|
Luật hàng hải quốc
tế đă quy định quá rơ
ràng sự đặc miễn xâm
phạm sinh mạng, hàng hoá,
tàu bè của ngư dân vô
tội ngay cả trong thời
gian giao tranh, thế th́
tại sao câu hỏi của Mẹ
Nấm nêu ra
“Ai đang bám biển cùng
ngư dân?” và “Ai
đang bảo vệ ngư dân?”
đến nay vẫn không có câu
trả lời thoả đáng và
chưa có một hành động
bảo vệ chính thức nào từ
những kẻ lănh đạo đất
nước này? Phải chăng đă
đến lúc nhà cầm quyền
Việt Nam muốn 86 triệu
dân phải xuống đường để
tự bảo vệ lấy đất nước
của chính ḿnh trước sự
hung hăn ngày càng gia
tăng của Trung Quốc ?!!!
Ngày xuống đường ấy của
đại khối dân tộc gần hay
xa là tùy vào mức độ vô
năng và bất xứng của
những người lănh đạo !!!
...
*
Ngày 24 tháng 9 năm
2011, lúc 13 giờ, 2 tàu
đánh cá của ngư dân
Quảng Ngải bị tàu Trung
Quốc tấn công, đuổi bắn
trong nhiều giờ, nhiều
ngày khi đang trú băo
tại đảo Trụ Cẩu, thuộc
khu vực quần đảo Hoàng
Sa của Việt Nam. Hai tàu
cá mang biển số QNg
95337TS và QNg 95850TS.
Chủ nhân kiêm thuyền
trưởng là ngư dân Trương
Văn Đức và ngư dân
Trương Tài.
Điều khoản 3 của Công
Ước Quốc Tế
“The Hague” (“The Hague
Convention”1907) có
hiệu lực từ ngày 26
tháng 1 năm 1910, quy
định “Những Giới Hạn
Liên Quan Đến Quyền Bắt
Giữ Trong Chiến Tranh
Hải Quân”[1]:
“những tàu chuyên dùng
cho việc đánh cá dọc
theo bờ biển được miễn
trừ ... không được bắt
giữ...”. Luật
này được quốc tế quy
định và áp dụng trong
thời chiến giữa các quốc
gia tranh chấp và sau đó
trở thành tập quán luật
pháp chung (“customary
law”) áp dụng cho
tất cả các nước trong
cộng đồng “văn minh” thế
giới (“civilized
nations”).[2]
Điều khoản này sau chiến
tranh Đệ Nhị Thế Chiến
đă được các nước đồng
quy định lần nữa trong
các Công Ước Geneva (Geneva
Conventions) 1949,
được thông qua năm 1977.
Điều khoản 48 của Công
Ước yêu cầu lực lượng vũ
trang của các quốc gia
tranh chấp trong vùng
phải
“phân biệt giữa dân
thường và chiến binh; và
giữa các đối tượng dân
sự và các mục tiêu quân
sự”.[3]
Điều khoản 54 của Công
Ước Geneva cũng quy định
lực lượng vũ trang của
các nước không được
quyền tấn công, không
được quyền huỷ hoại mà
c̣n
“phải bảo vệ những
phương tiện không thể
thiếu cho sự sống c̣n
của người dân”.[4]
Xét về khía cạnh luật
pháp quốc tế, Trung Quốc
đă vi phạm trầm trọng
tất cả các điều khoản
trên. Việc tấn công,
truy đuổi, bắn, đốt các
tàu cá ngư dân với mục
tiêu hủy hoại phương
tiện “không thể thiếu”
cho sự sống c̣n của gia
đ́nh các ngư dân, trong
vùng biển không thuộc
chủ quyền của Trung
Quốc, lại không phải
trong lúc đang có chiến
tranh với Việt Nam, và
nhất là trong lúc hai
tàu cá vô tội chỉ đang
tránh băo, cho thấy tính
chất dă man, hung hăn
đầy thú tính của Trung
Quốc.
Các luật sư Việt Nam có
thể nêu câu hỏi mang
tính “kỹ thuật pháp lư”
rằng nếu Việt Nam không
thuộc các quốc gia thành
viên đồng kư tên trong
các Công Ước quốc tế nêu
trên, th́ liệu ngư dân
Việt Nam thấp cổ bé
miệng có được luật công
ước thế giới bảo vệ hay
không trước sự tàn ác
ngày càng quá khích của
Trung Quốc? Câu trả lời
là có; dựa trên hai điểm
chính:
1) Thứ nhất, Việt Nam
không cần thiết phải là
thành viên kư kết của
các công ước trên v́ các
công ước ấy chỉ nhằm áp
dụng trong thời chiến.
Việt Nam và Trung Quốc
đang không có chiến
tranh với nhau. Nguyễn
Tấn Dũng và Đới Bỉnh
Quốc gần đây nhất vẫn ôm
nhau hôn thắm thiết. Do
đó, ngư dân Việt Nam lẽ
ra không cần đến các
công ước trên mới được
bảo vệ v́ ngay cả nếu
Trung Quốc và Việt Nam
đang ở trong t́nh trạng
chiến tranh th́
Công Ước The Hague và
Geneva 1949 cũng quy
định
“những tàu chuyên dùng
cho việc đánh cá dọc
theo bờ biển được miễn
trừ ... không được bắt
giữ...”. Nếu
trong chiến tranh đă thế
th́ trong thời b́nh lại
càng không thể tấn công
ngư dân. Trong luật
pháp, đây gọi là quy tắc
có thể được giả định (presumptive
rule).
2) Thứ hai, những điều
khoản trong các công ước
trên được các quốc gia
trong thế giới văn minh
ngày nay công nhận như
“luật nhân đạo trong
chiến tranh” (“the
humanitarian laws of
war”) và mang tính
phổ quát cho cộng đồng
nhân loại. Việt Nam
không nhất thiết phải là
đối tác kư kết trong các
Công Ước này mới nhận
được sự ủng hộ của công
pháp quốc tế. Nhất là
khi Việt Nam và Trung
Quốc đang trong “thời
b́nh” nên việc Trung
Quốc vô cớ xâm phạm với
mục tiêu huỷ diệt sinh
mạng, tài sản, tàu bè
ngư dân đă là vi phạm
công pháp quốc tế. Và
nhất là không phải một
lần, mà là nhiều lần,
trong nhiều năm!!!
Tuy nhiên, trong chúng
ta, ai cũng hiểu vấn đề
ngư dân được bảo vệ hay
không, đầu tiên trách
nhiệm phải do chính
những người lănh đạo
Việt Nam có dám “đặt vấn
đề” với Trung Quốc hay
không? Có dám truy tố
Trung Quốc trước toà án
tư pháp quốc tế để đ̣i
bồi thường thiệt hại cho
ngư dân ḿnh hay không?
Đây không phải là lần
đầu tiên Trung Quốc hung
hăng đuổi bắn tàu ngư
dân Việt Nam đang đánh
cá trong vùng biển thuộc
chủ quyền của đất nước.
Qua những cuộc tiếp xúc,
phỏng vấn và thông tin
trên báo chí qua các
phóng sự thực hiện bởi
Phạm Thanh Nghiên can
đảm nhiều năm trước và
Mẹ Nấm lúc gần đây, cho
chúng ta thấy không chỉ
những phương tiện tàu
bè, lưới, chài của ngư
dân bị tiêu huỷ, mà máu
và sinh mạng của nhiều
ngư dân đă bị huỷ hoại
bởi lực lượng hải quân
và tàu vũ trang của
Trung Quốc. Việc Trung
Quốc cắt cáp tàu Viking
I & II cũng đă vi phạm
trầm trọng
Công Ước “The Hague”:
“ngoài tàu đánh cá ven
biển của ngư dân, các
tàu thuyền hoạt động
mang tính chất khám phá
khoa học đều được miễn
trừ không được bắt giữ
hay huỷ hoại”, (“immunity
for “coastal fishing
boats” and vessels
engaged in scientific
discovery”). Điều
khoản 22 của công ước
Geneva Convention 1949
cũng miễn trừ cho các
tàu bệnh viện quân đội
không phải bị bắt giữ (“military
hospital ships”), dù
là trong lúc giao tranh.
Việc các quốc gia trên
thế giới lên tiếng bảo
vệ đến cùng các tàu đánh
cá của ngư dân họ khi bị
“tàu lạ nước khác” tấn
công đă có từ những năm
xa xưa 1898. Ngày 27
tháng 4 năm 1898, hai
tàu đánh cá của ngư dân
Tây Ban Nha bị tàu chiến
của Hoa Kỳ bắt giữ trong
vùng hải phận ven biển
Cuba. Lúc đó Hoa Kỳ và
Tây Ban Nha đang trong
thời kỳ giao tranh. Sau
khi bắt giữ hai tàu cá
có treo cờ Tây Ban Nha,
(chủ nhân gốc Tây Ban
Nha sinh sống tại Cuba),
Hoa Kỳ đă tuyên bố hai
tàu đánh cá này là
“chiến lợi phẩm” chiến
tranh, và đă bán đấu giá
tàu “Paquette
Habana” với giá $490
và tàu “Lola” với giá
$800 đô. Chính phủ Tây
Ban Nha kiện quân đội Mỹ
và đ̣i bồi thường tổn
thất cho ngư dân họ. Toà
án tối cao của Hoa Kỳ đă
phán quyết quân đội Hoa
Kỳ phải hoàn trả toàn bộ
những của cải, tài sản
đă tịch thu của hai tàu
ngư dân, đồng thời phải
bồi thường thêm tất cả
những tổn phí, thiệt hại
do việc bắt giữ và đấu
giá hai tàu ngư dân ấy.[5]
Đấy là trong thời chiến
tranh đang diễn ra giữa
hai nước Hoa Kỳ và Tây
Ban Nha và vụ án lại xẩy
ra khi “văn minh nhân
loại” c̣n ở thập kỷ
1900; và các công ước
quốc tế The Hague và
Geneva c̣n chưa ra đời.
Thế th́ hôm nay những
người lănh đạo Việt Nam
đă làm ǵ để bảo vệ ngư
dân ḿnh khi họ bị xâm
phạm?
Ngay cả Đế chế Nhật Bản
trong thời kỳ giao tranh
với Trung Quốc, tháng 8
năm 1894 đă ban hành
pháp lệnh:
“những loại tàu bè sau
đây của “kẻ thù” được
miễn trừ không bắt giữ,
tịch thu, bao gồm tàu
đánh cá và những tàu
đang trên đường hải hành
với mục tiêu khám phá
khoa học, hoạt động từ
thiện hay mang nhiệm vụ
tôn giáo”
[6]. Tưởng cũng nên
nói thêm là Nhật Bản vào
thời điểm ấy, là nước
cuối cùng (nhưng đầu
tiên trong vùng Á châu)
được cộng đồng quốc tế
công nhận vào hàng
“các nước văn minh”
(“ranking
of civilized nations”)
và qủa là xứng đáng!
Việt Nam học được ǵ và
Trung Quốc có biết “xấu
hổ” chăng khi hành xử
thiếu “văn minh” và man
rợ như dă thú ?
Gần trăm năm trước đó,
tháng 4 năm 1798, vụ Anh
quốc bắt giữ các tàu cá
nhỏ của ngư dân Pháp và
Hoà Lan, theo đúng pháp
lệnh của Toà án Tối Cao
của Hải Quân Anh (High
Court of Admiralty of
England) cho phép
bắt giữ các tàu ngư dân
Hoà Lan trên biển làm
chiến lợi phẩm chiến
tranh. Tuy rằng trong
thế kỷ 17 khi văn minh
nhân loại và pháp luật
quốc tế c̣n sơ khai, toà
án Anh quốc cũng đă công
nhận trong phiên toà xét
xử vụ bắt giữ các tàu cá
“the Young Jacob and
Johanna” rằng quyền
miễn bắt giữ các tàu ngư
dân dù không được quy
định trong bất cứ văn
bản pháp lư nào giữa các
nước liên hệ, tuy nhiên,
đây là một đặc quyền
miễn trừ được công luận
quốc tế công nhận từ
lâu, và được dựa trên
quy tắc giao tế hữu nghị
giữa các nước.[7]
Ngày 16/03/1801 khi
chính phủ Addington lên
nắm quyền tại Anh, đă
rút lại các pháp lệnh
ban hành trên của toà án
tiền nhiệm, và quyền tự
do đánh cá đă được tái
lập giữa Anh và Pháp.
Những năm sau đó, 1806
và 1810, chính phủ Anh
đă ra lệnh cấm tàu vũ
trang quân sự tuyệt đối
không được xâm phạm các
tàu đánh cá của ngư dân
các nước khác. Trong đặc
tập “Luật
Hàng Hải Về Việc Bắt Giữ
và Tịch Thu Chiến Phẩm”,
xuất bản 1815, của
Wheaton, đă ghi rơ: “Đây
là một quy định đă được
b́nh thường hóa trong
luật chiến tranh hàng
hải để miễn trừ không
bắt giữ các tàu đánh cá
và hàng hoá của họ. Quy
định này phát xuất từ cả
hai quan điểm: tương ứng
có lợi cho các nước láng
giềng đang giao tranh,
và từ sự quan tâm đến
những người dân nghèo
khó và cần cù”.[8]
Nguyễn Tấn Dũng có biết
nghĩ đến sự “nghèo khó”
và “cần cù” của ngư dân
nước ta để mỗi sáng
thành phố có cá tươi làm
thực phẩm, và nhà nước
có cá để xuất khẩu chăng
?
Quy luật bảo vệ tàu đánh
cá của ngư dân cũng đă
được Pháp và Ư tôn trọng
trong thời gian giao
tranh the Crimean war
năm 1859, và sau đó giữa
Pháp và Đức năm 1870.
Trong
Công Ước Hoà B́nh (Treaty
of Peace) giữa Hoa
Kỳ và Mễ Tây Cơ năm 1846
khi 2 nước này đang giao
tranh c̣n quy định rơ
hơn rằng ngay cả việc
bắt giữ ngư dân, hay gây
bất kỳ khó khăn nào cho
việc theo đuổi nghề
nghiệp trên biển của họ,
xâm phạm hàng hóa hay
nhà cửa của ngư dân đều
bị nghiêm cấm tuyệt đối.[9]
Thế th́ sinh mạng của
các ngư dân Việt Nam đă
bị giết, bị bắt cóc,
giam tù, thân thể tàn
phế, bệnh tật, tàu bè bị
huỷ hoại, phương tiện và
vốn liếng kiếm sống duy
nhất của cả gia đ́nh họ
đều bị tàu vũ trang của
Trung Quốc chiếm đoạt,
đ̣i chuộc ... liệu những
kẻ cầm quyền Việt Nam có
dám yêu cầu Trung Quốc
kư “công ước hoà b́nh”
cam kết tôn trọng và bồi
thường tổn thất nếu xẩy
ra, như Mễ Tây Cơ đă làm
với đại cường quốc láng
giềng Hoa Kỳ không ???
Luật hàng hải quốc tế đă
quy định quá rơ ràng sự
đặc miễn xâm phạm sinh
mạng, hàng hoá, tàu bè
của ngư dân vô tội ngay
cả trong thời gian giao
tranh, thế th́ tại sao
câu hỏi của Mẹ Nấm nêu
ra
“Ai
đang bám biển cùng ngư
dân?” và “Ai
đang bảo vệ ngư dân?”
đến nay vẫn không có câu
trả lời thoả đáng và
chưa có một hành động
bảo vệ chính thức nào từ
những kẻ lănh đạo đất
nước này? Phải chăng đă
đến lúc nhà cầm quyền
Việt Nam muốn 86 triệu
dân phải xuống đường để
tự bảo vệ lấy đất nước
của chính ḿnh trước sự
hung hăn ngày càng gia
tăng của Trung Quốc ?!!!
Ngày xuống đường ấy của
đại khối dân tộc gần hay
xa là tùy vào mức độ vô
năng và bất xứng của
những người lănh đạo !!!
Đặng Thanh Chi
Chú thích:
[1] The Hague
Convention of 1907,
Article 3 on Certain
Restrictions with
Regard to the
Exercise of the
Right to Capture in
Naval War, 36 Stat.
2396, T.S.No.544.
[2] Steiner et
al, “International
Human Rights In
Context: Law,
Politics, Morals”,
3rd ed. Oxford.
[3] Article 48
of Protocol No. 1 to
the Geneva
Conventions, adopted
in 1977.
[4] Article 54
entitled “Protection
of Objects
Indispensable to the
Survival of the
Civilian
Population”.
[5] The Paquette
Haban, Supreme Court
of the United
States, 1900. 175 US
677, 20 S.Ct 270.
[6] Takahashi,
International Law,
11, 178.
[7] Lord
Stowell’s judgment
in “the Young Jacob
and Johanna”, 1
C.Rob20.
[8] Wheaton,
“Digest of the Law
of Maritime Captures
and Prizes”,
Captures, chap. 2,
18, 1815, England.
[9] Treaty of
Peace between the
United States and
Mexico, 1848, 9
Stat. at L.939, 940.
Nguồn: Dân Làm Báo
<<trở về đầu trang>>