Phép lạ truyền thống Á Đông
Ngô
Nhân Dụng
Ở
nước Mỹ có những nơi người ta không
có thó quen khóa cửa xe khi đậu
ngoài đường ban đêm. Tại
Brattleborrough, tiểu bang Vertmont,
khi tôi cẩn thận khóa cửa xe trước
khi vào nhà, người bạn Mỹ cười: “Anh
vẫn làm như ở thành phố lớn nhỉ?”
Tại thị xă Dubuque, Iowa, có 100,000
dân, gia đ́nh con gái tôi cũng không
quen khóa xe khi đậu trước cửa nhà
qua đêm. Ban ngày, cả nhà đi làm
hoặc đi học, lúc đi cũng không khóa
cửa nhà. Tất nhiên trong các thành
phố lớn th́ khác.
Nhưng ở Nhật Bản, thủ đô Tokyo là
một thành phố lớn 26 triệu người,
một kư giả Mỹ ở đó 5 năm trời, cũng
ngạc nhiên v́ trong xóm không ai lo
nạn trộm cắp. Các con anh đi xe đạp
về nhà bỏ xe trước cửa không bao giờ
phải khóa. Và không bao giờ bị mất.
Đứa con gái 9 tuổi được một cô bạn
Nhật rủ đi chơi sở thú, mỗi chuyến
đi xe điện mất 90 phút, đổi tầu ba
lần, nhưng cha mẹ cô bé người Nhật
không tỏ vẻ ǵ lo âu. Anh coi đây là
một phép lạ!
Sau những năm 1970, chúng ta thường
nghe nói đến “Phép lạ kinh tế” của
những con rồng nhỏ Á Đông: Những
nước Đài Loan, Nam Hàn, Singapore và
lănh thổ Hồng Kông phát triển kinh
tế nhanh chóng. Một nhà báo Mỹ đă
nh́n thấy một thứ phép lạ khác: Phép
lạ xă hội trong vùng đất này.
T.R. Reid đă sống nhiều năm ở Nhật
Bản và đi khắp miền Đông Châu Á. Năm
1997 có một cuộc khủng hoảng tài
chánh và khủng hoảng kinh tế ở vùng
này. Năm sau, Reid giúp hướng dẫn
một đoàn quay phim Mỹ đi làm một
phim tài liệu về ảnh hưởng của t́nh
trạng kinh tế suy sụp trên xă hội
Nhật Bản. Đi măi, nhà sản xuất hỏi
nhà báo: Đâu? Khủng hoảng đâu? Đi
t́m những nơi tụ tập người vô gia cư
coi? Phải t́m ra một cảnh gia đ́nh
tan vỡ để phỏng vấn chứ? Đoàn quay
phim thất vọng.
T. R. Reid kể vào giữa thập niên
1990 anh đă chứng kiến cảnh suy sụp
của thị trường chứng khoán Tokyo và
bao nhiêu người phá sản v́ trái bong
bóng trong thị trường địa ốc cũng bể
vỡ. Ba bốn năm sau kinh tế vẫn tiếp
tục đi xuống, anh đă tới phỏng vấn
vị tổng giám đốc cảnh sát quốc gia,
để hỏi xem số người phạm pháp đă
tăng lên như thế nào. Người chỉ huy
cảnh sát cả nước Nhật lễ phép trả
lời anh rằng số tội phạm đă giảm
xuống trong 20 năm qua, và trong hai
năm gần đây vẫn tiếp tục giảm. Reid
giải thích rằng theo các cuộc nghiên
cứu xă hội học ở Mỹ th́ khi kinh tế
xuống t́nh trạng phạm pháp, số gia
đ́nh ly dị thế nào cũng tăng, v́ thế
anh mới đặt câu hỏi. Ông cảnh sát
trưởng chỉ biết gật đầu một cách
lịch sự: “À, ra thế.”
Sau khi đi thăm các quốc gia khác
trong vùng, T.R. Reid khám phá ra
một phép lạ khác ngoài phép lạ kinh
tế, đó là một “phép lạ xă hội” mà
các dân tộc này đă thực hiện được,
mà người Tây phương chưa nh́n thấy.
Kinh tế không quyết định lối sống
của con người trong xă hội khi đối
đăi với nhau. Những số thống kê cho
thấy tỷ lệ tội phạm ở nhiều thành
phố Mỹ cao gấp hàng chục lần, có nơi
hàng trăm lần tỷ lệ ở Tokyo. Trong
những năm kinh tế khủng hoảng sau
năm 1997, số người phạm pháp ở Nhật
Bản, Nam Hàn và Đài Loan, từ tội sát
nhân đến trộm cắp không tăng lên.
Những quốc gia này đă tạo được một
nền tảng tinh thần vững chắc, từ
hàng ngàn năm, nền tảng đạo đức đó
không lên xuống theo chỉ số thị
trường và thống kê về tổng sản lượng
nội địa. Đó là một phép lạ xă hội
làm một người Tây phương kinh ngạc.
Reid nhận thấy nền tảng đạo lư
truyền thống trong các nước Á Đông
này là do lối giáo dục Khổng Giáo.
V́ ông hàng xóm người Nhật của anh
luôn luôn giải thích các điều anh
thắc mắc về cách cư xử của người
Nhật bằng một câu mở đầu: “Đức Khổng
Tử nói rằng...”
Những nhà kinh tế Nhật Bản mà tôi
đọc giải thích cả nền đạo lư của
nước họ là do ảnh hưởng đạo Khổng,
được dậy theo lối các triết gia đời
Tống bên Trung Quốc. Những quy tắc
sống như Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ được
các ông Tŕnh, ông Chu đề cao đă tạo
nên tinh thần các vơ sĩ đời xưa cũng
như cách hành động của các doanh
nhân bây giờ. Lề lối quản trị xí
nghiệp cũng như guồng máy hành chánh
đều theo tinh thần Tống Nho. Nhiều
tác giả Việt Nam trước đây hay trút
hết mọi suy đồi trong xă hội ḿnh
vào thế kỷ 19 là do Tống Nho gây nên.
Nhưng thứ Tống Nho đă gây ra t́nh
trạng tŕ trệ về trí thức và ỷ lại
về tinh thần đó thực ra do những Âu
Dương Tu, Tư Mă Quang để lại. Ho đă
củng cố chế độ nhà Tống bằng cách
thiết lập một kỷ cương cho chế độ
quân chủ tập quyền; họ ấn định
phương pháp tuyển mộ quan lại bằng
khoa cử, dần dần sinh ra bọn hủ Nho
trọng khoa cử và bằng cấp, chỉ biết
học thuộc ḷng rồi lập lại nhưng
điều học trong sách; c̣n trong hành
động th́ chỉ biết vâng lời vua quan.
Chính đó là mầm mống gây nên cảnh
suy đồi của giới trí thức Nho Giáo ở
Trung Quốc và Việt Nam, trong nhiều
thế kỷ. Người Nhật cũng theo Tống
Nho nhưng không tổ chức thi cử,
trọng thực tài và thực dụng, chỉ dậy
nhau các đạo nghĩa sống ở đời theo
“Tŕnh Chu sự nghiệp.”
Đến thế kỷ 20 vừa qua, hai nước Việt
Nam và Trung Hoa đă thay đổi bằng
cách du nhập chủ nghĩa Mác Lê Nin và
đem guồng máy cai trị kiểu Stalin
vào áp dụng trong việc chính trị.
Những định chế thượng tầng này trong
bản chất không khác ǵ chủ trương
tôn quân và lối học từ chương nô lệ
đời trước. Các chế độ Cộng Sản chỉ
thay thế ông Vua bằng Đảng. Các cán
bộ, đảng viên đóng vai tṛ các hủ
nho mới, tuyệt đối trung thành với
đảng, cố học thuộc ḷng các khẩu
hiệu do các lănh tụ nói ra, và không
chấp nhận cho ai bất đồng ư kiến.
Cuốn sách mà Mao Trạch Đông đọc hàng
ngày không phải là sách của Karl
Marx mà của Tư Mă Quang. Chế độ
chính trị mà đảng Cộng Sản Trung
Quốc lập ra không khác ǵ chế độ nhà
Thanh, trừ các tên gọi. Cũng một
chính quyền tập trung quyền hành,
cũng một guồng máy thư lại làm tay
sai cho Vua, hoặc Đảng, và cả nước
phải tôn thờ những ông thánh mới,
học thuộc ḷng cuốn Sách Đỏ của Mao
Chủ Tịch coi là một cuốn sách vạn
năng. Nhà Nguyễn ở nước ta đă thiết
lập một chế độ theo khuôn khổ nhà
Thanh cai trị dân Hán. Luật Gia Long
thay thế Luật Hồng Đức cũng đề cao
quân quyền; đề cao quyền của người
đàn ông và giảm quyền phụ nữ; cũng
ngăn cấm không cho học tṛ được viết
những ư kiến mới dù chỉ cho bạn bè
cùng đọc; cũng cấm dân không được
phê b́nh quan lại, vân vân. Đó là
một guồng máy cai trị của một nhóm
thiểu số ở Trung Quốc dùng để kiểm
soát khối dân đa số. Nhưng đă được
áp dụng vào nước ta từ thế kỷ 19.
Chủ nghĩa Mác Lênin gieo vào Trung
Quốc gặp đúng mảnh đất đă được nhà
Măn Thanh chuẩn bị, chỉ cần hô ra
những khẩu hiệu mới. Hồ Chí Minh
theo đúng con đường mà Mao Trạch
Đông vạch ra; không khác ǵ Vua Gia
Long theo Thanh triều. Hai nước cộng
sản Trung Hoa và Việt Nam đả kích
Khổng Giáo để thay thế ư thức hệ cũ
bằng chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng họ
học Mác Xít theo lối dậy của Stalin
cho nên vẫn là lối học nô lệ cũ. Như
Hồ Chí Minh thường nói với các cán
bộ: Bác Stalin không thể nào nhầm
được. V́ tinh thần nô lệ tư tưởng và
“suy tôn Đảng như suy tôn Vua” như
vậy cho nên các chế độ Cộng Sản đă
không giúp được hai dân tộc Việt Nam
và Trung Hoa thoát khỏi nền nếp mà
đám hủ Nho đă tạo ra trên hai quốc
gia này trong các thế kỷ trước.
Trong khi đó, các nước Á Đông khác
may mắn không theo chủ nghĩa Cộng
Sản và tự giải phóng khỏi những gông
xiềng quá khứ. Họ không tôn thờ Nho
học nữa, mà cũng không cần nhập cảng
một chủ nghĩa, một lư thuyết nào
thay thế Nho Giáo. Nhưng v́ các quốc
gia này vẫn bảo vệ truyền thống cho
nên những tinh túy trong nền đạo lư
cũ vẫn được cả xă hội đề cao. Lễ
Nghĩa Liêm Sỉ là cách sống với mọi
người. Chính nền đạo lư mà Nho Giáo
đă tạo ra ở các nước Á Đông là một
nguyên nhân giúp các nước này bước
vào thế kỷ 21 với sức mạnh kinh tế
và niềm tự tin vào dân tộc của họ.
Đọc cuốn sách “Ông Khổng Tử bên hàng
xóm” của T.R. Reid (Confucius lives
next door), thấy kư giả này thán
phục khi mô tả những đức tính của
người Nhật trong việc cư xử với láng
giềng, trong trường học, trong sở
làm, đối với người ngoại quốc, vân
vân. Người đọc phải thấy là người
Nhật được cha mẹ, ông bà dậy dỗ
những điều chẳng khác ǵ người Việt
Nam ḿnh, ít nhất là trong các gia
đ́nh Việt Nam vẫn giữ lễ giáo. Mà
trong tất cả các trường học ở miền
Nam trước năm 1975 các thầy cô cũng
dậy học sinh như vậy. Phải tôn trọng
của công? Phải giữ lời hứa? Phải
kính trọng người lớn tuổi? Phải ḥa
thuận với xóm làng? Phải lễ phép với
thầy giáo, cô giáo? Phải giúp đỡ
người hoạn nạn? Nếu ai đă được học
Gia Huấn Ca th́ đều biết đó là những
quy tắc luân lư b́nh thường mà gia
đ́nh Việt Nam nào cũng phải dậy con
cái. Hiện nay ở nước ta các gia đ́nh
có lễ giáo vẫn dậy con cái như thế,
không khác ǵ người Nhật Bản cả. Mà
hàng ngàn năm trước đây, người Việt
Nam vẫn dậy con như thế. Vậy tại sao
một người ngoại quốc như T.D. Reid
đă thán phục xă hội Nhật Bản sống
đạo đức và an ḥa trong khi hiện nay
chính nhiều người Việt Nam cũng
nhiều lúc đau ḷng v́ phong hóa, đạo
đức xuống dốc? Khi so sánh nước ḿnh
với các con rồng Nhật Bản, Nam Hàn,
Đài Loan, Singapore, chỉ có một điểm
khác biệt lớn, là các nước đó không
sống dưới một chế độ độc tài Cộng
Sản như ở nước ta.
Cho nên nếu có một chế độ chính trị
thích hợp, dân tộc Việt Nam vẫn có
thể phục hồi được truyền thống Lễ
Nghĩa Liêm Sỉ không khác ǵ các nước
Á Đông khác. Phải có một chế độ đề
cao chữ Tín th́ trẻ em đến trường
học chữ Tín dễ dàng hơn. Phải xóa bỏ
hệ thống tham nhũng, th́ trẻ em và
người lớn mới tin ở điều Thiện. Phải
chấm dứt chế độ độc quyền chính trị
th́ những người có thiện chí và có
khả năng mới được tiến lên thay thế
những người chỉ quen nịnh hót và
luồn lọt. Chúng ta có thể tin tưởng
rằng dân tộc Việt Nam có khả năng
đó.
Một điều đáng lo là nhiều người quá
quan tâm đến vấn đề kinh tế, chỉ
muốn bắt chước các con rồng Á Đông
trên mặt phát triển kinh tế mà quên
mất mối lo về xă hội. Sức mạnh của
các quốc gia đó nằm trong truyền
thống đạo lư của họ, tạo nên phép lạ
mà một người Mỹ phải kính trọng. Dân
Việt Nam cũng có đủ các hạt giống
tốt đó, chỉ cần được tưới tẩm, vun
trồng trở lại mà thôi.
Sẽ có ngày người dân Việt sống ở một
thị xă như Cà Mau, Hội An, Bắc Giang
có thể để xe trước cửa nhà mà không
cần khóa, đêm không khóa cổng cũng
vẫn ngủ ngon. Người ta ra đường
không lo bị trấn lột. Trẻ em biết lễ
phép, làng xóm sống ḥa thuận. Sẽ có
ngày phép lạ xă hội cũng xuất hiện
với nước ta.