|
Việt Nam đă
mắc bẫy Tàu khi đặt bút
kư “hợp
tác cùng phát triển”
trên vùng Biển Đông c̣n
tranh chấp và ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ trong chuyến
thăm Trung Quốc của phái
đoàn đảng và nhà nước do
Nguyễn Phú Trọng, Tổng
Bí thư Đảng cầm đầu từ
ngày 11 đến 15 tháng 10
năm 20011.
Nguyên văn 2 khoản quan
trọng lịch sử này viết
trong 6 điểm được gọi là
“Nguyên tắc giải quyết
vấn đề trên biển
Việt-Trung” như sau:
4. Trong tiến tŕnh t́m
kiếm giải pháp cơ bản và
lâu dài cho vấn đề trên
biển, trên tinh thần tôn
trọng lẫn nhau, đối xử
b́nh đẳng, cùng có lợi,
tích cực bàn bạc thảo
luận về những giải pháp
mang tính quá độ, tạm
thời mà không ảnh hưởng
đến lập trường và chủ
trương của hai bên, bao
gồm việc tích cực nghiên
cứu và bàn bạc về vấn đề
hợp tác cùng phát triển
theo những nguyên tắc đă
nêu tại điều 2 của Thỏa
thuận này.
5. Giải quyết các vấn đề
trên biển theo tinh thần
tuần tự tiệm tiến, dễ
trước khó sau. Vững bước
thúc đẩy đàm phán phân
định vùng biển ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ, đồng thời
tích cực bàn bạc về vấn
đề hợp tác cùng phát
triển tại vùng biển này.
Tích cực thúc đẩy hợp
tác trên các lĩnh vực ít
nhạy cảm như bảo vệ môi
trường biển, nghiên cứu
khoa học biển, t́m kiếm,
cứu hộ cứu nạn trên
biển, pḥng chống, giảm
thiểu thiệt hại do thiên
tai. Nỗ lực tăng cường
tin cậy lẫn nhau để tạo
điều kiện cho việc giải
quyết các vấn đề khó
khăn hơn.
Trước khi bàn thêm lợi
và hại, hăy đọc khoản 2
để biết
“những nguyên tắc”
mà hai nước Việt-Trung
đă đồng ư phải tuân thủ
khi
“hợp tác cùng phát
triển” trên vùng
biển hai bên chưa t́m
được
“giải pháp cơ bản và lâu
dài” có ǵ mới hơn
những điều ai cũng biết
cả rồi?
Khoản 2 viết nguyên văn:
“Trên tinh thần tôn
trọng đầy đủ chứng cứ
pháp lư và xem xét các
yếu tố liên quan khác
như lịch sử…, đồng thời
chiếu cố đến quan ngại
hợp lư của nhau, với
thái độ xây dựng, cố
gắng mở rộng nhận thức
chung, thu hẹp bất đồng,
không ngừng thúc đẩy
tiến tŕnh đàm phán. Căn
cứ chế độ pháp lư và
nguyên tắc được xác định
bởi luật pháp quốc tế
trong đó có Công ước
Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982, nỗ lực
t́m kiếm giải pháp cơ
bản và lâu dài mà hai
bên đều có thể chấp nhận
được cho các vấn đề
tranh chấp trên Biển.”
Điều này không có ǵ
mới. Nếu Trung Hoa thật
ḷng và nghiêm chỉnh thi
hành những nguyên tắc
của luật pháp quốc tế,
trong đó có Luật Biển
năm 1982 th́ Trung Quốc
không bao giờ tự quy
vùng chủ quyền hải đảo
của ḿnh chiếm từ 80 đến
85% diện tích Biển Đông,
được gọi là h́nh “Lưỡi
Ḅ” hay “Đường 9 đọan”
rồi nạp cho Liên Hiệp
Quốc năm 2009, bao gồm
cả hai vùng đảo và biển
quanh Ḥang Sa và Trường
Sa vốn đă chứng minh
bằngh tài liệu lịch sử
là của Việt Nam.
Như vậy có nghĩa trong
khi hai nước Việt-Trung
tiếp tục thảo luận cho
đến khi đạt được “giải
pháp cơ bản và lâu dài”
về các vùng biển, đảo
c̣n tranh chấp th́ hăy
cùng nhau hợp tác khai
thác các tiềm năng kinh
tế, khoáng sản và
“bảo vệ môi trường biển,
nghiên cứu khoa học
biển” v.v…
Đây chính là lập trường
cơ bản của nguyên lănh
tụ Trung Hoa, Đặng Tiểu
B́nh đă đặt ra với các
Lănh đạo đảng và nhà
nước CSVN khi hai nước
thảo luận tái lập quan
hệ ngọai giao năm 1990,
dưới thời Tổng Bí thư
đảng CSVN Nguyễn Văn
Linh và sau đó đến lượt
Đỗ Mười, từ năm 1991.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ
Vũ Cao Phan, nhà nghiên
cứu quan hệ Việt –
Trung, Phó Chủ tịch Hội
Hữu nghị Việt Nam –
Trung Quốc đă tiết lộ ư
đồ của Đặng Tiểu B́nh
c̣n có “cái đuôi” của
“con dao chủ quyền lănh
thổ” đă nằm gọn trong
tay của nước Tầu rồi.
Ông Phan nói rơ ư của
Đặng Tiểu B́nh trong
cuộc phỏng vấn của Đài
Truyền h́nh Phượng Hoàng
(Hồng Kông, Trung Quốc),
được phát trong Chương
tŕnh liên tuyến “Nhất
hổ nhất tịch đàm” đến
hơn 150 quốc gia trên
thế giới tối thứ bảy,
25/6/2011.
Phóng viên hỏi:
“Bản chất của sự tranh
chấp Trung- Việt, theo
ông, là vấn đề kinh tế
hay chủ quyền? Việt Nam
nh́n nhận nguyên tắc
“gác tranh chấp, cùng
khai thác” như thế nào?
Đáp:
“Đây là một câu hỏi thú
vị. Các sự kiện ở Biển
Đông cho thấy có cả màu
sắc tranh chấp về kinh
tế lẫn tranh chấp chủ
quyền. Quan sát khách
quan th́ thấy Trung Quốc
có vẻ nghiêng về lư do
kinh tế, c̣n Việt Nam
nghiêng về lư do chủ
quyền nhiều hơn. Cách
nh́n vấn đề như vậy sẽ
giải thích được tại sao
Việt Nam không mặn mà
lắm với việc “gác tranh
chấp, cùng khai thác”.
Ta thử phân tích xem tại
sao nhé. Và đây là ư
kiến của cá nhân tôi
thôi. Lư do thứ nhất là
tài nguyên th́ có hạn,
một khi khai thác hết
rồi điều ǵ sẽ xảy ra?
Tiến sĩ Phan nói tiếp:
“Liên quan đến nó là lư
do thứ hai: “gác tranh
chấp, cùng khai thác” mà
các bạn vừa nêu mới
chỉ là một nửa lời căn
dặn của ông Đặng Tiểu
B́nh mà nguyên văn là:
“Chủ
quyền của ta, gác
tranh chấp, cùng khai
thác”, có đúng
không? Như thế có nghĩa
là khi đă cạn kiệt tài
nguyên khai thác rồi,
Việt Nam chẳng c̣n ǵ và
Trung Quốc th́ vẫn c̣n
cái cơ bản là “chủ
quyền”! Mà những ḥn đảo
và vùng biển ấy đâu chỉ
có giá trị về tài
nguyên?
Tôi ủng hộ việc hai nước
cùng hợp tác khai thác
tài nguyên ở Biển Đông
nhưng ít nhất trước đó
cũng phải làm sáng tỏ
đến một mức độ nhất định
nào đó (nếu chưa hoàn
toàn) vấn đề chủ quyền.”
Tân Hoa Xă của Trung
Hoa, trong bài viết về
các tranh chấp chủ quyền
ở Biển Đông ngày
28-06-2011 đă không nói
đến vế thứ nhất câu nói
của Đặng Tiểu B́nh (chủ
quyền của ta….) mà chỉ
nói:
”Không
hề có sự phản kháng của
bất cứ quốc gia nào đối
với chủ quyền của Trung
quốc trên khu vực cho
đến thập niên 1970
khi các nước, kể cả Việt
Nam và Phi Luật Tân lên
tiếng dành một phần chủ
quyền. Sau một thời gian
dài thương thảo, Đặng
Tiểu B́nh mới đưa ra
sáng kiến đề nghị rằng
hăy gác sang một bên
những tranh chấp để cùng
hợp tác khai thác khu
vực.”
(There was no dissension
from any country on
China's sovereignty over
the area until the
1970s, when countries
including Vietnam and
the Philippines claimed
partial sovereignty.
After long-term
negotiations and
disputes, Deng Xiaoping
initiated his proposal
on the issue that put
aside the disputes and
offered joint
exploitation in the
region.)
Đây chính là vấn đề đáng
bàn quanh 6 điểm Nguyên
Tắc
“giải quyết vấn đề trên
biển Việt-Trung” vừa
được Hồ Xuân Sơn, Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao
Việt Nam đă kư với Trung
Hoa dưới sự chứng kiến
của Nguyễn Phú Trọng vào
đêm 11/10/2011, ít tiếng
đồng hồ sau khi phái
đoàn Việt Nam đến Bắc
Kinh bắt đầu cuộc thăm
viếng 5 ngày.
Sự vội vă kư kết Văn
kiện quan trọng này của
phía Việt Nam chỉ có thể
được suy diễn từ thỏa
thuận đă đạt được trước
đó trong cuộc họp ở Bắc
Kinh ngày 25/6/2011 giữa
Hồ Xuân Sơn và Đới Bỉnh
Quốc, Ủy viên Quốc vụ
Trung Quốc, phụ trách
đối ngọai cao cấp nhất
của đảng Cộng sản Trung
Hoa.
V́ vậy mà khi Tân Hoa Xă
của Trung hoa (Xinhua)
trích lời Phát ngôn viên
Hồng Lỗi kêu gọi Việt
Nam hăy
“thi hành sự đồng thuận
về vấn đế Biển Đông đă
đạt được trong chuyến
thăm Trung Quốc tuần qua
của đặc phái viên của
Việt Nam, Hồ Xuân Sơn”
(China on Tuesday called
on Vietnam to implement
a bilateral consensus on
the South China Sea
issue that was reached
during the China visit
of Vietnam's special
envoy Ho Xuan Son last
weekend) th́ lập tức một
số Trí thức ở Việt Nam,
trong số này có các ông
Thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh, cựu Đại sứ Việt
Nam tại Bắc Kinh, Giáo
sư Nguyễn Huệ Chi, Nhà
văn Nguyên Ngọc, Tiến sỹ
Nguyễn Xuân Diện v..v…
đă yêu cầu gặp Hồ Xuân
Sơn để hỏi cho ra lẽ
trắng đen, nhưng không
thành v́ Sơn được lệnh
tránh mặt khỏi Hà Nội để
khỏi phải gặp các Trí
thức.
Một lần nữa, Hồng Lỗi
nhắc lại lập trường cố
hữu không thay đổi của
Tầu rằng:
“Trung Quốc đă tái khẳng
định chủ quyền không thể
tranh căi trên tất cả
các đảo ở Biển Đông và
vùng nước xung quanh.”
Bây giờ, sau đêm kư kết
“mắc bẫy” 11/10/2011 của
Hồ Xuân Sơn th́ mọi việc
đă rơ trắng đen.
Điểm then chốt là Việt
Nam đă đồng ư nói chuyện
“hợp tác cùng phát
triển” với Trung
Cộng
trong vùng biển của ḿnh
mà Tầu tự vẽ để bảo là
của họ trong phạm vi
h́nh Lưỡi Ḅ khổng lồ
kia!
Nói khác đi là
Việt Nam đă thừa nhận
chủ quyền của tên cướp
biển đă chiếm biển đảo
của ḿnh mà cứ hớn hở v́
đă được Trung Hoa hứa sẽ
“tôn trọng lẫn nhau, đối
xử b́nh đẳng” để đôi
bên“ cùng có lợi”?
Tại sao Nguyễn Phú Trọng
lại có thể khờ khạo để
bị Hồ Cẩm Đảo, Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Cộng
ḥa nhân dân Trung Hoa,
xỏ mũi lôi đi đến thế?
DOC LÀ CÁI CHI CHI?
Ngoài ra, hai nước c̣n
đồng ư trong điểm 3
rằng:
“Trong tiến tŕnh đàm
phán vấn đề trên biển,
hai bên nghiêm chỉnh
tuân thủ thỏa thuận và
nhận thức chung mà Lănh
đạo cấp cao hai nước đă
đạt được, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc và
tinh thần của “Tuyên bố
ứng xử của các bên ở
Biển Đông” (DOC,
Declaration of Conduct).
Đối với tranh chấp trên
biển giữa Việt Nam-Trung
Quốc, hai bên giải quyết
thông qua đàm phán và
hiệp thương hữu nghị.
Nếu tranh chấp liên quan
đến các nước khác, th́
sẽ hiệp thương với các
bên tranh chấp khác.”
Nên biết DOC là Văn kiện
không có tích cách ràng
buộc pháp lư mà Trung
Hoa và Hiệp hội các nước
Đông Nam Á
(The Association of
South East Asia Nations,
ASEAN) đă kư tại Nam
Vang, Cao Miên năm 2002.
Bằng chứng của sự “vô
tích sự” này là những vi
phạm trắng trợn chà đạp
lên DOC của Bắc Kinh
trong suốt hơn 9 năm
trời, trong đó nghiêm
trọng nhất là các cuộc
dùng súng tấn công, bắn
giết và tịch thu tài
sản, bắt người đ̣i tiền
chuộc của Hải quân Trung
Hoa nhắm vào các ngư phủ
Việt Nam đánh bắt trong
vùng biển Ḥang Sa và
Trường Sa, hoặc bên
trong vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lư của
Việt Nam.
Phía Tầu c̣n ngang nhiên
cho tầu Hải giám đi tuần
tra vùng biển của Việt
Nam đê ngăn chận không
cho ngư dân Việt Nam
hành nghề, nhưng lại vơ
trang bảo vệ cho hàng
trăm thuyền đánh cá của
Trung Hoa tự do đánh bắt
trong vùng biển đảo của
Việt Nam.
Chúng c̣n dám cắt cáp
các Tầu thăm ḍ đáy biển
của Công ty Dầu khí Việt
Nam hồi tháng 5/2011.
Cũng cần nói rơ rằng,
sau khi ngang nhiên tấn
công và chiếm quần đảo
Ḥang Sa của Việt Nam
Cộng Ḥa tháng 1/1974,
Tầu đă quyết liệt bác bỏ
mọi yêu cầu trả lại chủ
quyền quần đảo này cho
Việt Nam. Tầu cũng từ
chối rút quân khỏi 8 mỏm
đá ngầm chiếm được từ
tay quân đội CSVN ở
Trường Sa tháng 3 năm
1988. Bắc Kinh cũng đă
xua quân chiếm trọn Núi
cao Lăo Sơn, một vị trí
chiến lược quân sự quan
trọng nằm sâu trong nội
địa Việt Nam ở tỉnh biên
giới Hà Giang năm 1984.
Như thế th́ các nơi có
tranh chấp giữa hai nước
Việt-Trung như trường
hợp Ḥang Sa và Lăo Sơn
mà bảo Tầu sẽ chịu
“giải quyết thông qua
đàm phán và hiệp thương
hữu nghị”, hay
“nếu tranh chấp liên
quan đến các nước khác”
như trường hợp ở Trường
Sa v́ c̣n có tranh chấp
chủ quyền của Phi Luật
Tân, Nam Dương, Mă Lai
Á, Brunei và Đài Loan
nữa
“th́ sẽ hiệp thương với
các bên tranh chấp khác”
là điều có nhiều ảo
tưởng xa vời lắm, v́
Việt Nam đă bằng ḷng
“hợp tác cùng phát
triển” với Tầu rồi
cơ mà?
V́ vậy chẳng nên ngạc
nhiên chút nào khi Trung
Hoa không ngừng các hành
động đi ngược lại những
điều họ đă kư với các
bên ASEAN tại Nam Vang
năm 2002, trong đó có
Việt Nam như sau:
1.- Các bên khẳng định
lại cam kết đối với
những mục tiêu và nguyên
tắc của Hiến chương Liên
hợp quốc, Công ước Liên
hợp quốc về Luật biển
năm 1982, Hiệp ước Thân
thiện và Hợp tác ở Đông
Nam Á. Năm nguyên tắc
cùng tồn tại ḥa b́nh và
các nguyên tắc phổ cập
khác của luật pháp quốc
tế, là những qui tắc cơ
bản điều chỉnh cơ bản
giữa các quốc gia.
2.- Các bên cam kết t́m
ra những phương cách để
tạo dựng sự tin cậy và
ḷng tin phù hợp với các
nguyên tắc nêu trên và
trên cơ sở b́nh đẳng và
tôn trọng lẫn nhau.
3.- Các bên khẳng định
lại sự tôn trọng và cam
kết của ḿnh đối với
quyền tự do hàng hải và
quyền tự do bay ngang
qua vùng trời phía trên
Biển Đông như đă được
quy định bởi các nguyên
tắc phổ cập của luật
pháp quốc tế, kể cả Công
ước Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982.
4.-Các bên liên quan cam
kết giải quyết những
tranh chấp lănh thổ và
quyền tài phán bằng các
biện pháp ḥa b́nh,
không đe dọa sử dụng vũ
lực, thông qua tham khảo
ư kiến và thương lượng
hữu nghị giữa các quốc
gia có chủ quyền trực
tiếp liên quan, phù hợp
với các nguyên tắc phổ
cập của luật pháp quốc
tế, trong đó có Công ước
Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982.
5.- Các bên liên quan
cam kết tự kiềm chế
không tiến hành các hoạt
động làm phức tạp hoặc
gia tăng các tranh chấp
và ảnh hưởng tới ḥa
b́nh và ổn định, kể cả
không tiến hành các hoạt
động đưa người đến sinh
sống trên các đảo, băi
đá ngầm, băi cát ngầm,
dải đá ngầm và những cấu
trúc khác hiện chưa có
người sinh sống và xử lư
các bất đồng một cách
xây dựng;
Trong khi chờ đợi có
giải pháp ḥa b́nh cho
các tranh chấp lănh thổ
và quyền tài phán, các
bên liên quan cam kết
tăng cường các nỗ lực
trên tinh thần hợp tác
và hiểu biết nhằm t́m ra
các phương cách xây dựng
sự tin cậy và ḷng tin
giữa các bên….”
(Bản dịch của Bộ Ngoại
giao Việt Nam)
TỪ HƯỚNG DẪN ĐẾN COC
Từ thái độ chai ĺ, bất
tuân luật pháp Quốc tế,
kể cả Luật Biển Liên
Hiệp Quốc năm 1982 của
Trung Quốc mà ASEAN đă
tổ chức họp thêm ở Bali
(Nam Dương) từ
19-23/7/2011) để đ̣i
Trung Quốc phải kư thêm
Văn kiện được gọi là
“Nội dung Quy tắc hướng
dẫn thực thi DOC”
với hy vọng sẽ ràng buộc
Bắc Kinh vào một Bộ Quy
tắc về ứng xử ở Biển
Đông (COC, Code Of
Conduct) có tính ràng
buộc pháp lư hơn DOC.
Tài liệu của Bộ Ngọai
giao Việt Nam viết vể
thỏa thuận ở Bali như
sau:
“Những Quy tắc này nhằm
hướng dẫn thực hiện các
hoạt động, các biện pháp
và các dự án hợp tác
chung đă quy định trong
DOC.
1. DOC phải được thực
hiện từng bước một, phù
hợp với các điều khoản
của DOC.
2. Các bên tham gia DOC
tiếp tục tăng cường đối
thoại và tham vấn, phù
hợp với tinh thần của
DOC.
3. Việc tiến hành các
hoạt động hoặc các dự án
đă được quy định trong
DOC cần được xác định rơ
ràng.
4. Việc tham gia các
hoạt động hoặc các dự án
cần được thực hiện trên
cơ sở tự nguyện.
5. Các hoạt động ban đầu
trong phạm vi DOC cần
phải là các biện pháp
xây dựng ḷng tin.
6. Quyết định thực hiện
các biện pháp hoặc các
hoạt động cụ thể của DOC
cần dựa trên sự đồng
thuận của các bên và
phải hướng đến mục tiêu
cuối cùng là thực hiện
Bộ Quy tắc về ứng xử ở
Biển Đông (COC).
7. Trong quá tŕnh thực
hiện các dự án đă được
thỏa thuận trong khuôn
khổ DOC, khi cần thiết,
sẽ trưng cầu sự phục vụ
của các chuyên gia, các
nhân vật kiệt xuất nhằm
cung cấp nguồn lực cụ
thể đối với các dự án
liên quan.
8. Tiến tŕnh thực hiện
các hoạt động và các dự
án đă được thỏa thuận
trong DOC sẽ được báo
cáo hàng năm cho Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN
– Trung Quốc (PMC).”
Nhưng chừng nào Trung
Quốc chịu ngồi vào
“tṛng Luật pháp” với
ASEAN là điều c̣n nhiều
nghi vấn, nếu không muốn
nói là viễn vông v́
Trung Quốc muốn kéo dài
thời gian trong khi vẫn
t́m cách không chế và
tranh chấp với một số
nước ASEAN trên Biển
Đông, trong đó quan
trọng nhất là Việt Nam
và Phi Luật Tân.
V́ vậy, trong Thỏa hiệp
với Việt Nam hôm
11/10/2011, Tầu đă mánh
lới dụ khị Việt Nam rơi
vào bẫy bằng những câu
chữ đường mật ghi trong
Điều 1 của 6 Nguyên tắc
như sau:
“1. Lấy đại cục quan hệ
hai nước làm trọng, xuất
phát từ tầm cao chiến
lược và toàn cục, dưới
sự chỉ đạo của phương
châm “láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai” và tinh
thần “láng giềng tốt,
bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt”, kiên
tŕ thông qua hiệp
thương hữu nghị, xử lư
và giải quyết thỏa đáng
vấn đề trên biển, làm
cho Biển Đông trở thành
vùng biển ḥa b́nh, hữu
nghị, hợp tác, đóng góp
vào việc phát triển quan
hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện Việt
Nam-Trung Quốc, góp phần
duy tŕ ḥa b́nh và ổn
định trong khu vực.”
Nhưng “đại cục” là cái
ǵ, và
“tầm cao chiến lược và
toàn cục” là “tầm
cao” ở đâu và “toàn cục”
th́ của bên nào, hay
cũng lại do mấy “đồng
chí anh em” Tầu tự đặt
ra rồi tṛng vào cổ
Nguyễn Phú Trọng theo
“bùa phép”của phương
châm 16 chữ vàng và tinh
thần 4 tốt nghe măi đă
nhàm tai:
“láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới
tương lai” và tinh
thần
“láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối
tác tốt”?
Sau cùng, hai bên đă
chốt lại ở điểm 6 rằng:
“Hai bên tiến hành cuộc
gặp định kỳ Trưởng đoàn
đàm phán biên giới cấp
Chính phủ một năm hai
lần, luân phiên tổ chức,
khi cần thiết có thể
tiến hành các cuộc gặp
bất thường. Hai bên nhất
trí thiết lập cơ chế
đường dây nóng trong
khuôn khổ đoàn đại biểu
cấp Chính phủ để kịp
thời trao đổi và xử lư
thỏa đáng vấn đề trên
biển.”
Đọan kết này sẽ chẳng có
ư nghĩa ǵ, nếu Trung
Quốc cứ “tuần tự” tiến
hành chiến thuật “gậm
nhấm” biển đảo và tài
nguyên của Việt Nam mà
không cần phải dùng biện
pháp quân sự cho hao của,
tốn người th́ đâu cần ǵ
đến đường giây nóng hay
nguội v́ rằng Việt Nam
đă sập bẫy Tầu rồi.
(10/011)
Phạm Trần
<<trở về đầu trang>>