TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM VẪN TỒN TẠI?
	
Lê Duy San
	
Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ rồi tới các nước cộng sản Đông Âu trải qua một 
cuộc cách mạng nhung và sau cùng là Liên Bang Sô Viết tan ră, nhiều người tưởng 
rằng chế độ Cộng Sản VN chắc cũng chẳng c̣n tồn tại được bao lâu nữa. Nhưng thực 
tế nó vẫn tồn tại, vẫn sống, không những sống dai mà c̣n sống mạnh. Tại sao vậy 
? Phải chăng nó đă được lănh đạo bởi một nhóm người tài ba, lỗi lạc hay chỉ v́ 
chúng đă áp dụng những biện pháp cực kỳ sắt máu và tàn bạo hơn khiến không ai 
dám có tư tưởng chống đối hay nổi dậy lật đổ chúng? 
Ngày nay, với thông tin điện tử ṭan cầu, chuyện ǵ xẩy ra, dù ở bất cứ đâu, 
dưới chế độ nào th́ cũng chỉ ít phút sau là cả thế giới đều biết. Hơn nữa chúng 
(Việt Cộng) đă được gia nhập vào Liên Hiệp Quốc, WTO v.v…do đó chúng bắt buộc 
phải thay đổi chính sách cai trị sắt mắu phần nào, không c̣n dám tàn bạo, độc ác 
và dă man như trước. Nhưng ngược lại, những phương pháp lọai trừ hay cô lập 
những thành phần chống đối, bất đồng chính kiến và nhất là những thành phần mà 
chúng coi là “phản động” th́ lại mỗi ngày một tinh vi hơn, khắt khe hơn.
Chúng ta c̣n nhớ, năm 1975, sau khi bọn Việt Cộng cưỡng chiếm được toàn thể miền 
Nam, để loại trừ tất cả những thành phần chống đối hoặc có thể chống đối, trước 
hết chúng bắt tất cả các quân nhân, mà chúng gọi là nguỵ quân, từ cấp úy trở lên 
và tất cả các công chức, mà chúng gọi là ngụy quyền, từ cấp chánh sở trở lên 
hoặc tương đương, cho đi tù mà chúng gọi là cho đi học tâp cải tạo. Kế đến chúng 
tạo ra vụ nổ ở hồ con rùa để bắt đi tù tất cả những văn nghệ sĩ miền Nam mà 
chúng gọi là những tên “biệt kích văn nghệ”. Rồi chúng loan tin Hiệp định Paris 
sẽ được thi hành để cho tất cả các chính trị gia, các thành phần đảng phái tưởng 
thật, xuất đầu lộ diện rủ nhau hội họp để sửa soạn cho một chính phủ liên hiệp 
ra đời. Tới khi chúng thấy hầu hết tất cả các thành phần chống đối xuất diện, 
chúng làm một mẻ lưới bắt hết cho vào tù. Cuối cùng chúng tạo ra những phong 
trào phục quốc giả để bắt nốt nhưng thành phần chống đối hoặc có ư tưởng chống 
đối chúng c̣n sót lại. Những chính sách như đổi tiền, cải tạo công thương nghiệp, 
đánh tư sản mại bản, lập vùng kinh tế mới v.v… cũng không ngoài mục đích cô lập 
và vô hiệu hoá tất cả những thành phần chống đối c̣n sót lại. Cuối cùng, những 
người nào không ưa Việt Cộng, không c̣n muốn sống với chúng chỉ c̣n duy nhất một 
con đường là bỏ nước ra đi tức vượt biên để t́m tự do. Có thể nói, sau 10 năm (từ 
75-85) áp dụng những chính sách này, dân VN chỉ c̣n 2 loại người: 
1/ Những đảng viên Cộng Sản và những người đă theo chế độ Cộng Sản từ trước 
2/ Những người tuy không ưa chế độ Cộng Sản nhưng cũng đành chiụ tuân phục chế 
độ để sống qua ngày v́ không có tiền để vượt biên hay v́ c̣n quá lưu luyến với 
quê cha, đất tổ.. 
Nhưng sau 35 năm sống dưới chế độ Cộng sản tư tưởng của 2 hạng người trên đă 
thay đổi và nẩy sinh ra những hạng người chống đối mới. Đó là những hạng người 
nào? Và Cộng Sản VN đă áp dụng những chính sách ǵ để loại trừ những hạng người 
này đổ tồn tại? 
I/ Sự chống đối mới của các đảng viên Cộng Sản và nhân dân VN. 
1/ Sự chống đối của các đảng viên Cộng Sản VN. 
Phải nh́n nhận rằng vào thời điểm 1945, hầu hết người dân VN đều không hiểu biết 
ǵ về Cộng Sản hoặc nếu có biết th́ cũng chỉ hời hợt và cũng không ưa ǵ Cộng 
Sản, nhưng tất cả đều có tinh thần yêu nước rất cao. Lợi dụng điềm này, Hồ Chí 
Minh đă tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản và thành lập đảng Lao Động (thực ra đây 
cũng chỉ là đảng Cộng Sản trá h́nh), nên đă lôi kéo được rất nhiều người gia 
nhập vào mặt trận Việt Minh rồi từ đó gia nhập vào đảng Lao Động. 
Sau khi Cộng Sản VN đă thống nhất được 2 miền Nam Bắc, đại hội đảng lần thứ 4 
vào năm 1976 đă chính thức đổi lại tên đảng Lao Động Việt Nam thành đảng Cộng 
Sản Việt Nam (trên thực tế th́ chúng đă đổi lại từ 1956) và sau 10 năm với những 
chính sách hộ khẩu khắt khe, quốc doanh mọi ngành nghề, kinh tế chỉ huy toàn 
diện, và đưa nền kinh tế VN tới VN tới một nước nghèo nhất thế giới, người Cộng 
Sản đă nhận thấy rằng chủ nghĩa Cộng Sản không phải là lư tưởng của họ và chế độ 
Cộng Sản không phải là chế độ mà họ mong muốn. Nhiều đảng viên đă mất ḷng tin 
và không c̣n tin vào chế độ nữa. Trước t́nh trạng này, đảng CSVN đă phải triệu 
tập đại hội đảng lần thứ 5 vào cuối tháng 3/1982, để chấn chỉnh lại hàng ngũ và 
hun đúc lại tinh thần của các đảng viên. 
Nhưng v́ vẫn đi theo đường lối cũ nên cũng không đem lại một kết qủa tích cực 
nào do đó đại hội đảng lần thứ 6 vào giữa tháng 12/1986 đă được triệu tập và lần 
này v́ sống c̣n, chúng đă phải chấp nhận “đổi mới cơ chế quản lư kinh tế, dứt 
khoát xóa bỏ cơ chế quản lư tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế 
hoạch hóa theo phương hướng hạch toán kinh doanh XHCN; phát huy động lực của 
Khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại” và : 
1/ Đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; vạch ra phương hướng, mục tiêu 
chủ yếu 
phát triển kinh tế-xă hội trong 5 năm 1986-1990. 
2/ Đề ra ba chương tŕnh kinh tế lớn là: Lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và 
hàng xuất khẩu. 
3/ Khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lănh đạo của Đảng theo tinh thần Cách 
mạng và khoa học. 
Tuy nhiên v́ bọn lănh đạo vẫn ngoan cố nên vẫn bị Mỹ cấm vận và kết qủa chỉ là 
đem lại một phần nào dễ thở một số đảng viên đương quyền mà thôi, c̣n những kẻ 
thất sủng hay không có quyền lợi ǵ th́ nghèo đói vẫn nghèo đói mạt rệp nên vẫn 
bất măn. Do đó tới cuối tháng 6/1992, bọn lănh đạo Hà Nội đă phải triệu tập đại 
hội đảng lần thứ 7 vào cuối tháng 6/1992 tại Hà Nội để thông qua “đổi mới toàn 
diện”. Tuy nói là đổi mới toàn diện, nhưng thực ra cũng chỉ là nửa vời. Cuối 
cùng chúng đă phải xuống nước, từ bỏ hết các yêu sách để được Mỹ hủy bỏ cấm vận 
vào năm 1994 và đến đại hội đảng lần thứ 8 vào cuối tháng 6/1996 cũng tại Hà Nội 
, đại hội đă “xác định đường lối kinh tế là đưa nước ta trở thành nước công 
nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản 
xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN. . . Đây 
là một sự chuyển biến rơ ràng từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế tư bản, 
một sự đầu hàng rơ ràng của chủ nghĩa Cộng sản trước chủ nghĩa Tư Bản, nhưng bọn 
lănh đạo Hà Nội vẫn ngoan cố chưa chập nhận là chủ nghĩa Cộng Sản đă lỗi thời và 
đang phá sản, nếu không muốn nói là đang giẫy chết. Chúng vẫn ngoan cố bấu víu 
vào cái xác chết của chủ nghĩa Cộng sản bằng những chữ kinh tế thị trường theo 
định hướng XHCN đưa tới một cái chế độ quái thai là kinh tế th́ đi theo chủ 
nghĩa Tư Bản, nhưng chính trị th́ theo chủ nghĩa Cộng Sản, c̣n đảng Cộng Sản th́ 
trở thành một đảng Mafia chuyên bảo kê cho các bọn gian thương tham nhũng và ma 
cô, đĩ điếm, chuyên xuất cảng lao nô và đĩ điếm. 
Với những đổi mới nửa vời trên, kết qủa là vẫn chỉ những đảng viên cộng sản có 
chức, có quyền là béo bở. Những đảng viên không chức, không quyền hay đă về hưu 
vẫn nghèo xơ, nghèo xác nên vẫn bất măn và ḷng tin đối với đảng cũng tiêu tan. 
Trước t́nh trạng này, bọn lănh đạo Hà Nội đă phải triệu tập đại hội 9 vào tháng 
4/2001 và đại hội 10 vào tháng 4/2006 để công nhận quyền tư hữu và chấp nhận cho 
cả đảng viên có quyền kinh doanh. 
Nhưng đâu phải đảng viên nào cũng có tiền để kinh doanh? Mà có tiền để kinh 
doanh cũng chưa chắc đă thành công nếu không có chỗ dựa, không có ô dù. Thật 
không có ǵ nực cười bằng đảng viên cũng phải hối lộ đảng viên, cán bộ cũng phải 
hối lộ cán bộ ! Tóm lại, số đảng viên giầu có vẫn chỉ là thiểu số, c̣n đa số vẫn 
nghèo đói, khổ sở. Do đó thành phần bất măn càng ngày càng nhiều. Không những 
thế, nhiều đảng viên c̣n nhận chân ra được là cái chính nghĩa mà bọn lănh đạo Hà 
Nội rêu rao trước kia thực ra chỉ là do sự lừa bịp của bọn lănh đạo Hà Nội mà có 
. Và cái lư tưởng cao cả của bọn lănh đạo Hà Nội đề ra trong cuộc chiến 45-75 là 
đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc cũng chỉ là giả tạo. Ngày nay, 
nhiều đảng viên Cộng Sản đă nhận ra bọn lănh đạo Hà Nội chỉ là một bọn bán nước, 
bọn lính đánh thuê cho Cộng Sản quốc tế không hơn, không kém. V́ thế nhiều đảng 
viên đă từ bỏ đảng hoặc trở thành những kẻ đối lập, những kẻ bất đồng chính 
kiến, điển h́nh là các ông Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Hoàng Hữu Nhân, Nguyễn 
Trung Thành, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Hiếu, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Phạm Quế 
Dương, Nguyễn Thanh Giang, Trần Anh Kim, Đào Văn Nghệ v.v… 
2/ Sự chống đối của dân chúng. 
Sau 2 thập niên 75 và 85, bọn Cộng Sản Hà Nội đă loại trừ và cô lập được hết các 
thành phần chống đối chúng, chỉ c̣n lại một thành phần duy nhất là theo chúng 
hoặc khuất phục chúng dù thích hay không. 
Nhưng sau 35 năm (75-09) một thế hệ mới ra đời. Thế hệ này tuy sống trong chế độ 
Cộng Sản, được dậy dỗ và nhồi sọ tư tưởng Mác Lê, chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng với 
hệ thống thông tin điện tử toàn cầu (internet) và từ đó ta có thể truy cập 
e-mail (electronic mail - thư điện tử) và World Wide Web (hệ thống truy cập 
thông tin toàn cầu) để biết mọi chuyện đă và đang xẩy ra trên thế giới. Ngụy 
quyền CSVN chỉ có thể kiểm soát hay ngăn cản chứ không thể ngăn cấm, nhất là đối 
với những người chỉ truy cập. Ngụy quyền CSVN không thể bưng bít những tin tức, 
do đó thế hệ trẻ sau này, tuy không được học hỏi nhưng cũng hiểu biết nào thế 
nào là dân chủ, thế nào là nhân quyền và từ đó họ hiểu rơ chế độ Cộng Sản VN chỉ 
là một chế độ độc tài, không hơn, không kém, cần phải đạp đổ và chủ nghĩa Cộng 
Sản chỉ là ǵ một chủ nghĩa không tưởng, cần phải thay thế và bọn lănh đạo Cộng 
Sản Hà Nội chỉ là một bọn bán nước, làm tay sai cho Trung Quốc. 
Từ đó, một lớp người chống đối mới đă nổi lên, điển h́nh như: BS Phạm Hồng Sơn, 
LS Nguyễn Văn Đài, LS Lê Chí Quang, LS Lê Công Định, Thạc Sĩ Nguyễn Tiến Trung, 
nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, nhà văn Nguyễn Văn Chấn, nhà báo Nguyễn Vũ B́nh, 
Nguyễn Xuân Nghĩa, GS Trần Khuê, Nguyễn Xuân Tụ, Vũ Hùng, Phạm Đoan Trang, các 
bloggers Điếu Cày Nguyễn Hoàng Hải, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Người Buôn Gió 
Bùi Thanh Hiếu v.v…những đảng mới đă xuất hiện điển h́nh là đảng Thăng Tiến Việt 
Nam của Linh Mục Nguyễn Văn Lư và nữ Luật Sư Lê Thị Công Nhân, đảng Dân Chủ (mà 
ông Lê Công Đinh là Tổng Thư Kư và Trần Anh Kim là phó Tổng Thư Kư), Cao Trào 
Nhân Bản của bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Kối 8406 v.v… cùng một số các nhà tu hành 
như Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang, Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Quảng Độ, Cố Tổng 
Giám Mục Nguyễn Kim Điền, các LM Nguyễn Hữu Giải, Chân Tín, Phan Văn Lợi; các MS 
Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Công Chính v v… 
Những người dân bất măn v́ bị cướp đất, cướp nhà, những tín đồ bị mất nơi thờ 
phượng, những sinh viên, học sinh thấy đất nước bị xâm lấn, chủ quyền bị xâm 
phạm đă dám tụ tập kéo nhau lên tận Saigon hay ra tận Hà Nội biểu t́nh phản đối. 
Qua truyền thông, báo chí, truyền h́nh, Internet, diễn đàn điện tử v.v…, bất cứ 
chuyện ǵ xẩy ra tại Việt Nam bây giờ, không những tại các thành phố lớn, mà 
ngay ở tại các quận khỉ ho c̣ gáy, chúng ta cũng đều biết. Nào là vụ dân Thái Hà 
ở Hà Nội, cả chục ngàn người biểu t́nh đ̣i đất cho xứ đạo và vụ Tam Toà ở Vinh, 
cả trăm ngàn người biểu t́nh đ̣i đất cho nhà thờ. Nào là vụ ngụy quyền Cộng Sản 
dùng xă hội đen hành hung dân đi khiếu kiện ở giáo sứ Kẻ Mui (Hà Tĩnh). Nào là 
vụ dân Tiền Giang kéo nhau về Saigon đ̣i nhà đất năm 2007, vụ dân tỉnh B́nh 
Thuận kéo nhau ra Hà Nội biểu t́nh chống tham nhũng vào năm 2007. 
II Những biện pháp đối phó của ngụy quyền Việt Cộng. 
Đứng trước t́nh trạng chống đối của các đảng viên cũng như của dân chúng, dĩ 
nhiên bọn ngụy quyền Việt Cộng không thể nào để nó lan rộng mà phải t́m cách dập 
tắt. 
1/ Truy tố ra toà để răn đe, hù doạ. 
Luật pháp nói chung và toà án nói riêng dưới chế độ Cộng Sản là để bảo vệ chế 
độ. Do đó biện pháp đầu tiên là dung công an để đàn áp và truy tố ra ṭa. Biện 
pháp này không những có mục đích để trừng trị mà c̣n có mục đích răn đe. Việc 
bọn Việt Cộng đổi tội danh truy tố Trần Anh Kim, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công 
Định, Nguyễn Tiến Trung từ tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt 
Nam” theo điều 88 bộ H́nh Luật VC thành tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền 
nhân dân” theo điều 79 Bộ H́nh Luật VC hoặ dựng lên những con ngáo ộp như “Thế 
lực thù nghịch”, “Diễn tiến hoà b́nh” hay “Bọn phản động” cũng không ngoài mục 
đích này. Nhưng biện pháp này ngày nay, hầu như vô hiệu bởi v́ những người bất 
đồng chính kiến, hay phổ biến những tư tưởng tự do, dân chủ nhân quyền hay biểu 
lộ ḷng yêu nước, không phải là một tội. Hơn nữa, ngày nay, tai mắt quốc tế hầu 
như có mặt ở khắp nơi và bọn lănh đạo Hà Nội đă đặt bút kư vào các bản văn quốc 
tế như Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, nên không thể muốn xử sao th́ xử. Do đó dù 
có khắt khe tới đâu chúng cũng chỉ có thể gắn cho một tội danh vớ vẩn để phạt tù 
chứ không thể tuyên án tử h́nh để giết người vô tội. 
2/ Hủ hoá để làm mất ư chí đấu tranh và dễ bề sai khiến. 
Đây là một chính sách rất tai hại và cực kỳ phản động. Nó đưa cả dân tộc vào con 
đường sa đoạ, không lối thoát. Nhiều người đầu óc nông cạn, cho rằng bây giờ 
Việt Nam đă thay đổi. Họ được ăn chơi thà dàn. Pḥng trà ca nhạc, vũ trường, bia 
ôm, bia mớm, tắm hơi, tắm ôm v.v…mọc ra như nấm, nơi nào cũng có. Ban đêm th́ đĩ 
điếm đầy đường, ngay cả chung quanh vườn Tao Đàn ở Saigon, không phải chỉ có gái 
điếm mà c̣n có cả đĩ đực. Không phải chỉ có các ông đi mua dâm mà c̣n có cả các 
bà cũng đi t́m lạc thú. Ban ngày cờ bạc khắp nơi, ngay cả các công viên, như 
vườn hoa Con Cóc ở Hà Nội, thanh niên nam nữ tụ tập đánh bạc công khai. Phải 
chăng đó là sự thay đổi mà họ nhận thấy? Họ không biết rằng đây chính là chính 
sách của bọn ngụy quyền Hà Nội: chính sách hủ hoá người dân để làm nhụt khí đấu 
tranh. Chính sách này, ngày xưa thực dân Pháp đă áp dụng ở VN, mục đích nhằm mục 
đích để dân chúng mải vui chơi mà quên đi ḷng yêu nước mà thôi. Ngày nay bọn 
Cộng Sản Hà Nội không c̣n lương tri của con người, nên bọn chúng đă áp dụng 
triệt để, không những để hủ hoá dân chúng mà c̣n để hủ hoá cả các công nhân viên 
và cán bộ chính quỳền, làm cho dân chúng cũng như công nhân viên, cán bộ chỉ c̣n 
biết ăn chơi, không c̣n nghĩ tới tiền đồ của tổ quốc, tương lai của dân tộc, mà 
chỉ nghĩ làm sao có tiền, thật nhiều tiền không những để cất nhà lầu, mua xe xịn 
mà c̣n để ăn chơi. Bởi vậy chúng ta không lấy làm lạ khi thấy có rất nhiều viên 
chức Việt Cộng có vợ bé, có nhân t́nh. Có rất nhiều giảng viện, hiệu trưởng các 
trường đại học ở VN mua dâm của nữ sinh viên bằng điểm thi và không thiếu ǵ các 
nữ sinh viên sẵn sàng nhận làm vợ hờ, gái bao để có tiền nói là để ăn học nhưng 
thực ra cũng chỉ là để ăn diện. C̣n đất có bị Tầu lấn thí cũng mặc, biển có bị 
Tầu chiếm th́ cũng kệ. Những tổ chức buôn người, những đường dây buôn bán gái 
măi dâm dưới h́nh thức xuất cảng lao động, giới thiệu lấy chồng ngoại quốc (Đại 
Hàn, Đài Loan, Trung Quốc v.v…) mọc ra như nấm và hoạt động công khai, hợp pháp. 
Chính cũng v́ vậy mà bọn lănh đạo Hà Nội đă không quyết tâm bài trừ tham nhũng 
để công nhân viên, cán bộ mặc t́nh tham nhũng để chúng dễ bề sai khiến. 
Nhưng đâu phải ai cũng có tiền để hủ hoá? Ngay cả chế độ tư bản, số người giầu 
vẫn ít, số người nghèo vẫn nhiều huống là chế độ Cộng Sản. Không những thế, 
người dân c̣n bị áp bức, bị cướp đất, cướp nhà. Liệu bọn Cộng Sản Hà Nội có 
triệt tiêu được hết những thành phần bất đồng chính kiến, những thành phần bất 
măn được không? Chính bọn Cộng Sản đă nói “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. 
Có đấu tranh th́ sẽ có nổi dậy. V́ sợ dân chúng nổi dậy, bọn lănh đạo Hà Nội đă 
phải cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của Trung Cộng. Càng lệ thuộc Trung Cộng bao 
nhiêu, bọn Cộng Sản Hà Nội càng mất chủ quyền bấy nhiêu. Đó là điều mà toàn dân 
đă thấy khi Trung Cộng tung hoành trên biển Đông, ngay trong lănh hải của VN, 
cấm ngư dân VN đánh cá, ngang nhiên bắt ngư dân VN và đ̣i tiền chuộc mà bọn lănh 
đạo Hà Nội vẫn không dám có một lời phản kháng. Trong khi đó th́ dân Trung Quốc 
được tự do nhập cảnh VN không cần passport, hộ chiếu, làm việc bất hợp pháp 
nhưng công khai, lấy vợ VN chẳng cần giấy tờ v́ gái VN bây giờ tinh thần đă bị 
hủ hoá, chỉ cần tiền, tiền và tiền. Liệu c̣n bao lâu nữa, dân VN sẽ bị đồng hoá 
bởi người Tầu và nước VN sẽ trở thành một tỉnh của Trung Quốc? 
Với một ngàn năm Bắc thuộc cùng với chính sách cai trị vô cùng hà khắc của rợ 
Hán và đă bị áp đặt chính sách Hán hóa lên dân tộc ta, tổ tiên chúng ta vẫn cố 
đứng lên đấu tranh giành lại được độc lập cho đất nước và chủ quyền cho dân tộc. 
Tổ tiên chúng ta vẫn giữ vững được văn hoá và phong tục tập quán riêng không để 
bị đồng hoá bởi người Hán. Chẳng lẽ ngày nay, chỉ v́ một bọn người vong bản, đă 
đem một chủ nghĩa ngoại lai và không tưởng là chủ nghĩa Cộng Sản về áp dụng mà 
nước ta bị mất, dân tộc ta bị đồng hóa? Không, không bao giờ, người dân VN ngày 
nay đă không c̣n sợ hăi bọn Cộng Sản như trước. Họ đă dám kéo nhau đi biểu t́nh 
đ̣i nhà đói đất. Họ đă dám tụt quần trước cơ quan của ngụy quyền Cộng Sản và 
chửi rủa và đả đảo bọn ngụy quyền tham nhũng khiến bọn Việt Cộng phải dùng xă 
hội đen để đàn áp. Người dân oan khi được đài RFI phỏng vấn đă dám gọi đảng Cộng 
Sản VN là đảng Cướp. Điều đó chứng tỏ rằng ngụy quyền Cộng Sản VN không c̣n uy 
quyền ǵ đối với quần chúng, sự xụp đổ của chế độ Cộng Sản là điều chắc chắn sẽ 
xẩy ra, vấn đề chỉ là thời gian. Tiếc rằng, trong số người Việt tỵ nạn Cộng sản 
chúng ta đă có một số người, hay nói cho rơ hơn, một số trí thức mê sảng mà một 
đồng môn Chu Văn An, anh Bùi Bảo Trúc đă gọi là bọn chó đẻ, chỉ v́ một chút lợi 
danh, không những đă không góp phần vào công việc giải trừ chế độ Cộng Sản Việt 
Nam lại đi làm tay sai cho bọn Việt Cộng khiến bọn chúng vẫn c̣n sống dai dẳng 
cho tới ngày nay. Thật đáng phỉ !!! 
Lê Duy San