕnh hoạt động của CSVN trong
các thập niên qua để lộ ra rằng CSVN
cai trị đất nước dưới nhiều lớp áo
khác nhau: bần cố nông, vô sản, tư
bản đỏ, người bạn thân thiết của
doanh gia ngoại quốc, kẻ tôi tớ
trung thành của quân xâm lược Trung
Quốc…Trong nhiều lớp áo khác nhau
kia CSVN bao giờ cũng “đề cao” t́nh
người, t́nh tổ quốc, tính nhân loại.
Hẳn nhiên những đề cao như vậy đều
là những đề cao gian dối, những đề
cao nằm trong kế hoạch thực hiện “ba
ác” của
người-CS-biến-thái-sau-khi-chủ-nghĩa-Marx-
thất-bại. Nói đúng hơn, sau thất bại
của Marx, con người Cộng Sản trở
thành con người Mafia. Thế rồi, đảng
CSVN với bản chất Mafia đă “Mafia
hoá” xă hội Việt Nam qua ba cội
nguồn sau đây:
1) Quan hệ giữa nhà
cầm quyền CSVN với quần chúng Việt
Nam là quan hệ giữa cá lớn với cá
bé, giữa động vật khỏe với động vật
yếu. Lâu dần, do ảnh hưởng cách ứng
xử của nhà cầm quyền, người dân quay
ra đối xử với nhau theo luật mạnh
được, yếu thua. Luật này là luật
hàng đầu của xă hội Mafia.
2) Nhà cầm quyền
CSVN ra lệnh cho báo chí, truyền
thanh, truyền h́nh và các phương
tiện truyền thông khác phải truyền
thông theo kiểu cắt đầu, cắt đuôi,
bóp méo sự thực. Bằng lề thói truyền
thông kia nhà cầm quyền đă dạy dỗ và
đào tao người dân thành những kẻ ăn
gian nói dối. Ngay thẳng là khờ
khạo, gian manh là khôn ngoan. Không
gian dối, không phải là Mafia.
3) Biết rơ thế giới
kinh tởm bộ mặt Mafia, CSVN thường
xuyên nỗ lực che đậy bộ mặt Mafia
của họ. Muốn vậy CSVN phải ẩn nấp
đàng sau tấm bảng hiệu Karl Marx. Ẩn
nấp như vừa kể, CSVN muốn nói với
thế giới rằng CSVN không là một đảng
trộm cướp Mafia, và rằng CSVN đích
thực là một đảng chính trị lấy tư
tưởng Marx làm kim chỉ nam. Nhằm
giúp cho việc ẩn nấp được chu đáo
hơn, “giống thật” hơn, CSVN cưởng
bách toàn bộ hệ thống giáo dục của
xă hội Việt Nam phải đều đặn học tập
chủ nghĩa Marx. Sự thể này đă dẫn
đến một sự thực rằng: Trước kia ông
Hồ Chí Minh và những đồng chí của
ông ấy đă từng học Marx, theo Marx,
đă từng trở thành những người CS
biến thái sau khi chủ nghĩa Marx
thất bại, đă từng sống theo “ba ác”,
đă từng là Mafia. Ngày nay CSVN lôi
kéo toàn bộ xă hội Việt Nam đi vào
con đường có đầy đủ cái “đă từng”
kia.
Cùng là con người tại sao tháng 4,
1865 là thiên đàng, tháng 4,1975 lại
là hỏa ngục? Thưa rằng tại v́ tháng
4, 1865 người Mỹ đối xử với nhau
bằng văn hoá con người so với tháng
4, 1975 CSVN “đăi ngộ” quân dân miền
Nam Việt Nam bằng “văn hoá” ba ác,
“văn hoá” Mafia. Điều nguy hại hơn
nữa là từ sau tháng 4, 1975 cho đến
nay, CSVN không ngừng thủ tiêu văn
hoá Việt Nam, thay vào đó là “văn
hoá” Mafia.
Văn hoá là quốc hồn. Văn hoá đi
vắng. Quốc hồn bay xa. Ḷng yêu nước
của người dân mờ phai. Hiện nay, đa
số người dân Việt gần như không nghĩ
đến nghĩa vụ bảo vệ non sông. Trong
khi đó, tin tức thời sự cho biết dân
Tàu đang ồ ạt kéo vào lănh thổ Ai
Lao với lư do kinh doanh, thực tế là
lục t́m lương thực. Trong khi đó tin
từ Việt Nam cho biết nương vào sự
việc từ lâu, CSVN đă cho phép Tàu
vào Việt Nam như đi chợ không cần
giấy tờ nhập cảnh, nương vào lư do
“bảo vệ ngọn đuốc Olympic” nhiều đạo
quân Tàu mặc thường phục đang tràn
ngập Việt Nam từ Bắc vào Nam. Phải
chăng đây là một cuộc đại xâm lăng
không bằng súng đạn mà bằng chiến
thuật lấy thịt đè người? Đây là dấu
hỏi gây nhức nhối tim óc dành cho
người Việt Nam trong cũng như ngoài
nước vào dịp 30/04/2008 vậy.
Phan Quang Tuệ & Đỗ Thái Nhiên