Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Lư Công Uẩn dời đô sang Tầu?
Ngô Nhân Dụng
Đại lễ Ngàn Năm Thăng
Long sắp khai mạc chính thức. Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản cho mở hội đúng
ngày quốc khánh của Trung Cộng, với một bộ phim dài về Lư Thái Tổ trong
đó ông vua khai sáng nhà Lư mặc y phục kiểu Tầu, bảnh bao như tài tử
Hồng Kông. Bộ phim thực hiện ở bên Tầu, các vai phụ tuyển toàn dân Trung
Quốc, phim do người Tầu sửa chữa kịch bản và dàn dựng, đạo diễn toàn bộ!
Người không hiểu nổi
tại sao quư quan cộng sản lại chọn bắt đầu kỷ niệm 1000 năm Thăng Long
vào ngày quốc khánh Trung Cộng. Lư Công Uẩn đă chính thức dời đô trong
tháng 7 âm lịch, chứ không phải đầu tháng 10.
Nhà toán học Ngô Bảo
Châu tháng 5 năm ngoái (2009) đă viết một bức thư gửi cho các đại biểu
Quốc Hội Việt Nam, về chuyện cho Trung Quốc khai thác mỏ bô xít ở nước
ta. Trong thư có đoạn: “Trung Quốc thực hiện chính sách ‘thực dân
mới’... Trong trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc
có thể kéo thêm hệ quả nguy hiểm sau đây: quan hệ hữu cơ vốn có của văn
hóa Trung Quốc với văn hóa Việt Nam trở thành đô hộ văn hóa.
Đất nước, con người, văn hóa Trung Quốc có
nhiều thứ để ta cảm phục và học tập.
Nhưng nếu ta rập khuôn theo
mô h́nh của họ, đi theo con đường họ đă đi, làm theo cái họ nói tức là
cái họ muốn, th́ ta chỉ nhận phần thiệt tḥi, c̣n bản sắc ta th́ tồn tại
được bao lâu. Vấn đề độc lập văn hóa, giữ ǵn bản sắc vô cùng hệ trọng,
xin quư vị lưu ư...”
Những nhận định của
ông Ngô Bảo Châu về vấn đề “quan hệ hữu cơ vốn có” giữa Việt Nam và
Trung Quốc và việc “giữ ǵn bản sắc dân tộc” đang là một chuyện thời sự
nhân vụ Lư Công Uẩn sang Tầu đóng phim. Thế kỷ 18, ông Lê Quưnh từ chối
không chịu kết tóc bím và bỏ đồ Việt Nam để mặc y phục Tầu, dù chịu áp
lực của nhà Thanh. Ông nói: “Đầu tôi có thể chặt nhưng tóc tôi không thể
đổi; da tôi lột ra được nhưng tôi không đổi áo.” Ngày nay, cộng sản Việt
Nam đưa vua Lư sang Tầu mặc y phục, mũ măo giống y như tài tử đóng vai
Tần Thủy Hoàng! Một dân tộc mất quặng mỏ, mất rừng, mất gỗ và mất môi
trường sống trong lành cũng không nguy hiểm bằng mất cả linh hồn, khi
bản sắc dân ḿnh không c̣n nữa.
Trước khi coi đầy đủ
cuốn phim Lư Công Uẩn này, cả nước đă uất lên v́ giận. Đây là âm mưu cho
Lư Công Uẩn dời đô một lần nữa, từ Việt Nam sang Trung Quốc! Một nhà
giáo trong nước phê b́nh: “Từ trang phục cho đến cảnh quan, từ áo măo
cho đến búi tóc, h́nh ảnh toát ra cho ta thấy: Đây là một phim Trung
Quốc; chẳng khác ǵ những phim lịch sử Trung Quốc khác mà đông đảo người
Việt Nam quen xem.” Trên Blog Gốc Xậy, trích dẫn nhận xét của đạo diễn
Bùi Thạc Chuyên: “Đây là một bộ phim Trung Quốc, không có ǵ để tranh
căi. Đạo diễn Trung Quốc, biên kịch Trung Quốc.” Một độc giả góp ư trong
blog: “Họ đă bôi nhọ lịch sử nước ta và coi thường dân trí” của người
Việt Nam! Có người tố cáo ông Trịnh Văn Sơn, một người bỏ tiền làm phim,
ngoài đời “rất tôn sùng Trung Quốc, toàn chê ngoài Việt Nam thôi.” Tên
ba bố con ông ghép lại thành tên Tôn Trung Sơn, quốc phụ nước Tầu từ năm
1911. Tên công ty của ông Sơn là “Công ty Cổ phần Truyền thông Trường
Thành.” H́nh logo của công ty này là cảnh “Đông phương hồng, mặt trời
lên” trên ngọn núi. Những lời tố giác này cũng hơi quá đáng. Bao nhiêu
lănh tụ cộng sản Việt Nam đă lấy tên Trung Hoa và đề cao thành tích của
người Trung Hoa. Ông Đặng Xuân Khu chẳng hạn. Việc ông đề cao cuộc Vạn
Lư Trường Chinh khi chọn bí danh có khác ǵ việc ông Sơn chọn tên Trường
Thành?
Những người làm cuốn
phim Lư Công Uẩn đă bênh vực các quan chức trong đảng, biện hộ rằng việc
thực hiện cuốn phim này hoàn toàn là do sáng kiến tư nhân, đảng và nhà
nước không can dự. Nếu cuốn phim có vẻ “Tầu” quá th́ những người bỏ tiền
làm phim chịu trách nhiệm, c̣n đảng cộng sản vô can. Các bộ trưởng, phó
thủ tướng chỉ ủng hộ đem phim lên chiếu ti vi sau khi nhận được quá cáp
mà thôi!
Nhưng nếu điều này là
sự thật th́ cũng chính là mối nguy hiểm lớn hơn nữa! Người ta tự động ỷ
lại vào Trung Quốc không cần Bộ Chính Trị yêu cầu. V́ người ta đă tập
nhiễm thói quen ỷ lại, hướng về Bắc Kinh từ thời 60 năm nay rồi!
Khi các nhà kinh doanh
văn hóa tính làm một cuốn phim biểu hiện tinh thần tự chủ của dân tộc
Việt Nam, mà họ chấp nhận giao phó cuốn phim đó cho người Trung Hoa làm
hộ một cách không dè dặt, không do dự, th́ trong đầu óc họ nghĩ ngợi thế
nào? Họ phải quen sống với một nếp suy nghĩ nào đó, th́ mới tự nhiên,
không ngần ngại, nhờ ngay các nhà đạo diễn, những nhà viết kịch bản
Trung Hoa làm giúp việc biểu hiện tinh thần dân tộc Việt Nam! Phải chăng
họ coi người Trung Hoa và người Việt cũng vậy, không có ǵ khác nhau cả?
Phải chăng v́ họ đă nghe quen những câu hát “Việt Nam Trung Hoa núi liền
núi sông liền sông” từ bao nhiêu năm nay rồi? Phải chăng v́ họ vẫn thuộc
ḷng những câu thơ Hồ Chí Minh “Mối t́nh thắm thiết Việt Nam-Hoa; Vừa là
đồng chí vừa là anh em” đọc khi tiễn đưa Lưu Thiếu Kỳ? (Hồ Chí Minh Toàn
Tập, cuốn số 11, từ trang 64 đến trang 76). Đă là đồng chí lại là anh em
th́ c̣n lo ǵ mà không nhờ “ông anh đồng chí” làm phim hộ? Mấy thế hệ
người Việt Nam đă được huấn luyện từ khi là học sinh mẫu giáo là phải
học tập Mao chủ tịch, noi gương Mao chủ tịch, ghi nhớ công ơn Mao chủ
tịch, vân vân. Cái tinh thần đó đă được thấm nhuần trong các đồng chí
như Trịnh Văn Sơn.
Trên mạng Tuyên Quang
Online, một bạn trẻ tên là Bạch Văn Cơ viết, từ năm 2007,
xem lại lịch sử các
phim ảnh thịnh hành, anh thấy: “Đầu những năm 90: điện ảnh Đài Loan.
Giữa những năm 90: điện ảnh Hồng Kông, Hàn Quốc. Từ đó đến nay: điện ảnh
Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan cùng ‘tổng tấn công.’”
Khán giả Việt Nam có
coi phim Đài Loan, Nam Hàn, Hồng Kông cũng chỉ để giải trí, có thể vô
hại. Nhưng khi một nước Việt Nam muốn làm cuốn phim kỷ niệm một năm đại
lễ của dân tộc, mà lại phải đi cầu viện năng khiếu nghệ thuật của người
Trung Quốc, giao khoán cho họ kể chuyện tổ tiên ḿnh, th́ đó là quốc sỉ.
Nó cho thấy tinh thần nô lệ về văn hóa đă nhiễm vào đầu óc nhiều người
quá rồi, đă thành một phản xạ, một tập quán tự nhiên.
Từ khi Hồ Chí Minh tái
lập đảng Cộng Sản năm 1950, 51, ông nhập cảng tư tưởng Mao Trạch Đông,
cho vào cương lĩnh của Đảng Lao Động. Quá tŕnh nô lệ văn hóa bắt đầu.
Đây là một giai đoạn nô lệ mới, khác với thời kỳ 1000 năm từ thế kỷ thứ
nhất khi Mă Viện sang chiếm nước ta, v́ do một đảng lănh đạo nước Việt
Nam tự nguyện theo người Hán. Lư Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, c̣n Hồ
Chí Minh dời bộ óc người Việt Nam sang bên Tầu, để được nhuộm đỏ theo tư
tưởng Mao! Câu thơ Chế Lan Viên viết: “Bác Mao không ở đâu xa - Bác Hồ
ta đó chính là Bác Mao” được lưu truyền, cho thấy Hồ Chí Minh rất hănh
diện được ví như một ông “Mao nội hóa,” một ông “Mao con.” Nếu không
đồng ư với Chế Lan Viên th́ chắc Hồ đă cấm không cho phổ biến hai câu
thơ này!
Mối họa đồng hóa từ
giữa thế kỷ 20 bắt đầu với ông Hồ, người đă không ngần ngại tuyên bố
không cần viết sách nào về chủ nghĩa Mác nữa, v́ tất cả những ǵ cần nói
đă có bác Mao viết hết rồi!
Nhưng “Tư tưởng Mao
Trạch Đông” là ǵ? Đó không phải chỉ là việc khai thác và áp dụng lư
thuyết Mác xít mà thôi. Đó chính là một sản phẩm của nền văn hóa độc đáo
Hán tộc. Như Ngô Bảo Châu nhận định: “Đất nước, con người, văn hóa Trung
Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập. Nhưng nếu ta rập khuôn theo
mô h́nh của họ, đi theo con đường họ đă đi, làm theo cái họ nói tức là
cái họ muốn,” th́ ta sẽ mất hết bản sắc của ḿnh. Nói vậy chưa đủ. Phải
nói: Nếu rập khuôn theo mô h́nh Mao chủ tịch th́ người Việt Nam sẽ tự
tiêu diệt bản sắc của nước ḿnh. V́ Mao là một sản phẩm của văn hóa
người Hán. Hai dân tộc Việt và Hán sống trong những điều kiện địa lư,
lịch sử khác nhau, các kinh nghiệm, truyền thống văn hóa khác nhau nhiều
lắm. Họ không thể bắt chước ḿnh mà ḿnh cũng không thể theo họ được.
Tư tưởng chính trị
Trung Hoa, mà Mao Trạch Đông là một đại biểu sáng chói, thích hợp với
một chế độ cường quyền tập trung, áp dụng trên một quốc gia quá rộng lớn
và quá đông dân, so với nước Việt Nam ta. Việt Nam sống trên một “bán
đảo” giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Từ 3000 năm trước dân
ḿnh lại sớm ḥa nhập với nền văn minh của các sắc dân Nam Á và Nam Đảo.
Người Việt Nam có thể chấp nhận quyền b́nh đẳng Nam Nữ v́ ảnh hưởng văn
minh Nam Đảo; có thể bao dung chế độ xă thôn tự trị; sống với nhau vừa
t́nh vừa lư, vua quan và dân chúng gần gũi nhau. Người Trung Hoa không
thể “linh động,” “xuề x̣a” hoặc “chín bỏ làm mười” như vậy.
Thời Nguyễn Ánh đă lầm
lớn, khi Nguyễn Văn Thành sao chép bộ luật nhà Thanh soạn thành luật Gia
Long, áp dụng ở nước ta. Những luật lệ đó khắc nghiệt, coi khinh phụ nữ,
dọa nạt, đàn áp dân, để củng cố chế độ tập trung quyền hành của người
Măn trên nước Trung Hoa. Áp dụng lối cư xử đó vào Việt Nam, khiến dân
chúng oán thoán, nhất là dân Bắc Thành, nơi trước đó chỉ áp dụng đạo
luật Hồng Đức nhà Lê. Cho nên, hơn nửa thế kỷ sau khi người Pháp sang
xâm chiếm, dân ngoài Bắc đă hờ hững không ai muốn chết để bảo vệ vua
quan nhà Nguyễn. Một tên “gác dan tu viện” như Nguyễn Văn Phụng được các
cố đạo Pháp đưa từ Ma Cao về, đổi tên là Lê Văn Phụng, cũng thu hút được
nhiều người theo, v́ dân đang chán chế độ và c̣n tưởng nhớ nhà Lê. Việc
Hồ Chí Minh nhập cảng tư tưởng Mao Trạch Đông vào dùng ở nước ta, ghi
trong cương lĩnh đảng Lao Động từ năm 1950, cũng sai lầm y như luật Gia
Long vậy. Nó bắt người Việt Nam sống như lối người Tầu, gây căm thù,
chia rẽ dân tộc, đối xử với nhau theo đường lối của các cố vấn Trung
Quốc.
Những cuốn sách gối
đầu giường của Mao không phải là sách của Karl Marx. Mao thường mang bên
ḿnh bộ Tư Trị Thông Giám của Tư Mă Quang, bộ lịch sử các triều đại
Trung Hoa diễn tả theo quan điểm Tống Nho tôn quân quyền tuyệt đối. Tư
tưởng Mao Trạch Đông thích hợp với nước Trung Hoa lúc đó đang chờ một
bạo chúa ra tay “b́nh thiên hạ” bằng cách “sát nhất nhân vạn nhân cụ.”
Nhưng chính sách, đường lối đó hoàn toàn trái ngược với phong tục, tập
quán, nền nếp văn hóa của người Việt