Video Tài Liệu Audio Tài Liệu Nhạc Tin Tức & Thời Sự B́nh Luận

 

Tài nguyên thiên nhiên Việt Nam: ai làm giàu?

Tài nguyên thiên nhiên Việt Nam: ai làm giàu?

 

- Vơ Thụy Nhu

 

Việc khai thác triệt để tài nguyên ở Việt Nam ba thập niên qua thể hiện chủ trương lấy tài nguyên thiên nhiên làm chỗ dựa tối ưu trong quá tŕnh "đổi mới" nhằm tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi sự phát triển bền vững cần dựa vào sự kết hợp có khoa học giữa tài nguyên thiên nhiên và nguồn trí thức để nâng cao lợi ích chung của đất nước với tầm nh́n xa rộng, th́ với chủ trương như vậy, tăng trưởng kinh tế, nếu có được, phục vụ cho ai? liệu người dân có thật sự đă giàu từ những nguồn tài nguyên này?

Kinh nghiệm thực tế

Nh́n chung, ai cũng nghĩ rằng những quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú luôn gắn liền với sự giàu có, thịnh vượng và phát triển tốt đẹp. Nhưng đáng tiếc, rất nhiều nước trên thế giới có lợi thế và nằm ngay trên các vùng lưu trữ tài nguyên nhưng lại không biết sử dụng hoặc sử dụng không đúng cách.
Kinh nghiệm đă cho thấy trong những năm dưới chế độ Saddam Hussein, Iraq, đất nước có lượng dầu khí đứng hàng thứ 3 trên thế giới, chưa bao giờ trở thành quốc gia giàu có. Các nước Châu Phi nổi tiếng về vàng, kim cương, cao su và nhiều tài nguyên khác nhưng có bao giờ trở thành thiên đường của nhân loại? Điển h́nh là Congo, Angola, Sudan và Nigeria có tài nguyên khoáng sản dồi dào nhưng vẫn đang đối mặt với nghèo đói, bệnh dịch và tệ nạn tham nhũng.Nguồn kinh phí mang về từ những hợp đồng giao bán tài nguyên không những không cứu nguy nền kinh tế nghèo nàn, thậm chí người dân cũng không hưởng được phúc lợi nào trong số tiền ấy. Ở châu Á, Indonesia là nước có đồi núi hùng vĩ đầy gỗ quư, lượng dầu hỏa nhiều nhất khu vực và mấy chục ngh́n ḥn đảo với vô số sản vật quư hiếm nhưng cũng đâu phải là quốc giaphồn vinh nhất tại Đông Nam Á.
Ngược lại, các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông,... dù thiếu tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, không có nguồn dự trữ đáng kể nhưng đă đạt thành tích tăng trưởng vượt bậc. Kinh tế các nước này là trụ cột của nền kinh tế Châu Á và cộng đồng kinh tế thế giới. Điều này cho thấy tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa hoàn toàn vào tài nguyên thiên nhiên v́ mục tiêu bền vững sẽ bị lung lay khi nguồn tài nguyên cạn kiệt. Tài nguyên thiên nhiên là một dạng của cải đặc biệt v́ một số tài nguyên như khoáng sản và nhiên liệu không thể tái tạo. Những nghịch lư của các nước Châu Phi, Indonesia hoặc Việt Nam là kỹ năng khai thác c̣n yếu kém, quản lư chưa hiệu quả và tệ hại nhất là vẫn chưa thoát khỏi cái bóng "tham" và "nhũng".

Nhà nước giàu hay dân giàu?

Việt Nam hiện nay có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất đa dạng, phần lớn là dầu mỏ và than gầy. Theo thống kê của Oil and Gas Journal, những mỏ dầu lớn nhất được khai thác tại Bạch Hổ (White Tiger), Rạng Đông (Dawn), Hang Ngọc, Đại Hưng (Big Bear), và Ruby với khoảng 400,000 thùng (bbl/d) mỗi ngày. Những sản phẩm khoáng chất khác trong vùng Đông Bắc Việt Nam cũng rất dồi dào và phong phú như bauxite, vàng, đồng, khoáng chất apatite và đá quư.Ngoài ra, Việt Nam c̣n có vô số tài nguyên biển, thủy năng, và gỗ quư.Nhưng, xin nhắc lại, các tài nguyên này chưa hẳn sẽ làm đất nước và con người giàu lên trong tiến tŕnh tăng trưởng kinh tế.Ngược lại, khai thác quá mức hoặc kém quản lư có thể dẫn đến hủy hoại sự sinh tồn của cộng đồng, ô nhiểm và suy thoái môi trường thiên nhiên.
Đất nước là của toàn nhân dân.Và tài nguyên thiên nhiên cũng vậy. Điều 17 Hiến pháp ghi rất rơ: "Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong ḷng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản (...) đều thuộc sở hữu toàn dân". Do vậy, tài nguyên thiên nhiên phải phục vụ lợi ích cho quốc gia và nhân dân, không chỉ dành để phục vụ một đảng phái hoặc một nhóm hay bất kỳ cá nhân nào.
Trên thực tế, những nguồn thu nhập từ các công tŕnh khai thác tài nguyên thiên nhiên không được đầu tư vào đào tạo giáo dục, phát triển xă hội một cách hiệu quả. Riêng người dân sống ngay trong khu vực chứa đựng tài nguyên quốc gia vẫn bị cái nghèo đeo bám, vật lộn với đói rét mỗi ngày để có được bữa cơm manh áo. Nhiều trẻ em, là tương lai của đất nước, vẫn chưa có đầy đủ cơ hội đến trường, nên nếu kinh tế có được "đổi mới" hay “phát triễn mạnh mẽ” như những lời có cánh của các nhà chức trách cũng vô nghĩa.
Thêm vào đó, nhiều vùng dân tộc thiểu số đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt và chia rẽ do tác hại của khai thác tài nguyên, cụ thể rơ ràng gần đây là việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên. Đời sống xung quanh địa điểm khai thác tài nguyên đang và sẽ bị đe dọa v́ ô nhiễm trầm trọng, gây ảnh hưởng nặng đến sức khỏe dân cư do các quan chức nhà nước kém tŕnh độ quản lư. Nhà nước lại chưa có luật nào quy định, rà soát hoặc giám sát những công tŕnh khai thác để đảm bảo nâng cao đời sống của nhân dân. Điều này cho thấy nhà nước đă không quan tâm hoặc ít nhiều không coi nặng nhân dân. Người dân cuối cùng là những nạn nhân bị nhà nước lăng quên do thiếu tinh thần trách nhiệm của các nhà lănh đạo.
Đáng nói hơn hết, tài sản quốc gia đă không giúp người dân giàu hơn trong quá tŕnh phát triển đất nước hiện tại. Vậy hàng trăm triệu USD thu từ khai thác tài nguyên mỗi năm trôi đi đâu?
Hiện tại tính đến cuối năm 2008, nợ nước ngoài (external debt) của Việt Nam lên đến 30 tỷ USD, chiếm 30% tổng số GDP của cả nước. Một con số khổng lồ cho một quốc gia với thu nhập b́nh quân trên đầu người chỉ trên dưới $1,000 USD/năm. Trong bối cảnh hội nhập với quốc tế, chính phủ Việt Nam cho rằng bauxite sẽ giúp nền kinh tế trong nước vượt lên cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay. Nhưng có ai đảm bảo nguồn thu nhập này sẽ sinh lời cho các hoạt động đúng đắn hay ngược lại sẽ làm tài sản thiên nhiên bị "ăn ṃn" do bất lực trong tiến tŕnh quản lư? Không những người dân chân đất tay bùn phải đối diện với cảnh nghèo đói, nhà nước Việt Nam cũng không tránh khỏi những số nợ lớn gấp nhiều lần so với các nước lân cận, dù Việt Nam dư thừa tài nguyên thiên nhiên (rất tiếc là hiện nay ngay cả tài nguyên cũng đang cạn kiệt dần)..
Khai thác tài nguyên đơn thuần chỉ là một cuộc đánh đổi tài sản, không có sự phát triển hay tăng trưởng nào tồn tại. Theo Heritage Foundation, chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam xếp hạng thứ 137 trong 157 quốc gia. V́ Việt Nam chưa hoàn toàn là thị trường tự do nên các quỹ đầu tư (hedge fund) hoạt động rất giới hạn, đặc biệt các quỹ về dầu khí hoặc khoáng sản. Những quỹ đầu tư này thông qua đầu tư vào các ngành sản xuất, cung cấp và dịch vụ ngoài khai thác tài nguyên, thị trường chứng khoán và đầu tư nước ngoài sẽ sinh lời, bảo toàn và phát triển nguồn vốn của quốc gia. Các luật lệ mơ hồ ban hành từ chính phủ hiện đang làm nhiều nhà đầu tư e ngại, đặt dấu hỏi và thậm chí không có ḷng tin! Trên thực tế, tài nguyên thiên nhiên đă không tạo thêm nguồn ngân sách trọng điểm nào so với khoảng nợ quốc gia, và nó càng không có tác dụng trong đời sống kinh tế lẫn y tế của nhân dân. Có lẽ Bộ Chính Trị thông suốt hơn ai hết về khoản thu nhập từ "tài sản quốc gia"!
Dù có tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú nhưng nhân dân Việt Nam chưa bao giờ có cuộc sống sung túc. Chính phủ Việt Nam cũng không phải là một chính phủ giàu, thậm chí c̣n là một chính phủ nghèo v́ chịu những khoản nợ quốc tế khổng lồ và tham nhũng. Ai làm giàu từ tài nguyên đất nước là một câu hỏi cho các nhà lănh đạo mà ai cũng biết câu trả lời. Việt Nam cần tăng cường tính minh bạch và nâng cao tinh thần trách nhiệm của các lănh đạo nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân và đất nước. Nếu muốn trở thành một đất nước phát triển, Việt Nam cần và nên đầu tư vào nguồn nhân lực, trí thức và công nghệ để giảm bớt t́nh trạng bám dựa vào thiên nhiên trong cơ cấu tài sản quốc gia. Một nền giáo dục đúng tiêu chuẩn cần phải cải thiện nhằm nâng cao tỉ trọng vốn con người, chú trọng đào tạo kỹ thuật và thực hành, bớt lư thuyết và giáo điều bảo thủ. Ngoài ra, nghiên cứu khoa học sẽ mang lại nhiều lợi ích trong nhu cầu phát triển con người. Việt Nam cần những lănh đạo trí thức, trách nhiệm và đặt quyền lợi đất nước con người làm mục tiêu.
Một đất nước chỉ phát triển hùng mạnh khi người dân thật sự được tự do phát triển.


<< trở về đầu trang >>
 free counters