| Video Tài Liệu | Audio Tài Liệu | Nhạc | Tin Tức & Thời Sự | 
		
		
		B́nh 
			Luận ![]()  | 
	
	Tệ Trạng Ca 
					Sĩ Hải Ngoại về Ca Hát ở Việt Nam
 
Đỗ Văn Phúc
										
					
										
				
					
Trách 
					Chi Những Kẻ Chỉ Biết Lợi Nhuận
					Ngày xưa, ông Đào Duy Từ tuy là một nhân tài lỗi lạc, nhưng 
					v́ là con của một đào hát cô đầu, nên không được đi thi để 
					ra làm quan như các sĩ tử khác. Xă hội Việt Nam cho đến thời 
					Cộng Hoà, vẫn coi những người hoạt động trong giới ca hát là 
					thấp kém nhất; không có trong sự xếp loại “Sĩ, Nông, Công, 
					Thương, Binh”. V́ thế, mới có chữ “Xướng Ca Vô Loài”.
					Khác với xă hội Tây Phương mà nghệ thuật tŕnh diễn đă được 
					coi trọng từ hàng trăm năm trước, nhất là khi có quan điểm 
					tân tiến về b́nh đẳng xă hội; Việt Nam ta vẫn coi nhẹ nghề 
					ca hát, kịch trường. Một phần do ảnh hưởng phong kiến, một 
					phần cũng do tự những giới trong nghề tŕnh diễn phần lớn 
					xuất thân kém cỏi và ít chịu thăng tiến về kiến thức và phẩm 
					cách. Họ thường nổi lên do chút tài thiên phú. Có một số ít 
					học, mà không qua các lớp đào tạo để có những kiến thức cơ 
					bản trong nghề và các kiến thức về xă hội. V́ thế, một phần 
					của giới này có lối sống buông thả, thiếu phẩm hạnh, thiên 
					về lợi danh.
					Theo làn sóng người di tản tị nạn Cộng Sản, các ca sĩ nhạc 
					sĩ cũng có mặt rất sớm trên mảnh đất tự do. Sau đó, những 
					chuyến vượt biên, đoàn tụ đă đem lại thêm rất nhiều người 
					tài danh để đủ khả năng h́nh thành một sinh hoạt văn nghệ 
					sống động tại Hoa Kỳ và các nước tự do – là món ăn tinh thần 
					không thể thiếu được của những người Việt mới định cư, chưa 
					hội nhập vào đời sống văn hoá hoàn toàn khác lạ của các nước 
					sở tại.
					Những năm khi c̣n ở trong các trại tù Cộng Sản, chúng tôi 
					luôn luôn nuối tiếc về sự “khai tử” của nền văn hoá văn nghệ 
					phong phú của miền Nam Tự do. Nhưng nhờ các ca, nhạc sĩ di 
					tản, nền văn hoá, văn nghệ đă được hồi phục và phát triển 
					mạnh. Các bản nhạc được ghi chép lại, tŕnh diễn và phổ biến 
					rộng răi đă trở thành niềm vui và hy vọng cho hàng triệu 
					người Việt chúng ta không những ở hải ngoại mà cả ngay trong 
					nước. Đó là điểm son mà chúng tôi không hề quên.
					Người Việt hải ngoại đă trả công xứng đáng cho các ca, nhạc 
					sĩ, các chương tŕnh Thúy Nga, Asia, các đại nhạc hội tổ 
					chức khắp nơi bằng sự tham dự đông đảo, bằng các bài báo 
					vinh danh, quảng bá. Những tưởng rằng tấm ḷng của họ sẽ 
					chung thủy với sự cổ vũ, đùm bọc của đồng hương.
					
					Nhưng mấy năm gần đây, làn sóng những ca (có vài nhạc sĩ) 
					quay bước trở về Việt Nam để mua nhà, mở tiệm, ca hát càng 
					ngày càng tăng. Thậm chí có những ca nhạc sĩ c̣n lếu láo 
					tuyên bố ca tụng Cộng Sản và được Cộng Sản ban cấp bằng khen 
					ve vuốt. Những người này không lâu trước đây c̣n đứng trên 
					sân khấu Asia, Thúy Nga, mặc áo lính, hát những bài ca tụng 
					chế độ Cộng Hoà, vinh danh người lính miền Nam; th́ đùng một 
					phát, trở mặt xuất hiện trên sân khấu Sài G̣n. Có những ca 
					sĩ trở mặt nhiều lần, từ đỏ sang vàng, kiếm được chồng sang, 
					kiếm được chút vốn, lại trở từ vàng sang đỏ. Có kẻ sau khi 
					về đỏ, bị lừa bịp, hất cẳng lại từ đỏ sang vàng nhanh đến 
					chóng mặt.
					Sự trở cờ, quay mặt này làm hao tốn không ít bút mực lời bàn 
					trên các trang web, báo chí hải ngoại. Người ta lên án, chê 
					bai thậm chí thoá mạ bằng nhiều chữ rất tàn độc. Đa phần là 
					do các ca sĩ đă luống tuổi, giọng ca về chiều không c̣n hơi. 
					Ở hải ngoại, khan giả c̣n chút cảm t́nh mà chấp nhận. Họ 
					tưởng có thể ṃ về Việt Nam để được vỗ tay v́ chút dư âm của 
					dĩ văng xa xưa. Người ta đă miệt thị những kẻ này bằng các 
					chữ khó nghe như “con Nhện Trắng G̣ Công”, “Nguyễn Cao Kỳ 
					Cẩu”, “Trịnh Hủi” …
					Người viết bài này đă hơn một lần lên tiếng đề nghị không 
					nên mất th́ giờ về những ca sĩ này. V́ xét cho cùng, họ 
					không phản bội điều ǵ cả. Họ không tôn thờ lư tưởng nào mà 
					chỉ là những người làm tiền, kiếm danh vọng. Ngoài một số ít 
					các ca nhạc sĩ có tŕnh độ, có ư thức chính trị như Lê Dinh, 
					Duy Khánh, Lam Phương, Ngọc Minh… đa số không hề có chút lập 
					trường, nhận thức chính trị nào. Họ ra đi khỏi Việt Nam là 
					để trốn chạy một chế độ mà họ không thể sống thoải mái được 
					như trong một xă hội tự do. Điểm này có vẻ nghịch lư, v́ 
					kinh tế cũng là một phần trong phạm trù chính trị. Nhưng 
					trong thâm tâm họ, họ không có cái tầm nh́n như thế. V́ thế, 
					khi có cuộc sống thoải mái ở nước ngoài, mà lại được đi về 
					Việt Nam ca hát, th́ họ tận dụng ngay cơ hội. Mục đích của 
					họ chỉ là tiền và danh thôi.
					Lỗi là tại chúng ta đặt quá nhiều kỳ vọng vào họ và đánh giá 
					họ cao hơn nhiều thực chất của họ. Đơn thuần, họ là những 
					nghệ sĩ, chỉ biết đồng tiền và danh vọng.
					Những nhạc sĩ khi viết bản nhạc do t́nh cảm thắm thiết với 
					đối tượng, âm điệu nhạc sẽ có hồn, và lời nhạc sẽ thanh 
					thoát (đó là Chiều Mưa Biên Giới, Anh Đi Chiến Dịch, Ngày 
					Trở Về, Quê Nghèo…) ; trái lại th́ chỉ là những nốt sol, đô, 
					mị ráp vội vàng cho đủ một bài ca, cho đúng nhạc lư, và lời 
					th́ chắp vá, ngọng nghịu đến vô duyên.
					Người ca sĩ khi hát v́ sự đồng cảm với nội dung bài hát th́ 
					giọng hát tuyệt vời, thấm vào từng thớ thịt, gịng máu người 
					nghe, làm cho họ xúc động đến rơi lệ. Ngược lại, th́ chỉ là 
					một giải trí cho qua thời gian mà không để lại một ấn tượng 
					nào.
					Trong cuốn phim “From Here to Eternity”, khi Binh Nh́ Angelo 
					Maggio (do Frank Sinatra đóng) bị tên Thượng Sĩ Ph́ Lũ Fatso 
					Judson (Ernest Borgnine) bắt nhốt và đánh chết; người bạn 
					rất thân là Binh Nh́ Robert Lee Prewitt (Montgomery Cliff) 
					đă thổi ba hồi kèn tiễn biệt lúc sáng mai với nước mắt ràn 
					rụa. Âm vang thổn thức từ đáy con tim của người lính nghệ sĩ 
					đă làm cho cả doanh trại đều ngồi dậy nh́n ra và cảm xúc tột 
					cùng.
					
					Chúng ta đang sống trong một xă hội tư bản do chúng ta lựa 
					chọn và chấp nhận (dù ch́ là sự lựa chọn bắt buộc giữa hai 
					chế độ Tư bản và Cộng sản). Chế độ Tư bản dựa trên lợi 
					nhuận, và luật cung cầu. Khi có cầu, th́ mới có cung. Hết 
					nhu cầu về phương diện này, th́ nhà sản xuất xoay qua cung 
					cấp cho mặt khác đang có nhu cầu nổi lên. Họ làm thế v́ lợi 
					nhuận chứ không hoàn toàn v́ ḷng yêu thương phục vụ khách 
					hàng. Dù rằng trên các quảng cáo, luôn luôn mở miệng nói 
					:”We are here for you”. Phải nói rằng “we are here for 
					money!” mới đúng.
					
					Các ca nhạc sĩ, các nhà sản xuất băng đĩa không là ngoại lệ. 
					Họ phải sống trước đă. Ngay cả anh chị em cựu tù nhân chính 
					trị cũng thế thôi. Những năm mới qua Mỹ, đi làm thuê cho các 
					hăng xưởng, họ rất hăng hái chống cộng. Họ lên án văn hoá 
					phẩm VC, họ chê trách những ai nghe nhạc VC, đọc báo VC. 
					Nhưng sau khi có một số vốn bỏ ra đầu tư, những người kinh 
					doanh về sách báo, băng nhạc, phim ảnh đă sớm chiều theo thị 
					hiếu khách hàng mà nhập cảng những băng nhạc, DVD từ Viêt 
					Nam với nội dung ban đầu là những bài hát cho trẻ em, rồi 
					đến những băng hài hước rẻ tiền, và sau đó, không ngần ngại 
					nhập luôn những băng phim truyện mà chắc chắn có ít nhiều 
					tuyên truyền cho CS.
					Câu trả lời của họ luôn luôn là: “Ḿnh buôn bán, th́ khách 
					hỏi ǵ phải t́m cho có!!!”
					Các vị chủ chợ, địa ốc, chuyển tiền th́ khỏi nói. Làm sao mà 
					họ không bị quyến rũ bởi mức lời hàng chục, hàng trăm ngàn 
					đô la mỗi tháng?
					Chúng ta thử nghe một đoạn của ông Nam Lộc, một MC chuyên 
					nghiệp mà nhiều người tị nạn rất ngưỡng mộ khi trả lời phóng 
					viên Xuân Hồng của đài BBC trong chương tŕnh “Lá Thư Hàng 
					Tuần” phát thanh sáng Thứ Bẩy 26 tháng 5, 2007 tại Hoa Kỳ.
	
					
					Trích: Xuân Hồng: Xin ông Nam Lộc cho biết các chương tŕnh 
					ca nhạc của Trung tâm Asia thường dựa vào những yếu tố nào 
					để thực hiện?
					Nam Lộc: Thưa anh, Asia Entertainment là một trung tâm ca 
					nhạc và sinh hoạt nghệ thuật tư nhân phục vụ cho khán thính 
					giả người Việt tại hải ngoại. Do đó khi thực hiện các chương 
					tŕnh ca nhạc, chúng tôi hoàn toàn dựa vào cảm quan cùng nhu 
					cầu thưởng ngoạn của người tiêu thụ. Chính v́ thế mà hầu hết 
					các nhạc phẩm được sử dụng và tŕnh bày trong mọi đĩa nhạc 
					đều là những ca khúc được khán th́nh giả yêu thích hoặc yêu 
					cầu, v́ nó phản ảnh đúng tâm trạng, hoàn cảnh cùng nỗi niềm 
					và thị hiếu của người nghe. Có thế th́ khán thính giả mới 
					mua DVD và trung tâm mới có lợi nhuận để tiếp tục thực hiện 
					các sản phẩm mới. 
Ngưng trích
	
					
					Vậy th́ khi Cộng Đồng tị nạn chống Cộng tích cực th́ họ làm 
					băng nhạc, hát các bài chống Cộng. Khi Cộng Đồng chống Cộng 
					yếu đi, và có thể kiếm tiền ở quốc nội, th́ họ đi hai hàng. 
					Khi Cộng Đồng hải ngoại không c̣n là con ḅ sữa, do những 
					đợt di dân sau này với hàng loạt khán thính giả mới đến Hoa 
					Kỳ càng ngày càng đông không thiết tha ǵ với nhạc cũ miền 
					Nam th́ họ bắt buộc phải chuyển qua loại nhạc khác mà có thể 
					là nhạc từ Việt Nam; hay ṃ về Viêt Nam quay phim, ca hát ca 
					tụng Việt Cộng để kiếm tiền ở Việt Nam.
					Tóm lại, một khi đă bước vào ṿng doanh thương, chỉ có tiền 
					là "mục tiêu tối hậu". Tổ quốc, đồng bào chỉ là những khái 
					niệm xa lạ, mơ hồ. Tiền đếm được, mua được những ước muốn, 
					áo quần, nữ trang đua đ̣i v́ nhu cầu ăn diện của giới nghệ 
					sĩ rất cao.
					
					Cái lỗi là do chúng ta đă kỳ vọng vào những điều mà họ không 
					hề có; và đánh giá họ quá cao so với tầm vóc của họ. Nhưng 
					cũng xin đừng quơ đũa cả nắm mà mắng mỏ người ta là xướng 
					danh vô loài, tội nghiệp cho những nghệ sĩ có ḷng và có tư 
					cách.
					
					Đỗ Văn Phúc
Cuối Đông năm Kỷ Sửu, Jan. 2010.