|
Khai mạc Hội
Nghị Ban Chấp hành trung
ương, ngày 6/10/2011,
Nguyễn Phú Trọng cho
biết:
“T́nh h́nh kinh tế - xă
hội của đất nước lại
đang có những khó khăn,
phức tạp, đ̣i hỏi phải
có sự lănh đạo, chỉ đạo
tập trung, thống nhất
của Trung ương. V́ vậy,
Bộ Chính trị đề nghị
Trung ương dành thời
gian thích đáng cho nội
dung này.” Lư do
triệu tập Hội Nghị xác
nhận đảng Cộng sản đang
gặp bế tắc trong việc
điều hành nền kinh tế
Việt Nam.
Trong lời khai mạc Ông
Trọng c̣n tiết lộ đă có
những khác biệt ư kiến
trong Bộ Chính Trị về
việc điều hành kinh tế
của Thủ Dũng đến độ phải
công khai mang ra bàn
thảo:
“Vừa qua, các báo cáo,
tài liệu của Ban cán sự
đảng Chính phủ đă được
chuẩn bị công phu,
nghiêm túc; đă lắng
nghe, tiếp thu được
nhiều ư kiến đóng góp
của các ngành và các cơ
quan, các chuyên gia,
các nhà khoa học.
Bộ Chính trị cũng đă
dành một ngày để nghe và
cho ư kiến. Tuy nhiên,
do đây là vấn đề lớn và
rất hệ trọng, không ít
nội dung c̣n có ư kiến
khác nhau …”
Ông Trọng đề nghị Ban
Chấp hành trung ương:
“cần trả lời câu hỏi,
hiện nay kinh tế - xă
hội nước ta đang ở đâu;
đă vượt qua thời điểm
khó khăn nhất chưa; xu
hướng sắp tới thế nào ?
Nhận định, đánh giá
chuẩn xác t́nh h́nh và
dự báo đúng xu hướng
phát triển là căn cứ rất
quan trọng để có quyết
sách đúng.” Ông c̣n tự
hỏi “Phải chăng sắp tới
chúng ta vẫn phải tiếp
tục ưu tiên hàng đầu cho
việc kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô và
bảo đảm an sinh xă hội,
duy tŕ mức tăng trưởng
hợp lư gắn với đổi mới
mô h́nh tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế; tạo
tiền đề vững chắc cho
tăng trưởng cao hơn ở
những năm tiếp theo của
kế hoạch 5 năm.” Câu
nói cho thấy chính cá
nhân ông cũng không c̣n
tin tưởng vào khả năng
điều hành kinh tế của
Thủ Dũng. Ông c̣n xác
nhận những phân hóa trầm
trọng đang xảy ra giữa
14 thành viên Bộ Chính
Trị đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Kinh Tế Thị Trường Chỉ
tồn tại dưới Thể Chế Dân
Chủ
Kinh tế và Chính trị là
hai lănh vực luôn gắn bó
bên nhau. Thể chế chính
trị dân chủ v́ dân do
dân và của dân. Vậy phải
chăng nền kinh tế tự do
cũng là của dân do dân
và v́ dân ? Đúng vậy
kinh tế quốc dân là tổng
hợp tài sản,
cả vật chất lẫn tinh
thần, của tất cả các
thành viên sống trong
cộng đồng quốc gia. Do
đó sự phát triển của một
nền kinh tế là từ thành
quả đóng góp của mọi
thành viên và v́ lợi ích
chung của cộng đồng dân
tộc. Dân có giàu th́
nước mới mạnh.
Ông Adam Smith đưa ra lư
thuyết về một nền kinh
tế lư tưởng, ở đó mọi cá
nhân được ḥan ṭan tự
do quyết định và hành
động kinh tế để tối đa
lợi ích cá nhân. Ông tự
ví kinh tế tự do như
cánh tay vô h́nh tạo nên
sự thăng tiến xă hội.
Trên thực tế quyền lợi
và quyền lực cá nhân lại
là động cơ thúc đẩy con
người hành động. Cá nhân
lại thường quên đi hay
không biết đến quyền lợi
của xă hội và của các
thế hệ tương lai. Từ suy
nghĩ ích kỷ dẫn đến họat
động kinh tế không mang
đến lợi ích tối ưu, mà
có khi c̣n làm hại cho
xă hội. Thị trường tự do
lư tưởng không tồn tại
trên thực tế.
Xă hội càng tiên tiến
th́ những mặt trái của
thị trường tự do càng
bộc lộ. Từ đó chính phủ
được giao cho trách
nhiệm điều chỉnh các yếu
kém của thị trường tự do
nhằm mang lại lợi ích
tối ưu cho cộng đồng dân
tộc. Dưới thể chế dân
chủ người dân sẽ tự do
chọn lựa người đại diện
để bảo vệ và tranh đấu
cho quyền lợi của ḿnh.
Thể chế dân chủ cũng
phát sinh hệ thống
truyền thông độc lập và
chuyên môn, thông tin
các sai sót của thị
trường tự do để chính
phủ và cá nhân nhanh
chóng giảm thiểu mối
nguy hại đến xă hội.
Chính v́ thế nền kinh tế
thị trường phải được xây
dựng trên nền tảng của
một thể chế dân chủ. V́
thế trong cùng ḥan cảnh
và điều kiện, nước nào
càng dân chủ th́ dân tộc
đó càng thịnh vượng văn
minh.
Kinh Tế Kế Họach Hóa
Cộng Sản
Ngược lại với thể chế
dân chủ là độc tài ṭan
trị cộng sản. Ở đó mọi
quyết định xuất phát từ
một cá nhân (Stalin, Mao
Trạch Đông …) hay từ một
nhóm người (Bộ Chính
Trị, Trung Ương Đảng…).
Trên lư thuyết mọi người
được nhà nước cộng sản
lo cho từ miếng cơm,
manh áo, đến giáo dục,
công việc làm, thậm chí
cả việc dựng vợ gả chồng
sinh con đẻ cái.
Trên thực tế cá nhân
thường ích kỷ quên đi,
hay thiếu nhận thức được
quyền lợi của xă hội và
của các thế hệ tương
lai. Và khi nhà nước
quyết định mọi vấn đề
th́ các cá nhân cũng mất
đi động lực thăng tiến,
họ trở thành thụ động,
không muốn tiến thủ,
sống bám vào xă hội, dần
dần đưa đất nước đến suy
thoái khủng hỏang. Cán
bộ đảng viên th́ lạm
dụng quyền lực vơ vét
tài sản quốc gia và kết
quả là sụp đổ ṭan bộ hệ
thống như đă xảy ra tại
Đông Âu và Liên Sô. Một
vài quốc gia c̣n bị cộng
sản chiếm đóng như Việt
Nam cũng đang bước vào
con đường sụp đổ.
Mô H́nh Trung Cộng
Cuối thập niên 1970,
Trung cộng đă bắt đầu áp
dụng một mô h́nh cởi mở
kinh tế nhưng vẫn xiết
chặt guồng máy chính
trị. Mô h́nh này khởi
đầu bằng việc Trung cộng
cho thiết lập một số khu
chế xuất với vốn đầu tư
nước ng̣ai sử dụng nguồn
lao động rẻ, tập trung
cho xuất khẩu.
Từ đó đến nay nhà cầm
quyền Trung cộng luôn
t́m mọi cách để trợ giúp
tối đa cho việc xuất
khẩu. Cụ thể nhất là
việc kềm giữ đồng Nguyên
(nhân dân tệ). Nhờ nỗ
lực này hàng Trung cộng
rẻ hơn thực giá để có
thể cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Hàng hóa
sản xuất và xuất khẩu đă
tạo thêm công ăn việc
làm và thúc đẩy thúc đẩy
nền kinh tế tăng trưởng.
Việc gia tăng xuất khẩu
lại tạo ra một cán cân
thương măi thặng dư.
Thặng dư này lại được
đầu tư vào các ngành
công nghệ xuất khẩu tạo
thêm công ăn việc làm và
cứ thế họ cho là phát
triển bền vững và ổn
định.
Thế nhưng việc giữ giá
đồng Nguyên làm giá hàng
sản xuất rẻ hơn thực giá
dẫn đến việc tài nguyên
thiên nhiên bị tận dụng
và nhân công đă không
được bồi ḥan lao động,
tiền lương rất thấp. Nói
cách khác phương cách
điều hành kinh tế của
Trung cộng là lạm dụng
tài nguyên và bóc lột
lao động.
V́ được nhà nước bảo
trợ, các nhà sản xuất
mất đi động lực cạnh
tranh về lâu dài chỉ c̣n
khả năng sản xuất các
mặt hàng rẻ tiền kém
phẩm chất. Ngược lại
hàng hóa nhập cảng phẩm
chất cao th́ lại mắc hơn
thực giá, dẫn đến việc
người dân chỉ được tiêu
thụ các hàng hóa nội địa
kém phẩm chất, hàng tồi,
hàng xấu, hàng độc hại.
Cũng chính v́ những lư
do trên hầu hết các quốc
gia phát triển đă cho
thả nổi đồng tiền để
hàng hóa nước họ được tự
do giao thương trên thị
trường quốc tế và ngược
lại. Giữ giá đồng tiền
là một phương cách lỗi
thời đă được đào thảo từ
ba thập niên qua.
Mô h́nh kinh tế Trung
cộng dẫn đến hai hậu quả
vô cùng nghiêm trọng.
Thứ nhất Trung cộng cạn
kiệt tài nguyên và nhu
cầu nguyên nhiên vật
liệu cần cho sản xuất
càng ngày càng gia tăng.
Thứ đến để tiếp tục gia
tăng sản xuất Trung cộng
bằng mọi cách phải giữ
các thị trường sẵn có và
t́m mọi cách xâm chiếm
các thị trường mới. Sẵn
bản chất bá quyền Trung
cộng trở nên một mối đe
dọa cho nền kinh tế tự
do và ḥa b́nh thế giới.
Thặng dư về ngân sách và
ngọai thương đă dẫn đến
việc giới cầm quyền địa
phương vay mượn nợ công
để đầu tư vào các công
tŕnh thiếu thực tế.
Nhiều công tŕnh lớn
đựơc ḥan tất nhưng phẩm
chất kém hay không mang
lại các lợi ích thiết
thực cho xă hội. Nhiều
tài nạn đă xẩy ra trên
các tuyến đường sắt cao
tốc nói lên đựơc thực
trạng kỹ thuật Trung
cộng. Nhiều thành phố
được xây dựng không
người ở, mặc dù dân Tầu
vẫn thiếu nhà ở phải
chui rúc trong các khu ổ
chuột. Nhiều Tập Đ̣an
kinh tế cũng được thành
lập từ tiền vốn chính
phủ và đều họat động
không mang lại những lợi
ích thiết thực cho quốc
gia. Thậm chí lại lỗ và
trở thành gánh nặng quốc
gia.
Các công tŕnh càng lớn,
các tập đ̣an càng to th́
việc tham ô của công
càng lớn. Khỏang cách
giữa cán bộ giàu có và
người dân nghèo khổ càng
ngày càng mở rộng. Mọi
đầu tư, mọi tập đ̣an,
mọi kỹ nghệ lại tập
trung vào các thành phố
lớn đào sâu khỏang cách
chênh lêch phát triển
giữa nông thôn và thành
thị. Khi kinh tế càng
tăng tốc th́ bất công,
bất măn, chống đối càng
gia tăng và guồng máy
chính trị phải sử dụng
bạo lực trấn áp.
V́ áp dụng mô h́nh này
t́nh trạng tại Việt Nam
c̣n tệ hại hơn và như
Việt Nam Trung cộng đă
trở thành một trái bom
chưa biết nổ lúc nào.
Chiến Tranh Kinh Tế Hoa
Kỳ Trung Cộng
Việc Trung cộng kềm giá
đồng Nguyên ảnh hưởng
đến công ăn việc làm tại
các quốc gia tiêu thụ
hàng hóa nước này. Việt
Nam cũng định giá thấp
đồng tiền nhưng v́ thiếu
ngọai tệ nên ít khả năng
hơn.
Theo ước tính so với Mỹ
kim đồng Nguyên được
định giá thấp hơn chừng
20 đến 40 phần trăm.
Trong khi ấy đồng Việt
lại chỉ trong ṿng trên
dưới 10 phần trăm. Đây
chính là lư do hàng hóa
Trung cộng đă giết chết
nhiều doanh nghiệp Việt
Nam. Sống cạnh nước lớn
các nhà họach định kinh
tế luôn cần quan tâm đến
mọi thay đổi của nước
lớn. V́ các thay đổi này
sẽ có ảnh hưởng trực
tiếp đến quốc gia của
ḿnh.
Ngày 11/10/2011 vừa qua,
Thượng viện Mỹ bỏ phiếu
thông qua Đạo luật giám
sát tỷ giá giao dịch
tiền tệ. Đạo luật này
cho phép chính phủ Hoa
Kỳ áp dụng thuế quan
trên các sản phẩm nhập
cảng vào Hoa Kỳ từ các
nước định giá thấp đồng
tiền của họ. Đạo luật
này chủ yếu buộc Trung
cộng phải tăng giá đồng
Nguyên để cạnh tranh
công bằng trên thị
trường hàng hóa Hoa Kỳ.
Nếu được Hạ Viện thông
qua Đạo luật này sẽ làm
giảm số lượng hàng hóa
nhập khẩu vào Hoa Kỳ,
như thế sẽ giảm sản xuất,
giảm nhân dụng và giảm
mức độ tăng trưởng Trung
cộng.
Việt Nam cũng định giá
thấp đồng Việt nên cũng
sẽ bị chi phối bởi Đạo
Luật này. Trong ṿng 5
năm qua, Trung cộng c̣n
sử dụng Việt Nam như một
cửa khẩu để chuyển hàng
của họ ra thế giới tự
do. Nhiều mặt hàng dán
nhăn sản xuất tại Việt
Nam nhưng thực ra là
hàng hóa được sản xuất
bên Tàu. T́nh trạng này
càng ngày càng trở nên
trầm trọng hơn. Nhiều
quốc gia trên thế giới
đă cảnh cáo sẽ trừng
phạt Việt Nam v́ những
gian dối nói trên.
Cho đến nay một số đại
gia tư bản đỏ được đảng
Cộng sản ban phát đặc
quyền đặc lợi v́ thế
hàng hóa xuất nhập Việt
Nam đều nằm trong ṿng
kiểm sóat của chúng. Bọn
này lại ích kỷ chạy theo
lợi nhuận cấu kết với
ngọai nhân phá họai nền
ngọai thương Việt Nam.
Nếu bị Hoa Kỳ trừng
phạt, chế độ cộng sản
tại Việt Nam sẽ sớm sụp
đổ. Chỉ khổ cho các
doanh nhân lương thiện
và đồng bào sống nhờ sản
xuất các mặt hàng xuất
khẩu.
Kinh Tế Việt Nam Một Nền
Kinh Tế Khát Tiền
Trước năm 1990, nền kinh
tế Việt Nam chủ yếu dựa
vào ngọai viện và vay
mượn từ khối cộng sản.
Năm 1990, khi Liên Sô và
Đông Âu sụp đổ đảng Cộng
sản quyết định quay lại
thuần phục Trung cộng,
áp dụng mô h́nh phát
triển Trung cộng, đồng
thời dựa vào vay mượn và
đầu tư quốc tế để sống
c̣n.
Thủ Dũng chính là người
đă được đảng Cộng sản
giao trọng trách áp dụng
mô h́nh Trung cộng vào
Việt Nam. Thủ Dũng bắt
đầu làm Trưởng Ban Kinh
tế Trung ương, phụ trách
tài chính của đảng năm
1996. Sau đó được đưa
lên giữ chức Phó Thủ
tướng Thường trực và Chủ
tịch Hội đồng Tài chính
- Tiền tệ, kiêm chức
Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. Rồi Thủ
Tướng đại diện đảng Cộng
sản trong việc điều hành
nền kinh tế Việt Nam.
Các lănh đạo cộng sản
trước đây mặc dù cũng lệ
thuộc Trung cộng nhưng
ít ra c̣n biết lắng
nghe, c̣n nhận thấy mối
đe dọa của Trung cộng,
họ cũng chưa đến nỗi vô
cảm để bịt mắt trước nỗi
thống khổ của người dân
và chưa dám công khai
tuyên bố bán nước.
Trong lần tiếp Đại sứ
Trung cộng Khổng Huyễn
Hựu vừa qua, Thủ Dũng
công khai tuyên bố
“Việt Nam luôn ghi nhớ
sự giúp đỡ quư báu của
Trung Quốc trong công
cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trước đây
cũng như trong xây dựng
và phát triển kinh tế
ngày nay.” Vốn ân
sâu nghĩa nặng với Trung
cộng, vốn thấm nhuần tư
tưởng Trung cộng, thiếu
trí tuệ lại mang bản
chất độc tài Thủ Dũng đă
biến Việt Nam thành một
tỉnh nhỏ và nghèo của
Tàu. Sau hơn một nhiệm
kỳ Thủ Tướng, Tấn Dũng
đă đạt những chỉ tiêu vĩ
mô của một nền kinh tế
khát tiền.
Mức bội chi ngân sách
nghĩa là thiếu tiền cho
Thủ Dũng chi tiêu. Tiền
thuế của dân, tiền bán
tài nguyên quốc gia,
tiền vay mượn từ dân từ
ngọai quốc không đủ để
chi trả cán bộ đảng, nhà
nước, tập đ̣an công ty
quốc doanh và những công
tŕnh chi tiêu ḥanh
tráng nhưng chẳng mang
lại lợi ích thiết thực
cho dân.
Đă thiếu tiền, ngày
6/7/2011, Thủ Dũng lại
vừa ban hành Quyết định
1081/QĐ-TTg về Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh
tế – xă hội thành phố Hà
Nội. Thủ Dũng dự kiến
tổng nhu cầu vốn đầu tư
thời kỳ 2011-2015 là từ
1.400 – 1.500 ngh́n tỷ
đồng theo giá thực tế
(tương ứng khoảng 69-70
tỷ USD); và khoảng 2.500
– 2.600 ngh́n tỷ đồng
(tương đương khoảng
110-120 tỷ USD) thời kỳ
2016-2020.” Tiền này
chính yếu là vay mượn từ
Trung cộng.
Nằm trong quy họach này
ba cây cầu vượt ở Mai
Dịch, Ngă Tư Sở và Ngă
Tư Vọng sắp bị phá bỏ.
Cả ba chỉ mới được xây
xong trong ṿng 5 năm đổ
lại, với trị giá gần
5,000 tỉ đồng tương
đương với 250 triệu Mỹ
kim, nay sẽ bị đập bỏ.
Vô cùng lăng phí tài sản
quốc gia.
Cũng nằm trong quy
họach, ngày 10/10/2011,
Tân Bộ trưởng Giao
thông-Vận tải Đinh La
Thăng loan báo Tập đoàn
Cơ khí Đường sắt Trung
Quốc (CREC) sẽ khởi công
xây dựng tuyến tàu điện
trên cao trị giá trên
550 triệu Mỹ Kim tại Hà
Nội. Theo Tân Hoa Xă
khoản tiền đầu tư này là
do chính phủ Trung cộng
cho vay.
Phát biểu trong lễ khởi
công, ông Thăng cho biết
sẽ sớm họp với chính
quyền Hà Nội để giải
quyết dứt điểm các vướng
mắc trong việc thực hiện
dự án tàu điện trên cao
này, nhất là "giải phóng
mặt bằng". Thế ra dự án
này và ṭan quy họach
thành phố Hà Nội là
quyết định của Thủ Dũng.
Quốc Hội không cần thông
qua, chính quyền địa
phương chưa đồng ư, dân
chúng địa phương không
đựơc tham khảo. “Giải
phóng mặt bằng” ít nhiều
sẽ dẫn đến việc cướp đất
của dân và như thế chiến
tranh giữa Thủ Dũng và
bọn tay sai với dân
chúng Hà Nội sẽ nổ ra.
Có áp bức sẽ dẫn đến đấu
tranh. Biết đâu đây sẽ
là ch́a khóa cho Cách
Mạng Hoa Lài tại Việt
Nam.
Nhắc đến Hà Nội lại nhớ
đến Đại lễ “Ngàn Năm
Thăng Long”, Triều đại
Thủ Dũng cũng được tiếng
là thời kỳ của “hoan
lạc”. Chả thế nhà cầm
quyền cộng sản đă chi ra
hằng chục tỷ Mỹ Kim để
mua vui Quốc Khánh Trung
cộng. Có vui người dân
mới vô tư quên đi nợ nần
đang càng ngày càng
chồng chất. Lại là nợ từ
Trung cộng “kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc
Việt Nam”.
Như người viết đă tŕnh
bày trong bài
“Nguyễn Tấn Dũng: Tập
Đ̣an Tư Bản Đỏ”, Thủ
Dũng chính là ngừơi đă
khai sinh ra hằng lọat
các Tập Đ̣an Tổng Công
Ty kiểu Trung cộng họat
động thiếu hiệu quả, đầy
tham ô và lăng phí. Từ
đó dẫn đến nợ nước ngoài
và nợ công càng ngày
càng chồng chất. Kẹt nỗi
Thủ Dũng không thể in
tiền Việt Nam để trả nợ
quốc tế. Thiếu ngọai tệ
là thiếu khả năng thanh
toán quốc tế, trong
trường hợp Vinashin, Tấn
Dũng thành tên quịt nợ.
Xây dựng một nền kinh tế
là phải xây dựng niềm
tin của dân, của các nhà
đầu tư trong nước và
ngoài nước. Tấn Dũng lại
quá tự tin vào tài in
tiền đồng. Tiền càng in
th́ càng mất giá. Lạm
phát phi mă lại làm mất
niềm tin vốn đă rất ít.
Rồi xuất cảng th́ chỉ
tập trung vào hàng hóa
rẻ tiền và nguyên nhiên
liệu thô. Trong khi ấy
lại phải nhập cảng những
hàng hóa cao cấp phục vụ
các Tập Đ̣an Tư Bản Đỏ,
cán cân ngọai thương đâm
ra thâm hụt.
Đặc biệt là hàng hóa của
Trung cộng đă tràn ngập
thị trường Việt Nam.
Hằng năm cán cân giao
thương giữa hai nước
nghiêng về phía Việt Nam
đến hàng chục tỷ Mỹ Kim.
Đó là con số thống kê,
số thực tế cao hơn
nhiều. Nhiều tỉnh ở cực
Bắc Việt Nam sử dụng
đồng Nguyên làm phương
tiện thanh tóan chính
thức. Lư do chính do
thiếu Mỹ Kim dự trữ và
như thế thiếu khả năng
để kềm giá đồng bạc Việt
Nam. Trong năm qua Việt
Nam đă phải nhiều lần
phá giá đồng tiền.
Thiếu khả năng cạnh
tranh đầu tư ngọai quốc
v́ thế cũng sút giảm.
Đầu tư c̣n lại đa phần
đến từ Bắc Phương Trung
cộng. Càng nhận tiền đầu
tư từ Trung cộng Việt
Nam càng lệ thuộc và
càng chóng bị đồng hóa
bởi Bắc Phương.
Hết sức khách quan trong
ṿng 5 năm đổ lại nền
kinh tế Việt Nam đă ḥan
ṭan bị khống trị bởi
người Tàu. Từ hàng hóa
tiêu dùng, đến nhà máy
sản xuất, đến công tŕnh
khai thác tài nguyên,
công tŕnh đầu tư, đều
do người Tàu chủ động.
Người Việt mất cả công
ăn, việc làm và đang
thất thế ngay trên chính
quê hương của ḿnh.
Đảng CSVN Chưa Bao Giờ
Họach Định Kinh Tế Tự Do
Được đào tạo và làm việc
trong nghành kinh tế,
người viết tự tin để nói
rằng Việt cộng chưa bao
giờ có chính sách để
họach định kinh tế tự
do.
Họach định kinh tế vĩ mô
là họach định ngắn hạn,
sáu tháng đến hai năm.
Muốn họach định cần phải
dựa trên những phân tích
và tiên đóan chính xác
về t́nh h́nh kinh tế xă
hội chính trị và quốc
tế. Chính sách vĩ mô
muốn có hiệu quả cần
được đưa ra từ cả năm
trước th́ mới có thể
điều hướng được các chỉ
tiêu vĩ mô. Mọi thay đổi
tại Việt Nam chủ yếu
phát xuất từ 14 cái đầu
rất hẹp chỉ thấy sai th́
sửa, sửa vẫn sai, sai
lại sửa, sửa rồi lại
sai, càng sửa càng sai.
Trong 14 cái đầu này cái
đầu hẹp nhất là đầu của
Thủ Dũng, tiếc thay cái
đầu này lại được đảng
Cộng sản giao cho điều
hành nền kinh tế Việt
Nam.
Chưa có khả năng họach
định vĩ mô, làm sao
những cái đầu chỉ biết
tranh giành quyền lực
chính trị lại có thể
họach định kinh tế vi
mô. Họach định kinh tế
vi mô là họach định thế
chiến lược cần người
biết nh́n xa nh́n rộng
cần viễn kiến.
Như đă nói ở phần trên
kinh tế là của dân do
dân và v́ dân, v́ thế
khi đă mất đi niềm tin
của dân là đă mất đi khả
năng họach định. Giới
cầm quyền Việt Nam cuối
cùng chỉ lo chống đỡ để
bảo vệ đặc quyền đặc lợi
của họ. Đừng nghe những
ǵ cộng sản nói mà hăy
nh́n những ǵ cộng sản
làm.
Cải Cách Vi Mô
Trở lại với Hội Nghị
Trung Ương Đảng nói ở
đầu bài và theo tạp chí
VNEconomic hôm 30 tháng
9 th́ Việt Nam cần có
một cuộc đổi mới thứ
nh́. Tiến sĩ Lê Đăng
Doanh cho biết nếu cuộc
đổi mới lần thứ nhất đă
giúp cho Việt Nam thoát
được cảnh đói nghèo
triền miên của thời bao
cấp, th́ cuộc đổi mới
lần thứ hai được coi là
nhu cầu bức thiết để
giúp Việt Nam thoát khỏi
một cuộc khủng hoảng tài
chính đang cận kề.
Được Đài Á Châu Tự Do
phỏng vấn, Tiến sĩ Lê
Đăng Doanh nhấn mạnh:
“Cuộc đổi mới lớn nhất
đă đem lại cho Việt Nam
các bước phát triển vượt
bậc như trong thời gian
vừa qua. Nhưng đến nay
th́ những động lực đó
không c̣n đủ nữa, và
trong thời gian qua th́
Việt Nam thấy rơ là gặp
thách thức lớn. V́ vậy
cho nên đợt đổi mới lần
hai này là cần phải gắn
liền với việc cải cách
guồng máy nhà nước, gắn
liền với cải cách các
tập đoàn doanh nghiệp
nhà nước và các doanh
nghiệp nhà nước khác.
Cũng như cải cách quản
lư về tài nguyên, về đất
đai của đất nước để cho
nền kinh tế phải nâng
cao được hiệu quả và có
năng lực cạnh tranh cao
hơn.” Nói vắn tắc Việt
Nam cần cải cách vi mô
(microeconomic economic
reform)
Cải cách vi mô thật sự
rất cần thiết cho Việt
Nam. Đây là phương cách
để mang nền kinh tế Việt
Nam thoát khỏi mô h́nh
Trung cộng. Vấn đề ở đây
là làm như thế nào để
tối ưu lợi ích xă hội.
Trong bài này người viết
chỉ xin đưa ra vài vấn
đề. Cải cách vi mô sẽ
trực tiếp ảnh hưởng đến
đời sống của hằng chục
triệu người đang làm
việc trong các khu vực
được cải cách. Ai sẽ
chịu trách nhiệm bồi
ḥan, an sinh và huấn
luyện lại tay nghề cho
những người kém may mắn
bị mất việc ? Làm như
thế nào để cải cách vi
mô ? Nếu cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước
th́ tiền có được là tài
sản quốc gia sẽ được sử
dụng như thế nào ? Trả
nợ, lo cho người bị mất
việc ?
Hay chỉ v́ Thủ Dũng đang
khát tiền nên bán rẻ tài
sản quốc gia để chi tiêu
hoang phí trong các công
tŕnh ḥanh tráng không
mang lại lợi ích thiết
thực cho dân. Tệ hại
nhất là tài sản quốc gia
lại biến hóa thành tài
sản cá nhân lọt vào tay
các tư bản đỏ như Thủ
Dũng và gia đ́nh. Có
thêm tiền bọn chúng lại
có thêm quyền lực và dân
Việt lại tiếp tục sống
trong gông cùm của thiểu
số nắm được quyền lực.
Trong lần đổi mới trước
đây, Ông Trần Xuân Bách
nhấn mạnh việc cải tổ
chính trị cần tiến hành
song song với cải cách
kinh tế: “…vấn đề quan
hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị là
thế nào? Có nước tự cho
ḿnh không cần đổi mới,
đă bị bục vỡ. Có nước
coi đổi mới kinh tế phải
làm nhanh, c̣n đổi mới
chính trị th́ chầm chậm
cũng bục chuyện. Có nước
chỉ đổi mới kinh tế,
không đổi mới chính trị,
đă bục to. Có nước làm
cả hai, nhưng không nhịp
nhàng, gặp khó khăn. Hai
lănh vực này phải nhịp
nhàng, không chân trước
chân sau, không tấp tểnh
đi một chân.” Mặc dù ông
Bách chỉ đề nghị cải
cách chính trị trong nội
bộ đảng Cộng sản, ông
ḥan ṭan không chủ
trương đa đảng và dân
chủ tam quyền. Thế nhưng
đảng Cộng sản đă chọn
“tấp tểnh đi một chân”
để cuối cùng gặp Thủ
Dũng một tên buôn dân
bán nước thuộc lọai đê
tiện nhất trong lịch sử
Việt Nam.
Trước đây Tiến sỹ Lê
Đăng Doanh và nhiều trí
thức Việt Nam đă báo
động về t́nh trạng xâm
thực kinh tế của người
Tàu. Trong guồng máy
cộng sản hy vọng ông
Doanh và giới trí thức
đều nhận ra nguyên nhân
v́ không có dân chủ. V́
không có dân chủ người
dân đă không được chọn
lựa những người có khả
năng xây dựng một nền
kinh tế do dân v́ dân và
của dân. V́ vậy việc tối
ưu không phải là cải
cách kinh tế mà chính là
thay đổi hệ thống chính
trị. Có tự do có dân chủ
Việt Nam mới có thể
thóat khỏi cơn khủng
hỏang và vươn lên để ḥa
nhập với cộng đồng thế
giới.
Cứu nước cứu dân hay cứu
chế độ cộng sản là câu
hỏi mỗi chúng ta cần
phải tự trả lời.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi 13/10/2011
<<trở về đầu trang>>