Phương hướng đối thoại và hợp tác của Giáo Hội tại Việt Nam với Nhà Nước
Bài phát biểu của Đức giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc tại buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ Nguyễn Văn B́nh, ngày 28-11-2009. Bài này nhằm khai triển một khía cạnh khá nhạy cảm, nhưng cần phải được nói rơ cho mọi thành phần của Dân Chúa tại Việt Nam, đó là khía cạnh tương quan giữa Giáo hội tại Việt Nam với Nhà Nước trong hoàn cảnh hiện nay.
													
													
													Anh chị em thân mến,
													
													1. Trước hết, tôi xin nói 
													lên một vài cảm tưởng và suy 
													nghĩ khi lắng nghe và đọc đi 
													đọc lại Huấn từ của Đức 
													Thánh Cha. Cảm tưởng đầu 
													tiên của tôi là rất vui mừng, 
													v́ bài Huấn từ đáp ứng lại 
													một cách tuyệt vời sự chờ 
													đợi của các giám mục Việt 
													Nam. Quả thật chúng tôi cần 
													sự hướng dẫn cụ thể của Toà 
													Thánh trong một hoàn cảnh 
													rất tế nhị, mà chỉ một va 
													vấp nhỏ cũng có thể mang đến 
													thiệt hại to lớn cho Giáo 
													Hội và Đất Nước.
													
													
													Nội dung của bài Huấn từ 
													không dừng lại b́nh diện lư 
													thuyết, mà c̣n đưa ra những 
													hướng dẫn thực hành cụ thể. 
													Điều quan trọng là bài Huấn 
													từ đă vạch ra cho chúng tôi 
													một phương hướng rất rơ, xác 
													định tương quan cụ thể giữa 
													Giáo hội tại Việt Nam với 
													Nhà Nước: đối thoại và 
													hợp tác lành mạnh để phục vụ 
													sự phát triển con người toàn 
													diện và sự phát triển của 
													Đất Nước (x. HT, đ.6, 
													đ.7).
													Phương hướng này hoàn toàn 
													phát xuất từ Tin Mừng và dựa 
													trên Tin Mừng của Chúa Kitô 
													về T́nh yêu Cứu độ của Thiên 
													Chúa: “Tôi đến để cho chiên 
													được sống và được sống dồi 
													dào” (Ga 10, 10 b).
													“Khi loan báo Tin mừng 
													Chúa Kitô, là sứ mạng đặc 
													thù của ḿnh, Giáo hội đóng 
													góp vào việc phát triển nhân 
													bản và thiêng liêng của con 
													người, nhưng cũng đồng thời 
													đóng góp vào sự phát triển 
													của Đất Nước. Việc tham gia 
													vào tiến tŕnh này là một 
													bổn phận và một đóng góp 
													quan trọng, nhất là vào thời 
													điểm mà Việt Nam đang dần 
													dần mở ra với Cộng đồng quốc 
													tế” (x. HT, đ. 6).
													2. V́ một số lư do, có người 
													bi quan về quan hệ giữa Giáo 
													Hội và Nhà Nước. Đức Thánh 
													Cha biết rơ như vậy, nhưng 
													vẫn khẳng định cùng với 
													chúng tôi và cho chúng tôi 
													rằng một sự hợp tác lành 
													mạnh và trung thực giữa Giáo 
													hội và Cộng đồng chính trị 
													là điều có thể thực hiện 
													được (x. HT, đ.7). Và mục 
													tiêu của sự hợp tác đó là 
													nhằm phục vụ tất cả mọi 
													người dân. Sự hợp tác dù có 
													khó khăn, vẫn là con đường 
													tốt nhất và phù hợp nhất để 
													Giáo Hội dấn thân theo đúng 
													tinh thần Tin Mừng.
													“Giáo Hội mời gọi mọi 
													phần tử của ḿnh dấn thân 
													cách trung thực nhằm xây 
													dựng một xă hội công bằng, 
													liên đới và phù hợp với lẽ 
													phải. Giáo Hội không hề muốn 
													thay thế Chính quyền, nhưng 
													chỉ mong rằng trong tinh 
													thần đối thoại và hợp tác 
													tôn trọng lẫn nhau, Giáo Hội 
													dự phần chính đáng vào đời 
													sống của Đất Nước, nhằm phục 
													vụ tất cả mọi người dân. 
													Trong khi tham gia cách tích 
													cực, ở vị trí thuộc về ḿnh, 
													và theo ơn gọi đặc thù của 
													ḿnh, Giáo Hội không bao giờ 
													miễn trừ cho ḿnh việc thực 
													hành bác ái xét như hoạt 
													động có tổ chức của các tín 
													hữu” (x. HT, đ.7). 
													
													Với kinh nghiệm 2000 năm 
													lịch sử của Giáo Hội, với 
													đường hướng mục vụ của Công 
													đồng Vatican II trong Hiến 
													chế Vui mừng và Hy vọng
													và sự vận dụng cụ thể 
													Học thuyết xă hội của Giáo 
													Hội, kể cả thông điệp mới 
													nhất là “Caritas in 
													Veritate”, Đức Thánh Cha 
													đă đưa ra những hướng dẫn 
													hết sức quư báu và cụ thể, 
													đầy t́nh thương và sự khôn 
													ngoan, thiết thực và có lợi 
													cho việc loan báo Tin Mừng 
													của Giáo Hội tại Việt Nam, 
													cho sự phát triển toàn diện 
													của con người và Đất nước 
													Việt Nam.
													3. Bài Huấn từ của Đức Thánh 
													Cha chứng tỏ ngài biết về 
													Giáo Hội tại Việt Nam rất 
													nhiều và rất rơ, ngài yêu 
													mến Giáo Hội Việt Nam một 
													cách đặc biệt. Ngài đánh giá 
													một cách khách quan t́nh 
													h́nh của Giáo Hội và xă hội 
													tại Việt Nam, dựa vào đó đưa 
													ra những lời khuyên vừa phù 
													hợp với Tin Mừng, vừa đáp 
													ứng với hoàn cảnh cụ thể. 
													Ngài nhắc các giám mục chú 
													tâm đến việc đào tạo giáo 
													dân cho tốt bằng cách phát 
													huy đời sống đức tin và 
													tŕnh độ văn hoá của người 
													giáo dân để họ có thể phục 
													vụ Giáo Hội và xă hội một 
													cách hữu hiệu (x. HT, đ.4).
													
													
													Đức Thánh Cha tỏ ra hết sức 
													trân trọng đối với Hội đồng 
													giám mục Việt Nam, khi ngài 
													trích dẫn một phần giáo huấn 
													của HĐGMVN trong hai văn 
													kiện: văn kiện mới nhất của 
													HĐGMVN là Thư mục vụ năm 
													2008 về Môi trường Giáo 
													dục gia đ́nh công giáo, 
													và văn kiện của Khoá Đại hội 
													đầu tiên của HĐGMVN thống 
													nhất cho cả hai miền Nam 
													Bắc, là Thư Chung năm 
													1980. 
													
													Ngài không trích dẫn Thư 
													Chung năm 1980 một cách 
													khuôn sáo, nhưng nắm bắt và 
													vạch ra ư tưởng chính yếu 
													trong thư là “nhấn mạnh 
													đến Giáo Hội của Chúa Kitô 
													giữa ḷng Dân tộc của ḿnh” 
													(x. HT, đ.6). Ở đây phải 
													hiểu là Giáo Hội tại Việt 
													Nam giữa ḷng Dân tộc Việt 
													Nam. Thành ngữ “Giáo Hội 
													Việt Nam” mà chúng ta vẫn 
													quen dùng là một cách nói 
													tắt của một thành ngữ khác, 
													đầy đủ và chính xác hơn, đó 
													là “Giáo Hội của Chúa Kitô 
													tại Việt Nam”. Giáo Hội của 
													Chúa Kitô tại một quốc gia 
													nào th́ ở trong ḷng Dân tộc 
													Quốc Gia ấy.
													4. Một điều nữa mà chúng ta 
													cần lưu ư là Đức Thánh Cha, 
													vừa như muốn nhắn nhủ chúng 
													ta, vừa như muốn ngỏ lời với 
													Nhà Nước Việt Nam, về sự 
													hiện diện tích cực của các 
													tôn giáo, trong đó có đạo 
													Công giáo. Ngài nói: “Phải 
													nhấn mạnh rằng các tôn giáo 
													không gây ra mối nguy hiểm 
													cho sự đoàn kết quốc gia, v́ 
													tôn giáo nhằm giúp đỡ cá 
													nhân thánh hoá chính ḿnh 
													và, qua các tổ chức của 
													ḿnh, các tôn giáo ước mong 
													phục vụ tha nhân cách quảng 
													đại và vô vị lợi” (x. 
													HT, đ.7).
													Người Công giáo không xa 
													lánh xă hội trần gian, không 
													trốn tránh các nghĩa vụ công 
													dân, không âm mưu làm hại 
													Đất Nước. Trái lại c̣n góp 
													phần tích cực vào việc phát 
													triển toàn diện con người, 
													sự phát triển lành mạnh của 
													xă hội và quê hương. Đức 
													Thánh Cha viết: “Bằng đời 
													sống xây dựng trên đức ái, 
													sự liêm chính, việc quư 
													trọng công ích, anh chị em 
													giáo dân phải chứng minh 
													rằng người công giáo tốt 
													cũng là người công dân tốt.” 
													(x. HT, đ. 4) 
													
													5. Khi nói đến Năm Thánh 
													2010 của Giáo hội tại Việt 
													Nam, Đức Thánh Cha nhắc lại 
													chứng từ của các Thánh Tử v́ 
													đạo Việt Nam, sự hy sinh anh 
													dũng của các ngài để ǵn giữ 
													và thông truyền “hồng ân đức 
													tin”, để làm chứng về Chúa 
													Kitô. Đức Thánh Cha khuyến 
													khích Giáo hội tại Việt Nam 
													can đảm tiếp nối chứng từ 
													ấy, v́ “làm chứng về Chúa 
													Kitô” là một việc phục vụ 
													cao nhất mà Giáo Hội có thể 
													hiến tặng cho Việt Nam và 
													cho tất cả các dân tộc tại Á 
													Châu, bởi v́ việc làm chứng 
													đó đáp ứng sự t́m kiếm sâu 
													xa chân lư và những giá trị 
													bảo đảm cho sự phát triển 
													nhân bản toàn diện (x. HT, 
													đ.5).
													
													
													Đức Thánh Cha thấy rất rơ 
													những thách đố cho việc làm 
													chứng của Giáo hội tại Việt 
													Nam trong hoàn cảnh hiện 
													nay, nên ngài khuyên chúng 
													ta phải hợp nhất với nhau 
													hơn nữa để có thể làm chứng 
													cho Chúa một cách tốt đẹp và 
													hữu hiệu: “Cần phải có sự 
													hợp tác chặt chẽ hơn nữa 
													giữa các giáo phận, giữa các 
													giáo phận và các ḍng tu, 
													cũng như giữa các ḍng tu 
													với nhau” (x. HT, đ.5).
													
													Xin nhắc lại Toà Thánh đă 
													vạch ra phương hướng cho 
													chúng ta là “Đối thoại và 
													hợp tác lành mạnh” với Chính 
													quyền để phục vụ tất cả mọi 
													người dân.
													
													Vậy tại sao lại đối thoại? 
													Đối thoại để làm ǵ?
													6. Đối thoại là “tên gọi 
													mới” của Niềm Hy vọng Kitô 
													giáo (Instrumentum 
													laboris số 30, THĐGMTG 
													năm 2001). Đó là một cách 
													nh́n mới về đối thoại, cũng 
													là một cách nh́n mới về niềm 
													hy vọng Kitô giáo. Cách nh́n 
													này vừa bám sát lịch sử 
													đương đại, vừa được xây dựng 
													trên Tin Mừng của Chúa Giêsu 
													là Tin Mừng về Niềm hy vọng 
													được Cứu rỗi (x. Thông điệp 
													Spe Salvi). Cách nh́n này đă 
													được đưa ra bàn bạc và trao 
													đổi trong Thượng Hội đồng 
													các giám mục thế giới năm 
													2001 với chủ đề “Giám mục 
													là tôi tớ phục vụ Tin Mừng 
													cho Niềm hy vọng của thế 
													giới”. 
													
													
													
													
													Thế giới của chúng ta hôm 
													nay đang cần một Niềm Hy 
													vọng để tồn tại, và phát 
													triển một cách đích thực. 
													Thế giới của chúng ta cũng 
													đang cần một hướng đi. Giáo 
													Hội Công giáo giới thiệu cho 
													thế giới một hướng đi, đó là 
													hướng đi theo T́nh yêu và 
													Chân lư. Nhưng hướng đi này 
													không thể áp đặt, chỉ được 
													đề nghị với mọi người, để 
													mọi người bàn bạc trao đổi, 
													và đón nhận một cách tự do.
													Thông điệp “Veritas in 
													Caritate” của Đức Thánh 
													Cha Bênêđictô XVI là điển 
													h́nh của sự đề nghị một 
													hướng đi cho thế giới trong 
													thời kỳ khủng hoảng kinh tế 
													hiện nay. Cũng là một điển 
													h́nh cho ước muốn đối thoại 
													của Giáo Hội với mọi người, 
													mọi Dân Nước, mọi Chính 
													quyền, mọi cơ quan quốc tế.
													Sự đối thoại rất cần thiết 
													cho thế giới chúng ta. Đối 
													thoại là bàn bạc trao đổi 
													với nhau trong tinh thần tôn 
													trọng lẫn nhau, để cùng nhau 
													t́m ra giải pháp tốt nhất 
													cho một số vấn đề quan trọng 
													và cụ thể, t́m ra điều thiện 
													hảo cho mọi người. Ngày hôm 
													nay, không một xă hội nào có 
													thể xây dựng tương lai tốt 
													đẹp, nếu thiếu sự đối thoại. 
													Chỉ có đối thoại mới mở 
													đường cho nhân loại, cho xă 
													hội, và cho cả Giáo Hội, đi 
													tới một tương lai tươi sáng 
													hơn.
													7. Mục tiêu của đối thoại là 
													t́m sự thật, biết sự thật, 
													nói sự thật và làm sự thật. 
													Sự thật luôn vượt lên trên 
													cá nhân mỗi một người chúng 
													ta. Sự thật không là một ư 
													tưởng; điều một người nghĩ 
													là thật không đương nhiên là 
													sự thật, nhưng sự thật là “điều 
													có thật” hoặc là điều 
													phù hợp với “cái có thật”. 
													Có những t́nh huống cụ thể 
													rất phức tạp, và chúng ta 
													không thể nào hiểu hết được, 
													nếu không ngồi lại và bàn 
													bạc với nhau cách thẳng 
													thắn. Chính v́ thế mà chúng 
													ta phải cùng nhau đi t́m, đi 
													t́m “thực tại khách quan”, 
													chứ không chỉ áp đặt ư kiến 
													chủ quan của ḿnh. Mọi người 
													chúng ta đều có ánh sáng của 
													lư trí. Người Công giáo c̣n 
													có ánh sáng đức tin bổ sung 
													cho lư trí. Chúng ta tin vào 
													mạc khải của Chúa Kitô, v́ 
													Ngài “là Con Đường, là Sự 
													Thật và là Sự Sống” (Ga 
													10,6). Chúng ta hăy mạnh dạn 
													giới thiệu ánh sáng đó cho 
													mọi người.
													
													
													
													Mục tiêu thực tế của đối 
													thoại trong xă hội là cùng 
													nhau đi t́m “cái ích lợi 
													chung” để có thể hợp tác 
													với nhau. Nếu chỉ v́ lợi ích 
													riêng tư, người ta không cần 
													đối thoại. Ư niệm “Công 
													Ích” (Bien commun) được 
													Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI 
													nhắc tới nhiều lần trong 
													thông điệp Caritas in 
													Veritate. Trong bài Huấn từ 
													cho các giám mục Việt Nam, 
													Đức Thánh Cha dùng chữ “Công 
													Ích” một lần, khi ngài đề 
													cập tới việc giáo dục gia 
													đ́nh công giáo. Ngài nói: “Điều 
													rất đáng ước mong là khi dạy 
													cho con cái biết sống theo 
													lương tâm ngay thẳng, trong 
													sự trung thực và chân lư, 
													th́ mỗi gia đ́nh công giáo 
													trở nên ḷ hun đúc các giá 
													trị và đức tính nhân bản, 
													trường dạy đức tin và đức 
													mến đối với Thiên Chúa. Về 
													phần họ, bằng đời sống xây 
													trên nền đức ái, sự liêm 
													chính, việc quư trọng công 
													ích, các giáo dân phải chứng 
													minh rằng người công giáo 
													tốt cũng là người công dân 
													tốt” (x. HT, đ. 4). 
													Ngoài ra, có chỗ ngài dùng 
													từ ngữ “sự phát triển Đất 
													Nước” (au développement 
													du Pays). Chỗ khác ngài dùng 
													thành ngữ “việc phục vụ 
													tất cả mọi người dân” 
													(au service de tout le 
													peuple).
													Theo ư của Đức Thánh Cha, 
													mục tiêu của việc Giáo hội 
													đối thoại với Nhà Nước là để 
													phục vụ tất cả mọi người 
													dân, chứ không nhằm ích lợi 
													riêng tư.
													Tại sao phải hợp tác? Hợp 
													tác với Chính quyền để làm 
													ǵ?
													8. Trước hết v́ đó là một 
													bổn phận, là nghĩa vụ công 
													dân (x. HT, đ.6).
													Đất Nước Việt Nam là Đất 
													Nước chung của mọi người 
													Việt Nam, của mọi tôn giáo 
													có mặt ở Việt Nam, mọi tầng 
													lớp dân chúng, mọi sắc tộc ở 
													Việt Nam, mọi giới, từ các 
													em thiếu niên nhi đồng, đến 
													tập thể giới trẻ, các người 
													trưởng thành, người cao 
													niên, và cả các cụ già. 
													Không ai trong chúng ta được 
													phép đứng bên lề xă hội. 
													Chính v́ thế Giáo hội Công 
													giáo cũng không nên tự loại 
													trừ ḿnh ra khỏi xă hội.
													9. Vả lại, văn hoá toàn cầu 
													hôm nay là “một văn hoá 
													nối kết”, xu thế của 
													thời đại chúng ta đang sống 
													là xu thế hợp tác. Hợp tác 
													không những trên b́nh diện 
													quốc gia, mà cả b́nh diện 
													quốc tế nữa. Có những quốc 
													gia chưa hết thù địch với 
													nhau, mà vẫn phải cố gắng 
													đối thoại và hợp tác. Tờ báo 
													Thanh Niên số ra ngày 
													18/11/2009, trong bài nhận 
													định về chuyến viếng thăm 
													Trung Quốc của Tổng thống 
													Obama, đă chạy hàng tít lớn 
													“hợp tác trong bất đồng”.
													Trên b́nh diện kinh tế và xă 
													hội, tư tưởng “loại trừ” 
													đă trở thành lỗi thời. Trái 
													lại, một tư tưởng đang trở 
													thành “chủ đạo”, là 
													tư tưởng “hợp tác và liên 
													đới”. Ư tưởng “thương 
													trường là chiến trường”, 
													một thời làm mưa làm gió, đă 
													để lại biết bao nhiêu đau 
													thương cho thế giới, đặc 
													biệt cho những người nghèo 
													khổ và yếu thế. Ư tưởng ấy 
													hiện nay đă trở thành lỗi 
													thời, tụt hậu. Tư tưởng loại 
													trừ người khác, vừa trái 
													ngược với Tin Mừng của Chúa 
													Giêsu, vừa đi ngược với xu 
													thế của thời đại.
													Trong thông điệp “Caritas 
													in Veritate”, Đức Thánh 
													Cha Benêđictô XVI đề nghị 
													một sự nối kết, phối hợp 
													rộng răi các năng lực của 
													mọi người trên thế giới, để 
													phục vụ sự phát triển toàn 
													diện của con người, và của 
													toàn thể nhân loại, phục vụ 
													cho nền văn hoá sự sống (x 
													ch.V của Thông điệp có 
													tiêu đề là “Sự hợp tác của 
													gia đ́nh nhân loại”). 
													Trong xu thế hợp tác toàn 
													cầu này, Giáo hội Công giáo 
													cống hiến cho thế giới môt 
													học thuyết xă hội, lành 
													mạnh, hợp thời, dựa trên ánh 
													sáng của lư trí tự nhiên, 
													được soi dẫn bằng ánh sáng 
													đức tin.
													
													
													Đức Thánh Cha cho thấy rằng 
													những giá trị đạo đức rất 
													cần cho sự phát triển toàn 
													diện của con người, ngay cả 
													trên b́nh diện kinh tế nữa. 
													Nếu loại trừ “đạo đức” 
													ra khỏi kinh tế, th́ kinh tế 
													sớm muộn ǵ cũng sẽ quay đầu 
													làm hại rất nhiều người, 
													nhất là những người nghèo 
													khổ, yếu thế, rồi cuối cùng 
													tự nó cũng suy sụp, như cuộc 
													khủng hoảng kinh tế thế giới 
													hiện nay là một bằng chứng 
													hùng hồn. Nếu nền kinh tế 
													hiện nay ở nhiều nơi, vẫn 
													c̣n tiếp tục xây dựng trên 
													sự dối trá lường gạt, trên 
													giá cả thị trường ảo, không 
													chóng th́ chày sẽ suy sụp 
													một cách thê thảm hơn nữa. 
													Như vậy kinh tế rơ ràng cũng 
													phải dựa trên sự thật. Dựa 
													trên sự thật chưa đủ, 
													kinh tế c̣n phải“dựa trên 
													t́nh yêu nữa”. Đó là 
													ư nghĩa của “định luật vô 
													cầu” (loi de gratuité), 
													mà Đức Thánh Cha giới thiệu 
													với mọi người trong thông 
													điệp mới nhất của ngài.
													Giáo Hội hợp tác với Chính 
													quyền cũng là để có thể thực 
													hiện sứ mạng yêu thương và 
													phục vụ mọi người tại đất 
													nuớc Việt Nam.
													10. Tôi xin tóm lược bài nói 
													chuyện của tôi bằng hai từ 
													ngữ chính là “T́nh yêu” 
													và “Chân lư”. Tư 
													tưởng và quan điểm Kitô giáo, 
													thái độ và hành vi của người 
													Kitô hữu, trong bất cứ t́nh 
													huống nào, cũng đều phải xây 
													dựng trên T́nh Yêu và Chân 
													lư. Chúng ta tin Đạo của 
													chúng ta là “Chân Lư về 
													T́nh Yêu”, là Sự Thật về 
													T́nh yêu của Thiên Chúa đối 
													với con người, mạc khải nơi 
													Đức Giêsu Kitô, là nền tảng 
													và là mẫu mực cho T́nh yêu 
													của con người đối với nhau, 
													đó là “T́nh yêu Chân thật”. 
													T́nh yêu và Chân lư mời gọi 
													đối thoại và hợp tác. T́nh 
													yêu mời gọi “sự đối thoại 
													của con tim”. Chân lư 
													mời gọi “sự đối thoại của 
													khối óc”. Xin Chúa Thánh 
													Thần là Trái Tim và Khối Óc, 
													là T́nh Yêu và Thần Trí của 
													Thiên Chúa chỉ cho Giáo Hội 
													tại Việt Nam con đường T́nh 
													Yêu và Chân Lư. Xin Chúa 
													Thánh Thần là Sức mạnh và 
													Quyền năng của Thiên Chúa 
													giúp chúng ta mạnh dạn dấn 
													bước
													
													Xin thân ái kính chào mọi 
													người. 
+ GM Phaolô Bùi Văn Đọc