|
Cô lập VN với quốc tế để
nắm thượng phong trong
đàm phán về biển Đông
Chỉ hai ngày sau chuyến
thăm Trung quốc lần đầu
của Nguyễn Phú Trọng
trong tư cách là tân
Tổng bí thư ĐCSVN (từ
11-15.10.2011) nhà cầm
quyền Bắc kinh đă hô lớn
trước dư luận thế giới:
"Tuyên bố chung
Trung-Việt" có ư nghĩa
chỉ đạo quan trọng trong
việc thúc đẩy quan hệ
hai nước phát triển lâu
dài, lành mạnh và ổn
định.
Trung Quốc và Việt Nam
thông qua đàm phán giải
quyết tranh chấp trên
biển giữa hai nước không
liên can ǵ với bên thứ
ba."[1]
Người phát ngôn Bộ Ngoại
giao Trung Quốc Lưu Vi
Dân đă nhấn mạnh như
trên để phản bác các đ̣i
hỏi của Ngoại trưởng
Nhật Koichiro Gemba cũng
như Tổng thống Phi Luật
Tân Benigno Aquino là
các tranh chấp ở biển
Đông là vấn đề chung của
các nước trong khu vực
và quốc tế, cho nên phải
được giải quyết đa
phương.[2]
Chỉ ba ngày sau phát
biểu của Phát ngôn viên
bộ Ngoại giao Trung
quốc, Phát ngôn viên bộ
Ngoại giao nhà cầm quyền
CSVN Lương Thanh Nghị đă
nh́n nhận quan điểm trên
đây của Bắc kinh, nghĩa
là những vấn đề tranh
chấp trên biển Đông liên
quan tới VN và Trung
quốc th́ chỉ đàm phán
song phương giữa Bắc
kinh và Hà nội.[3]
Nhưng không cho biết rơ
trong các tranh chấp
trên biển Đông vấn đề
nào chỉ liên hệ trực
tiếp tới hai nước
VN-Trung quốc. Có nghĩa
là bỏ ngỏ để cho Bắc
kinh định nghĩa và quyết
định!
Khi bộ Ngoại giao Trung
quốc nhấn mạnh
"Tuyên bố chung
Trung-Việt" và "Thỏa
thuận những Nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển
giữa nước CHXHCN Việt
Nam và nước CHND Trung
Hoa." mang tính cách "chỉ
đạo" là
lập lại sách lược tuyên
truyền rất quen thuộc
của Bắc kinh, lấy danh
nghĩa những thoả thuận
của lănh đạo hai nước
–nhưng thực t́nh là sự
áp chế của Bắc kinh- để
bịt miệng nhân dân VN,
đồng thời cấm cản dư
luận quốc tế!
[4]
Nói thẳng ra, nhà cầm
quyền Bắc kinh đă dùng
"Thỏa thuận những Nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển"
vừa được Bắc kinh và Hà
nội kí trong chuyến thăm
Trung quốc của Nguyễn
Phú Trọng làm lá chắn
ngăn cản quốc tế và các
nước trong khu vực t́m
cách giải quyết hoà b́nh
và công bằng theo luật
quốc tế cho những tranh
chấp trên biển Đông. Do
đó với việc ép Hà nội
phải kí "Thỏa thuận
những Nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn
đề trên biển" Bắc kinh
đă thành công trong mục
tiêu ngoại giao là
CHIA RẼ VN
với các nước trong
Asean, Nhật … và
CÔ LẬP VN với
cộng đồng quốc tế, nhất
là Mĩ và EU. Trên cơ sở
đàm phán song phương
nhưng hầu như độc quyền
này, Bắc kinh sẽ thương
thuyết ở thế mạnh để ép
VN trong các cuộc đàm
phán về Hoàng sa, Trường
sa và toàn bộ biển Đông.
Sở dĩ Bắc kinh đă đứng ở
vị thế lấn át như hiện
nay, v́ do các chính
sách sai lầm và thái độ
bạc nhược của những
người cầm đầu CSVN. Nên
chỉ trong hai thập niên
qua từ khi b́nh thường
hóa quan hệ giữa hai
nước vào năm 1991 họ
đang đẩy VN lệ thuộc
Trung quốc trong nhiều
mặt, từ ư thức hệ, kinh
tế tới thương mại. Từ
nắm được cái đầu tiến
tới kiểm soát được dạ
dầy của VN!
Như vậy có thể kết luận
rằng, về mặt sách lược
đối ngoại trong tranh
chấp biển Đông,
"Thỏa thuận những Nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển"
trong chuyến đi Trung
quốc của Nguyễn Phú
Trọng là một
THOẢ HIỆP VÔ NGUYÊN TẮC,
CHỦ QUYỀN CỦA VN KHÔNG
ĐƯỢC TÔN TRỌNG và DANH
DỰ TỔ QUỐC BỊ CHÀ ĐẠP!
Đây rơ ràng là một bước
thụt lùi, đúng ra phải
nói là một sự đầu hàng
của nhóm cầm đầu CSVN
với Bắc kinh trong tranh
chấp về biển Đông.
Thế vô cùng bất lợi và
nguy hiểm này bắt nguồn
từ nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân
chính là do tư duy sai
lầm và thái độ ươn hèn
của nhóm cầm đầu CSVN từ
ít nhất hai thập niên
trở lại đây. Chỉ cần dẫn
chứng thời sự về tư duy
và thái độ của Nguyễn
Phú Trọng, người có
quyền lực lớn nhất hiện
nay, trong vấn đề này
trong các năm gần đây.
Mặc dầu hơn một năm
trước khi c̣n là Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Phú
Trọng đă t́m cách tŕ
hoăn và cố t́nh coi nhẹ
tranh chấp về biển Đông
khi ông tuyên bố
"t́nh h́nh biển Đông
không có ǵ mới"[5]
để cấm Quốc hội không
được phép thảo luận.
Nhưng suốt trong thời
gian qua Nguyễn Phú
Trọng đă phải bịt mắt,
che tai và ngậm miệng
trước những hành động
ngang ngược của hải quân
Trung quốc vào đầu năm
nay trên biển Đông
[6] và rồi nay lại
phải kí "Thỏa
thuận những Nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển"
rất lợi cho Bắc kinh.
Các sự kiện này minh
chứng rằng, những nhân
nhượng và cúi đầu của
Nguyễn Phú Trọng không
được Bắc kinh trọng mà
lại càng lấn tới!
Ai ra lệnh và ai thi
hành? Hay nhượng bộ đế
quốc, đàn áp nhân dân!
Chỉ 4 ngày sau khi
Nguyễn Phú Trọng từ
Trung quốc trở về, chính
ông đă đọc diễn văn quan
trọng trước cuộc họp đầu
tiên của Hội đồng Lí
luận Trung ương khoá
mới, ra lệnh cho uỷ viên
Bộ chính trị Đinh Thế
Huynh, người đứng đầu cơ
quan này –có mặt trong
phái đoàn đi Trung quốc
của Nguyễn Phú Trọng –
bắt "trí thức XHCN" phải
nặn óc t́m ra những
"đột phá về lí luận"
nhằm "kiên quyết đấu
tranh phê phán các quan
điểm sai trái, xuyên tạc
của các thế lực thù địch
để bảo vệ Đảng, bảo vệ
chế độ."[7]
Rồi ba ngày sau Nguyễn
Phú Trọng đă thân hành
tới Học viện Chính trị
Quốc pḥng, nơi đào tạo
sĩ quan cao cấp của chế
độ độc tài toàn trị, để
trao Huân chương Sao
vàng (cao nhất) cho học
viện này.
Trong toàn bộ diễn văn
trước tướng lănh và sĩ
quan cao cấp không có
đoạn nào hay câu nào
Nguyễn Phú Trọng thông
báo cho tướng lănh và bộ
đội biết rơ t́nh h́nh
căng thẳng trên biển
Đông hiện nay và mối đe
doạ mất các hải đảo và
biển Đông do nước nào
gây ra và giải pháp đối
phó của VN phải như thế
nào. Trái lại,
Nguyễn Phú Trọng lại cố
t́nh t́m cách định hướng
dư luận đi sai hoàn
toàn, cho rằng t́nh h́nh
nguy hiểm hiện nay là do
"các thế lực thù địch",
"diễn biến hoà b́nh", và
"tự diễn biến"
[8] ngay trong thành
phần đảng viên. Các cụm
từ này được nhóm cầm đầu
toàn trị ám chỉ Mĩ, EU,
các cộng đồng VN ở nước
ngoài đang hỗ trợ tích
cực các giới trí thức và
thanh niên trong nước
đang cùng với các đảng
viên CS tiến bộ và c̣n
biết tự trọng đang đứng
lên vận động chuyển đổi
VN từ độc tài toàn trị
sang dân chủ đa nguyên
bằng phương pháp phi bạo
lực. Trước mặt các tướng
lănh và sĩ quan Nguyễn
Phú Trọng đă đổi trắng
thành đen, kết án người
yêu nước thành phản
động:
"Các thế lực thù địch
tiếp tục đẩy mạnh chiến
lược "diễn biến ḥa
b́nh", ḥng làm chuyển
biến về chính trị tư
tưởng, thúc đẩy "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa",
kích động, chia rẽ, đ̣i
phi chính trị hóa quân
đội, hạ thấp vai tṛ, uy
tín lănh đạo của Đảng
đối với đất nước, quân
đội; xóa bỏ mục tiêu, lư
tưởng, con đường đi lên
chủ nghĩa xă hội mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta đă lựa chọn. T́nh
h́nh đó đ̣i hỏi chúng ta
phải luôn luôn tỉnh táo,
cảnh giác, không ngừng
chăm lo, củng cố, tăng
cường sức mạnh quốc
pḥng, kết hợp chặt chẽ
nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xă hội và bảo vệ
Tổ quốc xă hội chủ
nghĩa. "[9]
Các lời xuyên tạc và
chụp mũ trên đây của
Nguyễn Phú Trọng hoàn
toàn phản ảnh quan điểm
của Thông báo chung
VN-Trung quốc:
"không để các thế lực
thù địch phá hoại quan
hệ hai Đảng, hai nước."[10]
Chỉ ba ngày sau khi cùng
Nguyễn Phú Trọng từ
Trung quốc trở về, uỷ
viên Bộ chính trị, Bí
thư trung ương và Trưởng
ban Tuyên giáo Đinh Thế
Huynh đă ra lệnh cho 4
cơ quan truyền thông
hàng đầu của chế độ là
Tổng biên tập báo Nhân
dân cùng với ba Tổng
giám đốc Thông tấn xă
VN, đài Truyền h́nh và
đài Phát thanh VN phải
"kư kết một chương tŕnh
phối hợp công tác"
chặt chẽ với nhau hơn
trong việc
"định hướng thông tin"
đối với xă hội. Nghĩa là
bắt các nhà báo, biên
tập viên các đài phải
uốn cong ng̣i bút, cong
lưỡi nói tốt về lănh
đạo, đồng thời bịt mắt,
bịt miệng nhân dân và
thoá mạ trí thức và
thanh niên yêu nước. Tuy
từ trước tới nay các cơ
quan trực thuộc Trung
ương và Chính phủ vẫn
làm việc chung với nhau,
nhưng họ cho biết, đây
là
"lần đầu tiên"
4 cơ quan hàng đầu về
tuyên truyền kí kết
chung để
"xây dựng một ḍng thông
tin chính thống đủ mạnh,
góp phần tạo nên sự đồng
thuận cao trong xă hội."
với mục tiêu "để định
hướng dư luận xă hội".[11]
Thế vẫn chưa đủ, ba ngày
hôm sau Uỷ viên Bộ chính
trị, bộ trưởng Công an
Trung tướng Trần Đại
Quang và Tổng giám đốc
Thông tấn xă VN Nguyễn
Đức Lợi đă kí kết liên
tịch để hợp tác t́nh báo
và thông tin tuyên
truyền.[12]
Như vậy
câu hỏi được đưa ra ở
đây là, tại sao họ đang
phải hung hăng ra tay
răn đe bộ đội, đảng viên
và nhân dân ngay sau khi
từ Trung quốc trở về?
Nếu hiểu cách tính toán,
tổ chức và chọn lựa thời
điểm ra tay của những
người cầm đầu chế độ
toàn trị th́ các hoạt
động trên đây không phải
t́nh cờ chỉ ít ngày sau
khi từ Bắc kinh trở về.
Quan trọng nữa là chính
bản thân Nguyễn Phú
Trọng, với tư cách Tổng
bí thư và Bí thư Quân uỷ
Trung ương và những
người cầm đầu ngành tư
tưởng và công an Đinh
Thế Huynh và Trần Đại
Quang đă có những hoạt
động tập trung trong
lănh vực quốc pḥng, an
ninh và tuyên truyền
nhằm kiểm soát khắt khao
hơn nữa cả Đảng, Chính
phủ, quân đội và nhân
dân trong lănh vực tư
tưởng và tuyên truyền.
Họ đă tiên liệu các phản
ứng chống đối ở trong
nhân dân, trong đảng,
trong bộ đội và chính
quyền đối với những
chính sách nhượng bộ vô
nguyên tắc và gắn chặt
VN hơn nữa với Trung
quốc từ chuyến thăm
Trung quốc của Nguyễn
Phú Trọng. Cho nên họ
phải t́m cách ra tay
ngăn chặn kịp thời các
bất măn trong Đảng, quân
đội và nhân dân. Đó là
gia tăng kiểm soát tư
tưởng và báo chí và tăng
cường áp chế, đe doạ các
thành phần chống đối
trong đảng và ngoài xă
hội để t́m cách bóp chẹt
từ trong trứng nước các
tư tưởng chống đối sự
ươn hèn trước Bắc kinh
của phái đoàn Nguyễn Phú
Trọng. Tóm lại,
v́ nhượng bộ đế quốc nên
họ phải ra tay đàn áp
nhân dân, có như vậy th́
họ mới mong giữ được
quyền hành tiếp tục!
Nếu theo dơi công việc
chuẩn bị cho chuyến đi
Trung quốc của Nguyễn
Phú Trọng đă được ba
phái đoàn VN là: Thứ
trưởng Ngoại giao Hồ
Xuân Sơn (tháng 6), Thứ
trưởng Quốc pḥng tướng
Nguyễn Chí Vịnh (tháng
8) và Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị Tướng Ngô Xuân
Lịch (tháng 9) cùng với
hai phái đoàn Trung quốc
Uỷ viên Bộ chính trị và
Phó Chủ tịch Quân ủy
trung ương Tướng Quách
Bá Hùng (tháng 4) và
nhân vật cao nhất Phụ
trách Ngoại giao và Giám
đốc Văn pḥng An ninh
quốc gia Đới Bỉnh Quốc
(tháng 9)[13]
và kết quả cuộc hội đàm
của Nguyễn Phú Trọng và
Hồ Cẩm Đào ngày 11.10
xuyên qua Thông báo
chung và 6 văn kiện đă
kí kết th́ sẽ thấy rất
rơ ràng,
Bắc kinh đứng vị thế ra
lệnh c̣n Hà nội chỉ là
người thi hành.
Việc này người ta có thể
nhận thấy ngay trong
cuộc
"hội đàm hẹp"
giữa hai phái đoàn ngay
sau khi Nguyễn Phú Trọng
tới Bắc kinh vài giờ.[14]
Đài Bắc kinh đă tường
thuật câu nói của Hồ Cẩm
Đào với Nguyễn Phú
Trọng:
"Tổng Bí thư, Chủ tịch
Trung Quốc Hồ Cẩm Đào
chỉ rơ, trước khi tranh
chấp trên biển được giải
quyết, không nên áp dụng
hành động làm phức tạp
hoá và mở rộng tranh
chấp, xử lư những vấn đề
xuất hiện bằng thái độ
b́nh tĩnh và mang tính
xây dựng, không để những
vấn đề liên quan ảnh
hưởng tới quan hệ hai
Đảng và hai Nhà nước
Trung Quốc-Việt Nam cũng
như hoà b́nh và ổn định
của Nam Hải…"
[15]
Yêu sách trên của Hồ Cẩm
Đào đă được thể hiện rơ
trong Thông báo chung
ngày 15.10:
"Trước khi giải quyết
dứt điểm tranh chấp trên
biển, hai bên cùng giữ
ǵn ḥa b́nh, ổn định
trên Biển Đông, giữ thái
độ b́nh tĩnh và kiềm
chế, không áp dụng hành
động làm phức tạp hóa
hoặc mở rộng thêm tranh
chấp, không để các thế
lực thù địch phá hoại
quan hệ hai Đảng, hai
nước, xử lư các vấn đề
nảy sinh với thái độ xây
dựng, không để ảnh hưởng
tới quan hệ hai Đảng,
hai nước và ḥa b́nh, ổn
định ở Biển Đông."
[16]
Thử hỏi trong thời gian
qua bên nào đang gây bất
ổn và phá hoại hoà b́nh
trên biển Đông với các
hành động rất ngang
ngược, như cho các tầu
hải quân Trung quốc xâm
lấn hải phận VN, tiếp
tục đàn áp ngư dân VN,
cấm các công ti ấn, Mĩ,
Anh khai thác dầu khí ở
thềm lục địa VN? Thậm
chí giữa lúc kí Thoả
thuận về Biển Đông, hải
quân Trung quốc lại vừa
thiết lập một trạm quân
y trên đảo Đá Chữ thập
đỏ (tên Trung quốc: Vĩnh
Thử -Yongshu Ree), thuộc
quần đảo Trường Sa, cho
tới 1988 c̣n thuộc VN.[17]
Rơ ràng những hành động
xâm lấn và thách đố
ngang ngược trên là
những tính toán chủ động
của Bắc kinh. Nhưng nay
họ lại đóng vai cha mẹ
khuyên Hà nội là không
"làm phức tạp hoá" và
"mở rộng thêm tranh
chấp"!
Cướp đảo, chiếm biển và
giết ngư dân lân bang,
nhưng Hồ Cẩm Đào vẫn
khuyên bảo Nguyễn Phú
Trọng là phải giữ
"thái độ xây dựng" theo
"phương châm 16 chữ vàng
và bốn tốt" và
c̣n ra lệnh cho Nguyễn
Phú Trọng phải thực hiện
đ̣i hỏi của Bắc kinh là
"không để các thế lực
thù địch phá hoại quan
hệ hai Đảng, hai nước".
Nghĩa là, không cho VN
liên kết với các nước
khác, cô lập VN với quốc
tế, đồng thời bắt Hà nội
phải cấm báo chí, bịt
miệng dân và đàn áp các
cuộc biểu t́nh yêu nước
của thanh niên và trí
thức VN! Trong khi đó
báo chí của ĐCS Trung
quốc vẫn công khai đe
doạ VN, như tờ Hoàn cầu
thời báo –bản tiếng Anh
của tờ Nhân dân, cơ quan
trung ương ĐCS Trung
quốc- mới đây ngày 25.10
đă viết bài sẽ dùng cả
quân sự trong tranh chấp
biển Đông.[18]
Trước thái độ hống hách
và trịch thượng như vậy
của Hồ Cẩm Đào th́
Nguyễn Phú Trọng đă trả
lời như thế nào trong
cuộc họp của hai phái
đoàn? Đài Bắc kinh cho
biết, trong cuộc họp này
Nguyễn Phú Trọng đă đối
đáp với Hồ Cẩm Đào:
"Tổng Bí thư Nguyên Phú
Trọng bày tỏ Việt Nam
sẵn sàng cùng với Trung
Quốc nghiêm chỉnh thực
hiện tốt Thỏa thuận
nguyên tắc cơ bản về vến
đề trên biển, kiên tŕ
hiệp thương hữu nghị và
đàm phán, xử lư và giải
quyết ổn thoả, không để
cho vấn đề liên quan ảnh
hưởng tới quan hệ hai
Đảng và hai Nhà nước,
ảnh hưởng đến t́nh cảm
của nhân dân hai nước
cũng như hoà b́nh, ổn
định tên biển. "
[19]
Không những thế, ngay
sau khi từ Bắc kinh trở
về Nguyễn Phú Trọng,
Đinh Thế Huynh và Trần
Đại Quang đă thực hiện
một loạt hành động nhằm
bịt miệng nhân dân, các
đảng viên và bộ đội, như
đă tŕnh bày ở trên. Như
vậy thật hết sức rơ
ràng: Ở đây ai ra lệnh
và ai thi hành!
Các thoả thuận của
Nguyễn Phú Trọng với Hồ
Cẩm Đào
Ngay sau các cuộc hội
đàm và hội kiến ngắn
giữa hai phái đoàn. Tại
Đại lễ đường Nhân dân ở
Bắc kinh chiều 11.10
Nguyễn Phú Trọng và Hồ
Cẩm Đào đă chứng kiến lễ
kí kết 6 văn kiện giữa
hai bên nhằm thúc đẩy
"hợp tác chiến lực toàn
diện" giữa
hai ĐCS và hai nước với
nhau. Quan trọng hàng
đầu và được dư luận VN
và quốc tế chú ư nhất là
"Thỏa thuận những Nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển
giữa nước CHXHCN Việt
Nam và nước CHND Trung
Hoa." mà
những hệ lụy khốc hại
của nó là làm vị thế đàm
phán của VN càng yếu thế
hơn và đồng thời vai tṛ
và uy tín của VN trong
khu vực và quốc tế đang
suy giảm, như đă tŕnh
bày ở phần đầu. Ngoài
ra, 5 văn kiện kí kết
khác cũng có những tác
dụng và hậu quả rất nguy
hiểm cho quyền lợi trước
mắt và lâu dài cho VN.
Trong đó đáng kể nhất
là:
"- Kế hoạch hợp tác giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Cộng sản Trung
Quốc giai đoạn
2011-2015.
- Quy hoạch phát triển 5
năm về hợp tác kinh tế,
thương mại giai đoạn
2012-2016 giữa Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam và
Chính phủ nước CHND
Trung Hoa.
- Thỏa thuận hợp tác
giữa Bộ Giáo dục và Đào
tạo nước CHXHCN Việt Nam
và Bộ Giáo dục nước CHND
Trung Hoa giai đoạn
2011-2015;"[20]
Trong điểm 4 của Thông
báo chung ngày 15.10 ghi
rơ những lănh vực hợp
tác giữa hai Đảng: Gặp
gỡ các cấp cao, hội thảo
lí luận, đào tạo cán bộ
Đảng và chính quyền, họp
định ḱ của các Ban đối
ngoại và Ban Tuyên giáo.
Trong lănh vực quốc
pḥng: tăng cường hợp
tác quân đội hai nước,
thăm viếng cấp cao quân
đội, lập đường giây nóng
giữa hai bộ quốc pḥng,
tiếp tục Hội nghị chiến
lược cấp thứ trưởng,
tuần tra chung trong
Vịnh bắc bộ, đào tạo và
giao lưu sĩ quan trẻ…
Việc tăng cường hợp tác
giữa hai đảng và hai
quân đội đă được Nguyễn
Phú Trọng cho thực hiện
ngay trước và trong
chuyến đi Bắc kinh. Cuối
Tháng 8 Nguyễn Chí Vịnh
đă sang Bắc kinh họp
"Đối thoại chiến lược
quốc pḥng an ninh
Việt-Trung",
thề với Bắc kinh:
"Những tranh chấp chủ
quyền giữa Việt Nam và
Trung Quốc, rơ ràng cần
giải quyết hai nước với
nhau." và "kiên quyết xử
lư vấn đề tụ tập đông
người ở Việt Nam với
tinh thần không để sự
việc tái diễn."
[21] Giữa tháng 9
Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ
nhiệm Tổng cục Chính
trị, đă đưa một đoàn
hùng hậu gồm 9 tướng
sang thăm các đơn vị
quân đội Trung quốc
trong nhiều ngày
[22] và cũng thề với
Bắc kinh
"Việt Nam không có ư
định quốc tế hóa các vấn
đề tranh chấp trên Biển
Đông. Vấn đề tranh chấp
giữa hai nước th́ do hai
nước giải quyết."
[23] Và nhờ các lời
thề này nên cuối cùng
Bắc kinh mới để Nguyễn
Phú Trọng cầm đầu một
phái đoàn hùng hậu nhất
sang thăm vào giữa tháng
10 kí
"Thỏa thuận những Nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển"
theo đúng những ǵ mà
Nguyễn Chí Vịnh và Ngô
Xuân Lịch đă thoả thuận
với Bắc kinh.
Trong lănh vực kinh tế,
thương mại hai bên đă kí
"Quy hoạch phát triển 5
năm về hợp tác kinh tế,
thương mại giai đoạn
2012-2016 giữa Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam và
Chính phủ nước CHND
Trung Hoa." Qua đó
cho thấy mức độ kiểm
soát dạ dầy VN của Bắc
kinh đang gia tăng tới
mức nguy hiểm. Bắc kinh
biết rơ t́nh h́nh kinh
tế, tài chính của VN
đang gặp khó khăn lớn
nhất trong 20 năm qua,
như chính Nguyễn Tấn
Dũng đă phải nh́n nhận
trong ḱ họp thứ hai của
Quốc hội đang diễn ra
hiện nay.[24]
Bắc kinh cũng biết rơ
mức lạm phát phi mă cao
nhất Á châu của VN đang
lên tới trên 20%, nợ
công của VN đang gia
tăng khủng khiếp, mức dự
trữ ngoại tê rất thấp,
trong khi ấy mức nhập
siêu từ Trung quốc ngày
càng gia tăng chóng mặt.
Cuối năm qua mức này đă
lên tới gần 13 tỉ USD.[25]
Giữa khi đó hàng hoá của
Trung quốc ngày càng
tràn ngập VN, đứng đầu
các nước buôn bán với
VN. Đại sứ Trung quốc
mới ở VN Khổng Huyễn Hựu
vừa cho biết, mức giao
thương trong năm 2010 đă
lên tới gần 31 tỉ USD,
chỉ mới sáu tháng đầu
năm nay đă đạt 18,6 tỉ
USD (tăng 40,9% so với
cùng ḱ năm trước).[26]
Trong khi ấy các xí
nghiệp Trung quốc đă
trúng thầu tới 90% các
công tŕnh hạ tầng ở VN.
Số công nhân Trung quốc
làm việc lậu ở VN ngày
càng gia tăng. Ngay cả
trong cuộc họp về kinh
tế thương mại trong
chuyến đi của Nguyễn Phú
Trọng cũng cho thấy vị
thế rất yếu của Hà nội.
Bộ trưởng Kế hoạch và
Đầu tư Bùi Quang Vinh
khi họp với bộ trưởng
Thương mại Trung quốc
Trần Đức Minh đă không
dám đưa ra đ̣i hỏi cải
thiện cán câm mậu dịch
giữa hai nước như trước
đây![27]
Nói tóm lại,
Bắc kinh đang kiểm soát
dạ dầy VN, cho nên họ
mới có thể ra lệnh cho
nhóm cầm đầu CSVN.
Đ̣n dương đông kích tây
và cái dù "tập thể lănh
đạo" của Nguyễn Phú
Trọng
Chung quanh chuyến đi
Trung quốc c̣n có một số
sự kiện đáng để ư từ
thành phần phái đoàn tới
các đ̣n dương đông kích
tây quen thuộc của
Nguyễn Phú Trọng. Chuyến
thăm Ấn độ của Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang
trùng với sự có mặt của
Nguyễn Phú Trọng ở Bắc
kinh khiến cho dư luận
bảo là, Hà nội muốn chọc
giận Bắc kinh! Nhưng nếu
lưu ư một số động thái
của Bắc kinh cũng trong
thời gian này th́ lại có
cái nh́n thực tế hơn.
Giữa khi ông Sang thăm
Tân đề li để liên kết
quân sự và kinh tế với
Ấn th́ Bắc kinh cho
biết, Hải quân Trung
Quốc vừa thiết lập một
trạm quân y gần đảo Đá
Chữ thập đỏ thuộc quần
đảo Trường Sa (Trung
Quốc gọi là đảo Vĩnh Thử
), gần nơi xảy ra cuộc
hải chiến năm 1988,
trong đó gần 70 chiến sĩ
hải quân VN bị Trung
Quốc bắn thiệt mạng.[28]
Chính lúc Nguyễn Phú
Trọng đặt chân tới Bắc
kinh th́ Bắc kinh cho
biết, đă kí kết với
Kampuchia để khai thác
dầu khí ở ngoài khơi
Kampuchia ngay sát đảo
Phú quốc của VN và Trung
quốc trở thành nước viện
trợ quân sự lớn nhất của
Kampuchia.[29]
Ngoài ra cũng vào lúc đó
Bắc kinh c̣n cho biết,
đă thoả thuận với Lào mở
rộng chương tŕnh phát
thanh bằng tiếng Lào của
đài Phát thanh Quốc tế
Trung quốc từ 2 giờ lên
6,5 giờ mỗi ngày và c̣n
thiết lập cả trụ sở đài
này ngay tại Vạn tượng (
–đài này không đặt trủ
sở ở VN).
[30] Như vậy là hai
sân sau của Hà nội đă bị
Bắc kinh chiếm xong, hay
chiếm phần chính rồi!
Một sự kiện đáng chú ư
khác nữa là, giữa khi
Nguyễn Phú Trọng đặt
chân tới Bắc kinh th́
Trung quốc đang "họp
kín" với Mĩ. Chính Thông
tấn xă VN và Đài Bắc
kinh cho biết, ngày
11.10 tại Bắc kinh Thứ
trưởng Ngoại giao Trung
quốc Thôi Thiên Khảo và
Trợ lí bộ Ngoại giao Mĩ
Kurt Campbell đang
họp kín
lần thứ hai về
"công việc châu Á-Thái
b́nh dương".[31]
Như thế th́ ai đang chọc
giận ai, ai tháu cáy ai?
Hai đảng anh em lại đánh
đ̣n cân năo với nhau,
mặc dầu vẫn nói oang
oang với bên ngoài là
hai bên quyết v́
"sự nghiệp chủ nghĩa xă
hội", "tin cậy lẫn nhau"
và "tôn trọng lẫn nhau"!
[32]
Ông Trọng đă tŕnh diện
tại Bắc kinh một phái
đoàn hùng hậu nhất từ
trước tới nay[33],
gồm 4 uỷ viên Bộ chính
trị –kể cả Nguyễn Phú
Trọng- và 11 uỷ viên
Trung ương đảng. Đại
diện cho Đảng và Chính
phủ được cân bằng nhau,
trong đó không chỉ
Trưởng ban đối ngoại
Trung ương Hoàng B́nh
Quân mà c̣n có cả Bộ
trưởng Ngoại giao Phạm
B́nh Minh. Trong phái
đoàn c̣n có cả Bộ trưởng
Quốc pḥng Phùng Quanh
Thanh. Thoạt nh́n cứ
tưởng với thành phần
hùng hậu cả bá quan văn
vơ như thế là Nguyễn Phú
Trọng muốn hù nhóm cầm
đầu Bắc kinh là ta có
hậu thuẫn của toàn đảng,
toàn quân và chính phủ
để Bắc kinh đừng quá
chèn ép. Nhưng khi nh́n
vào kết quả qua các văn
kiện và Thông báo chung
đă được kí kết th́ sự
thực đi ngược lại. Chính
Bắc kinh đă thắng thế.
V́ ngay tại Hội nghị
Trung ương 3 ngay trước
khi Nguyễn Phú Trọng đi
Bắc kinh, vấn đề tranh
chấp với Trung quốc trên
biển Đông đă không được
bàn tới.[34]
Cho nên từ Thông báo
chung tới 6 văn kiện đă
được kí kết cho thấy, Hồ
Cầm Đào đă đạt được phần
chính mục tiêu và yêu
sách đối với Nguyễn Phú
Trọng, như đă tŕnh bày
ở phần trên.
Chính v́ thế, phái đoàn
hùng hậu đi Bắc kinh lần
này không thể đánh giá
là cách doạ nạt Bắc
kinh, mà phải thấy đây
là cách nhằm đối phó với
dư luận trong Đảng và
trong nhân dân, một đ̣n
dương đông kích tây, một
thủ đoạn rất nham hiểm
của Nguyễn Phú Trọng.
Dùng một đoàn rất hùng
hậu đi Bắc kinh là trước
hết Nguyễn Phú Trọng
muốn nhắn cho dư luận
trong nước, nhất là các
giới chống sự cúi đầu
của Nguyễn Phú Trọng với
Bắc kinh, là ta đang có
hậu thuẫn của toàn đảng,
toàn quân, toàn chính
phủ. Tức là các quyết
định của phái đoàn CSVN
tại Bắc kinh là quyết
định tập thể của Đảng và
Chính phủ chứ không phải
hành động riêng của
Nguyễn Phú Trọng. Ngoài
ra, nếu tinh ư th́ sẽ
thấy thêm thủ đoạn của
Nguyễn Phú Trọng lôi cho
được Ngô Văn Dụ, tân Ủy
viên Bộ Chính trị, Bí
thư Trung ương Đảng, Chủ
nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Trung ương, tham dự phái
đoàn đi Bắc kinh. Mặc dù
với với chức vụ này ông
Dụ không có trọng trách
và thẩm quyền trực tiếp
ǵ trong chính sách đối
ngoại cả. Nhưng trong
các cuộc họp của Bộ
chính trị và Trung ương
đảng sau này, với chức
vụ Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm
tra Trung ương, ông Dụ
có thể làm chứng và bào
chữa cho Nguyễn Phú
Trọng là các thoả thuận
với Bắc kinh không vi
phạm các nguyên tắc Điều
lệ của Đảng. Nhờ vậy vị
thế của Nguyễn Phú Trọng
trong Đảng được bảo vệ.
Đây là đ̣n t́m cách khoá
miệng những nhân vật ở
trong Trung ương không
ưa Nguyễn Phú Trọng.
Như vậy có thể thấy là,
các văn kiện kí kết và
thái độ khép nép của
Nguyễn Phú Trọng trước
Hồ Cẩm Đào tại Bắc kinh
đă cho thấy, phái đoàn
hùng hậu của Nguyễn Phú
Trọng không phải là đề
hù doạ Bắc kinh. Việc
này Nguyễn Phú Trọng
thừa biết trước khi sang
Bắc kinh, v́ nội dung
các văn kiện sẽ được kí
kết khi tới Bắc kinh đă
được các cấp dưới của
hai bên đàm phán xong từ
trước. Nhưng dùng phái
đoàn hùng hậu đi Bắc
kinh thâm ư của Nguyễn
Phú Trọng muốn hù doạ
nhân dân trong nước,
đồng thời muốn khoá
miệng những nhân vật
chống Nguyễn Phú Trọng ở
trung ương!
* * *
Nếu theo dơi cách tính
toán gian xảo và sự
trọng bề ngoài theo lối
đóng kịch của Nguyễn Phú
Trọng trong những năm
gần đây th́ lại càng
thấy cách tŕnh diễn
"lănh đạo tập thể" và
"dân chủ thực chứ không
dân chủ h́nh thức"
trong chuyến đi Bắc kinh
cho thấy con người thực
của người cầm đầu chế độ
độc tài toàn trị ở VN
hiện nay.
Dùng cái dù "lănh đạo
tập thể" để thực hiện ư
đồ riêng, đồng thời để
trốn tránh trách nhiệm
cá nhân. Nhượng bộ các
yêu sách của Bắc kinh và
ngoan ngoăn tuân lệnh
của Hồ Cẩm Đào, nhưng
vẫn cố t́nh tŕnh diễn
đó là quyết định của tập
thể!
Thế vẫn chưa đủ, ngay
sau khi về nước Nguyễn
Phú Trọng lại nhân danh
"lănh đạo tập thể" ra
hàng loạt các biện pháp
độc tài phản động để
khoá miệng báo chí không
được chỉ trích những
nhượng bộ vô nguyên tắc
với Bắc kinh, đồng thời
tăng cường đe doạ và
khủng bố nhân dân - đi
đầu là thanh niên, trí
thức và các đảng viên
tiến bộ- không được tổ
chức biểu t́nh chống các
hành động xâm lấn ngang
ngược của phương Bắc.
Như vậy, dù có sử dụng
mánh lới dương đông kích
tây hay thủ đoạn che dù
"lănh đạo tập thể",
nhưng Nguyễn Phú Trọng
không thể che đậy được
sự thực là, càng nhượng
bộ và càng cúi đầu th́
nhóm cầm đầu Bắc kinh sẽ
càng ngang ngược lấn
tới. Mục tiêu và sách
lược của đế quốc cũ và
mới là bao vây, chia rẽ
đối thủ để thôn tính.
Chuyến đi Bắc kinh vừa
qua của Nguyễn Phú Trọng
đă mở rộng đường cho ư
đồ đen tối của Bắc kinh
đối với VN, cụ thể là
trên biển Đông !
♣
[1]
Âu Dương Thệ
___________________
Ghi chú
<<trở về đầu trang>>