Quốc Hội Thành Quốc Hại
Vi Anh
Chữ
quốc hội và quốc hại chỉ khác nhau
có một vần. Quốc hội trên lư thuyết
là cơ quan quyền lực tối cao trên
giấy trắng mực đen của Hiến pháp
VNCS. Nó trở thành quốc hại khi thực
hiện như là cơ quan của đảng, v́
đảng, do đảng CS Hà nội. Giống như
quyền tự do đi lại qui định rơ ràng
trong hiến pháp nhưng trên thực tế
nhiều văn kiện dưới hiến pháp và
dưới luật trên thực tế đă buộc người
dân Việt ở phải có hộ khẩu, đi đứng
phải có giấy tạm vắng, tạm trú của
công an. Nếu không có hộ khẩu con
người Việt Nam coi như sanh vô gia
cư, tử vô địa táng. Thế mà chưa thấy
một "đại biểu nhân dân nào" dám đặt
vấn đề vi hiến của những "văn kiện
dưới luật" này của công an Việt
Cộng. Cũng như khẩu hiệu "Đảng lănh
đạo, Nhà Nước quản lư, Nhân dân làm
chủ Đất nưóc "û, khi đem vào thực
tiễn cuộc sống trở thành "Đảng lănh
đạo Nhà Nước, quản lư Nhân dân, làm
chủ Đất Nước"; Đảng CS Hà nội không
cần dời dấu phết chi cho mất công mà
vẫn trở thành chủ nhân ông thực tế
của cả Nhà nuớc, Nhân dân, và Đất
nước một ḿnh ênh.
Không oan uổng cho cái gọi là quốc
hội đă trở thành quốc hại này trong
chế độ CS Hà nội khi kiểm điểm một
vài quyết định thuộc quyền lợi sanh
tử của quốc gia, dân tộc VN mà cơ
quan gọi là quyền lực tối cao trên
lư thuyết này đă làm -- tưởng như
giỡn chơi vậy.
Cái gọi là Quốc Hội đă quốc hại khi
câm như hến trước việc Thủ Tướng
Phạm văn Đồng kư gởi "Công hàm bán
nước", triều cống hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Tổ quốc VN cho
TC. Bộ Chánh Trị của Đảng CSVN kư
hiệp định biên giới dâng cho TC 1000
km2 đất vùng biên giới năm 1958. Mất
Aûi Nam Quan mà tất cả cán bộ đảng
viên đều có học một câu có giá trị
lịch sử, điạ lư bất biến mà người
Việt Nam nào cũng học trong Quốc Văn
Giáo Khoa Thư, nước VN h́nh chữ S,
từ Aûi Nam Quan đến mũi Cà Mau. Hiệp
định lănh hải đă dâng cho TC 10.000
km2, phân nửa Vịnh Bắc Việt năm
2000. C̣n Hiệp ước Việt-Trung về
Vịnh Bắc bộ và Nghị định thư về hợp
tác đánh cá trong Vịnh Bắc Việt -
những quyền lợi sanh tử của đất nước
ông bà VN để lại, th́ cái gọi là
Quốc hội thông qua không thảo luận,
nhanh như chớp trong phiên họp bế
mạc, với số phiếu 424 thuận, 1 chống
và 8 không có ư kiến. "Và Nghị quyết
23/QH11/2003 "về nhà đất do Nhà nước
đă quản lư, bố trí sử dụng trong quá
tŕnh thực hiện các chính sách quản
lư nhà đất và chính sách cải tạo xă
hội chủ nghĩa trước ngày 01-07-1991"
th́ cái gọi là Quốc Hội thông qua
nhanh như cướp vậy.
Về vấn đề TC khai thác bauxite tàn
phá môi sinh, văn hoá đồng bào
Thượng ở Cao Nguyên và nguy hiểm cho
an ninh quốc pḥng VN, Đảng Nhà Nước
CS triều cống cho quan thấy TC, dấu
kín như đúc. Đến khi quân dân Tàu
đem xe, máy, người vào như chỗ không
người, người Việt phản ứng mạnh. Các
cựu và đương kim tướng lănh CS Hà
nội "kiến nghị.” Hàng trăm trí thức,
văn nghệ sĩ trong ngoài nước "kiến
nghị" gởi Quốc Hội xin đưa vấn ra
trước Quốc hội và mọi chủ trương
liên quan phải được Quốc hội quyết
định; xin Quốc Hội chính thức dừng
ngay lại, có giám sát chặt chẽ cho
tới khi Quốc hội xem xét toàn bộ báo
cáo tiền khả thi và đưa ra những phê
chuẩn thích hợp". Đây là cơ hội bằng
vàng để Quốc Hội có thể lấy thế nhân
dân giành quyền lập pháp, giám sát
chánh phủ lại. Thế nhưng trong cuộc
họp báo do Văn pḥng Quốc hội tổ
chức chiều 18-5 giới thiệu về kỳ họp
Quốc hội thứ 5 khóa XII, ông Trần
Đ́nh Đàn, chủ nhiệm Văn pḥng, đă
tĩnh bơ như người "Hà lội", tuyên bố
rằng Quốc hội hoàn toàn ủng hộ chủ
trương khai thác bauxite, lập lại
lời của Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng,
khai thác bauxite là chủ trướng
"lớn" của Đảng.
Hành động của cái gọi là quốc hội
thành quốc hại đó rất dễ hiểu. Đảng
đă "cơ cấu" 95% đại biểu nhân dân
phải là người đảng viên. Mặt Trận Tổ
Quốc cúc cung tận tụy phục vụ Đảng
hơn, sàng lọc, dàn dựng sau khi "
Đảng cử dân bầu", tỷ lệ đảng viên
tăng cao hơn "cơ cấu" của Đảng. Với
đa số tuyệt đối đó, "đại biểu nhân
dân (từ CS chỉ dân biểu ) ngoài đảng
dù có tài thánh cũng không làm ǵ
được cho dân.
Đại biểu nhân dân ăn cơm Chuá là
Đảng CS phải múa tối ngày cho Đảng.
Đảng viên CS làm "đại biểu nhân dân"
phải thảo luận biểu quyết theo lịnh
đảng v́ kỷ luật đảng CS là kỷ luật
sắt. Chớ không như của chánh đảng
của xứ tự do, dân biểu có thể thảøo
luận, biểu quyết khác chủ trương
Đảng, Đảng và quần chúng không coi
đó là hành động phản đảng v́ quan
niệm quyền lợi của quốc dân cao hơn
Đảng.
Đại biểu nhân dân trong cái gọi là
quốc hội của VC, đó không hạn kỳ làm
đại diện dân nên sống lâu lên lăo
làng trở thành quan dân biểu, mất
quan điển quần chúng. Lại c̣n kiêm
nhiệm chức vụ Nhà Nước nữa. Trong
491 thành viên của Quốc Hội có
khoảng 75% kiêm nhiệm thêm những
công việc khác trong các cơ quan
Đảng, các tổ chức chính trị, đoàn
thể thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vừa bận với công tác kiêm nhiệm vừa
lo ngại nhiều cái ghế của ḿnh, vừa
không thời gian gặp gỡ cử tri, nên
chẳng đại biểu nào có thời gian theo
dơi, nghiên cứu, trong khi các vấn
đề lập pháp kinh tế, chánh trị, tài
chánh, văn hoá, xă hội, thường rất
phức tạp và nhiêu khê và chuyên môn.
Trong cái mớ ḅng ḅng các dự luật,
nghị tŕnh với nhiều vấn đề đa dạng
đối với đại biểu nhân dân quá bận
với công việc kiêm nhiệm ngoài quốc
hội, Đảng qua văn pḥng thường trực
của cái gọi là Quốc Hội c̣n sử dụng
những xảo thuật nghị trường. Không
gởi tài liệu trước đủ thời gian để
đại biểu nghiên cứu khi thảo luận.
Thiếu thông tin về t́nh h́nh đất
nước, nếu có tin đại đa số là tin
của Đảng Nhà Nước dàn dựng v́ 700 tờ
báo trong nước chỉ cho 1 tổng biên
tập là Đảng CS, 16,000 nhà báo chỉ
có một ông chủ cũng là Đảng CS.
Nên khi thảo luận hay chất vấn đa số
tỏ vẻ tự ti mặc cảm đối với nhân
viên chánh phủ và đảng, kính kính,
thưa thưa, cám ơn, cám đức, bào chữa
cho Đảng, Chánh phủ như thần tử đối
với long nhan.
Và từ đó quốc hội trở thánh quốc hại
trong chế độ CSVN, từ khi thành h́nh
cho đến bây giờ. Nó phù họp với cái
nh́n của những nhà độc tài toàn trị.
Nhưng nó là một cơ quan ngoại vi,
một thứ đảng cử dân bầu để hợp thức
hoá, quần chúng hoá ư và lịnh của
Đảng, một cánh tay làm lợi cho đảng
độc tài, làm hại cho quốc gia dân
tộc.
VI ANH