Video Tài Liệu | Audio Tài Liệu | Nhạc | Tin Tức & Thời Sự | B́nh Luận |
Sao anh nỡ đành quên
Nguyễn Phúc Bảo Ân
Từ
thuở hồng hoang, khi con
người c̣n ăn lông ở lổ, loài
chó đă trở thành một trong
những người bạn thiết thân.
Ban đầu loài cho hoang chỉ
mon men đến gần nơi trú ngụ
của những bầy đàn người, để
ban ngày th́ ăn mót những
mẫu thịt thừa, xương cặn,
tối đến th́ được sưởi ấm từ
những bếp than hồng mà con
người dùng để giữ lửa, để
ngăn thú dữ, và cũng để giữ
ấm cho “ngôi nhà”,…. Dần dà
các thế hệ chó mẹ đẻ chó con
rồi hậu duệ của đàn chó
hoang thuở nào trở nên quấn
quưt với loài người khi được
loài người cho ăn no ngủ ấm,
để dáp lại ân nghĩa của con
người. Loài chó cũng tận sức
tận lực giúp con người trong
việc t́m kiếm nguồn thức ăn
qua công việc săn bắt thú
rừng cũng như cảnh báo cho
con người biết mỗi khi có
thú dữ.
Đối với người Việt, một dân
tộc phát tích, tồn tại cho
đến ngày nay từ nền văn minh
lúa nước, ngoài “con trâu là
đầu cơ nghiệp” ra th́ loài
chó cũng gắn bó với người
Việt bao đời nay, ngoài công
việc săn bắt thú rừng, chó
c̣n trông nhà giữ cửa khi
chủ nhà đi vắng, và thêm một
“thiên chức” cao cả khác là
làm công tác vệ sinh mỗi khi
con cái chủ nhà bị tháo dạ.
Người Việt, yêu mến loài chó
không những bởi tính mẫn cán
này của họ hàng nhà chó, bởi
thịt chó là món khoái khẩu
với nhiều người, “sống trên
đời ăn miếng giồi chó, biết
khi chết rồi c̣n có hay
không”, và bởi theo người
Việt th́ loài cho vốn giàu
t́nh cảm, trung thành và có
trí nhớ tốt. Chẵng thế mà
người Việt đă đúc kết một
kinh nghiệm đă bao đời
truyền tử lưu tôn rằng:
“Lạc đàng nắm đuôi chó,
lạc ngơ nắm đuôi trâu”.
Tất nhiên ông cha chúng ta
chỉ tích lũy được những kinh
nghiệm đó bằng những ǵ họ
được thấy, được nghe, chứ
không phải từ một công tŕnh
nghiên cứu nào về đời sống
và tập tính của loài chó để
hiểu rằng tất cả những biểu
hiện, những hành vi của loài
chó mà người Việt chúng ta
cho là “ḷng trung thành”
hay “trí nhớ tốt” thực ra
chỉ là tập tính, là bản năng,
chứ không phải là trí tuệ.
Xứ Huế của
tôi có thể xem là xứ sở của
đạo Phật bởi mỗi phi tần của
Nguyễn Triều, sau khi tiên
đế qua đời, th́ đều phải
xuất cung về các làng xă
liên cận với hoàng thành,
xây dựng cho ḿnh một ngôi
chùa và tu tập cho đến ngày
quy tiên chứ đă từng tiến
cung làm cung phi mỹ nữ rồi,
th́ không được phép tái giá,
chính v́ vậy mà ở Huế quê
tôi dù đất hẹp người thưa,
nhưng hiện có trên 3000 ngôi
chùa và niệm Phật đường lớn
nhỏ, và cho dù người dân Huế
có làm phép quy y hay không,
nhưng hễ thờ cúng ông bà th́
họ tự cho ḿnh là đạo hữu,
là Phật tử. V́ vậy mà ở Huế
thật hiếm có người ăn thịt
chó, hiếm có những quán “cầy
tơ” như ở đất Bắc, hay ngoài
xứ Nghệ, và ở xứ Huế quê tôi,
những người từng ăn thịt chó
thường bị cư dân địa phương
xem như là một thành phần hạ
tiện trong xă hội, và dẫu
người đó là một quan quyền
hay một chức sắc th́ dân
chúng cũng không dành cho
bất cứ một sự trọng thị nào
như phong tục của người dân
xứ kinh kỳ. Nếu có một ai
nào đó làm thịt chó th́ sẽ
gây xôn xao từ làng trên đến
xóm dưới, già trẻ gái trai
xúm lại xem người ta giết
chó, như thể đi xem phường
tṛ, và nhiều câu chuyện
được thêu dệt chung quanh
ḷai chó và việc giết thịt
chó. Câu chuyện được truyền
tụng nhiều lần hơn cả là
chuyện một chàng trai xứ
Nghệ đi bộ đội vào đóng quân
ở Huế, rồi phải ḷng một cô
gái địa phương vậy là chàng
trai đào ngũ để “xây dựng”
với cô gái Huế, anh ta nuôi
khá nhiều chó để mỗi khi có
họ mạc ở quê nhà vào thăm,
th́ giết thịt và đăi khách
quê hương bằng của hiếm hoi
của chốn kinh kỳ. Một lần nọ,
có khách từ xứ Nghệ vào thăm,
anh ta cũng giết thịt chú
chó nhà để đăi khách như bao
lần. Với chiếc chày vồ trong
tay, anh ta giáng một đ̣n
chí tử vào đầu con chó khiến
đôi mắt pḥi ra, nhưng con
chó vẫn c̣n kịp chui xuống
gầm giường kêu la thảm thiết.
Không thể chui vào gầm
giường để kết liễu đời con
chó, anh bộ đội nắm bàn tay
lại như thể đang cầm nắm xôi,
hết gọi tắc tắc lại chu mồm
huưt sáo. Nghe tiếng chủ gọi,
dù đôi mắt đă lọt hẳn ra
ngoài, không c̣n nh́n thấy
ǵ nữa, nhưng nghe tiếng gọi
thân quen, chú chó đáng
thương cũng định hướng được
vị trí của chủ nhà, vừa rên
ư ử, vừa cố chút sức tàn
trườn đến, vẫy tít chiếc
đuôi như cố báo hiệu với
“ông chủ” là tôi đây, tôi
đây. Và lần này, không để
mất cơ hội lần nào nữa, với
chiếc chày vồ vụt tới tấp
lên đầu lên gáy, chú chó ự
lên mấy tiếng thương đau rồi
trút hơi thở cuối cùng, và
không lâu sau đó, khách và
chủ vui say qua những chén
tạc, chén thù với món thịt
cầy tơ bảy món…
Những người
dân quê tôi mục thị cảnh này,
kẻ th́ nguyền rủa anh chủ
nhà gian ác, người th́ khen
ngợi chú chó trung thành, dù
vừa mới bị chủ giáng cho một
chiếc chày vồ lên đầu đến
thừa chết thiếu sống, vậy mà
khi thấy chủ vờ cho một vắt
xôi và cất tiếng gọi th́ đă
ngoáy tít chiếc đuôi và
trườn đến với chủ… Riêng tôi
lúc bấy giờ thực sự không
hiểu nổi chú chó này v́ quá
mức trung thành với chủ hay
v́ có tính mau quên để phải
vong thân như vậy?
Sự việc trên đă xảy ra non 3
thập kỷ rồi, bỗng nhiên mọi
chi tiết lại hiện về mồn một
trong kư ức của tôi khi gần
đây từ ngày 21 đến ngày 23
tháng 11 vừa qua một đại hội
thật “hoành tráng” của 1000
người Việt ở nước ngoài vừa
diễn ra tại Hà nội, bởi cho
dù quư đại biểu Việt kiều
là người Nam hay người Bắc
cũng đều đă phải bỏ nước ra
đi v́ một lư do rất chung
bởi họ đều là nạn nhân của
chế độ cộng sản. Nếu xuất
thân từ đất Bắc hẳn họ biết
quá rơ về những chiếc chày
vồ trí mạng mà đảng và nhà
nước cộng sản đă giáng lên
đầu thân nhân và đồng bào
của họ qua chính sách tiêu
thổ kháng chiến khiến
hơn
hai triệu đồng bào đă bị
chết đói vào tháng ba, năm
Ất Dậu 1945, rồi
những vụ đấu tố trong cải
cách ruông đất từ 1953 cho
đến 1956 khiến hàng trăm
ngàn nông dân miền Bắc phải
thiệt mạng chỉ v́ ông cha
của họ đă lưu truyền cho gia
đ́nh họ hơn 5 sào ruộng.
Chắc họ biết rơ hơn 1 triệu
đồng bào miền Bắc đă v́ kinh
hoàng với những tội ác của
cộng sản mà phải rời bỏ bờ
tre gốc lúa, quê hương bản
quán ở đất Bắc để di cư vào
nam vào năm 1954, và hơn 3
triệu đồng bào khác cũng đă
bị đe dọa, bị ngăn chặn khi
trên đường di cư, rồi phải ở
lại đất Bắc để chịu đựng
những năm tháng đọa đày nơi
địa ngục trần gian ấy bởi họ
đă trót mang tư tưởng di cư
vào nam để theo lủ "Tề-Ngụy
Điệp" mà “âm mưu chống lại
Bác và Đảng”.
Vâng, dẫu họ vẫn c̣n sống
sót để có cơ hội trở thành
“khúc ruột ngàn dặm”, nhưng
chắc họ vẫn c̣n nhớ với chủ
trương “giết lầm hơn bỏ sót”
với khẩu hiệu “TRÍ PHÚ ĐỊA
HÀO, ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN
NGỌN” hàng ngàn, hàng ngàn
sỹ phu Bắc Hà cùng với các
tiểu thương, các công chức ở
đàng ngoài đă bị hành h́nh
hoặc bị hạ phóng. C̣n nếu
những đại biểu Việt kiều là
những người sinh ra và lớn
lên từ bên nay bờ Bến Hải
th́ chắc họ vẫn chưa thể
quên biến cố tết Mậu thân
với hơn 7,000 đồng bào vô
tội ở Huế bị thảm sát bằng
h́nh thức đập đầu hoặc chôn
sống! Chắc họ vẫn c̣n nhớ
mùa hè đỏ lửa 1972 với hơn
15.000 đồng bào Quảng Trị đă
bị đă bị đại pháo của cộng
quân nghiền nát như thịt bằm
trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” dài
non 10km! Dù các đại biểu
Việt kiều đến được bến bờ tự
do bằng đường biển hay đường
bộ th́ chắc họ vẫn c̣n nhớ
những ngày hăi hùng kinh
khiếp đối mặt với băo tố
phong ba hay hải tặc giữa
đại dương, với nhiều thuyền
nhân phải ăn thịt người chết
để được sống, với những
thuyền nhân đă bị cướp, bị
hăm hiếp, những thuyền nhân
phải tự thiêu, phải treo cổ
tự sát ngay sau khi bị Cao
Ủy Tỵ Nạn từ chối tư cách tỵ
nạn và cả với hơn 70 % những
thuyền vượt biên không đến
được bến bờ, để một số trở
thành tù nhân trong các trại
lao cải v́ tội “phản quốc”,
để các nữ tù vượt biên bị
cán bộ quản giáo hăm hiếp,
và nhiều, rất nhiều triệu
thuyền nhân đă phải vĩnh
viễn nằm lại dưới ḷng biển
lạnh!
Thưa quư đại biểu Việt Kiều,
“Quân tâm khả cảm uyên biên
ngộ
Kư tế thời hồi, vị tế ưu”
Vâng, phàm là một đấng Quân
Vương dẫu đă đăng quang ngôi
vua rồi, cũng phải luôn canh
cánh trong ḷng những nổi lo
âu khi khi chưa giành đựơc
ngôi báu. Phàm là quân tử dù
đă qua được bên kia sông rồi
vẫn phải luôn nhớ đến những
nổi lo sợ, hăi hùng khi
thuyền đang tṛng trành giữa
ḍng sóng nước!
Vâng, thưa quư vị đại biểu
Việt kiều,
“Chưa đi đảng gọi Việt gian
Đi rồi đảng lại chuyển sang
Việt Kiều
Chưa đi, phản động trăm điều
Đi rồi, khúc ruột đáng yêu
ngh́n trùng”….
Từ sau đại hội người Việt nam định cư ở nước ngoài lần thư nhất đó, đă có nhiều bài báo viết về những “dự mưu” của đảng và nhà nước cộng sản Việt nam về việc tổ chức “Hội Nghị Việt kiều yêu nước” này. Là một thần dân của nước CHXHCN Việt nam, hàng ngày vẫn phải đọc, phải nghe những chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về các chiến lược nhằm “đối phó với âm mưu diễn biến ḥa b́nh của đế quốc Mỹ là bè lũ người Việt phản động lưu vong ở nước ngoài”, qua bài này người viết chỉ mong được bày tỏ nổi băn khoăn của ḿnh rằng tội ác của cộng sản vẫn c̣n nguyên đó, mà sao anh nỡ đành quên?
Huế, Mùa Vọng Thứ Nhất, năm
2009
Nguyễn Phúc Bảo Ân