|
Thu hoạch tổng
quát nhất, mà tôi lĩnh
hội được, là hai đảng
cộng sản Việt Nam và
Trung Quốc quyết tâm làm
mọi cách để kỷ nguyên
Bắc thuộc mới đối với
Việt Nam bắt đầu vững
chắc và toàn diện. Ngoài
những diễn giải ngoại
giao, từ mục 1 đến hết
mục 2, các mục 4, 5, của
bản tuyên bố rất cụ thể,
khác hẳn các Tuyên bố
2001, 2006, 2008 do Nông
Đức Mạnh kư, và là nội
dung của Kỷ nguyên Bắc
thuộc mới.
Sợi chỉ chính trị chủ
đạo, xuyên suốt cả bản
Tuyên bố, được nêu ngay
ở mục 3. Đó là các câu:
1. "...t́nh hữu nghị đời
đời Việt-Trung là tài
sản quư báu chung của
hai Đảng, hai nước và
nhân dân hai nước, cần
được không ngừng củng
cố, phát triển, truyền
măi cho các thế hệ mai
sau".
2. "Hai bên khẳng định,
Việt Nam và Trung Quốc
tiếp tục kiên tŕ phương
châm “láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai” và tinh
thần “láng giềng tốt,
bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt,” từ
tầm cao chiến lược và
tầm nh́n toàn cục".
3. "... trong bối cảnh
t́nh h́nh thế giới và
khu vực diễn biến sâu
sắc, phức tạp, việc hai
Đảng, hai nước Việt
Nam-Trung Quốc tăng
cường hơn nữa sự tin cậy
chiến lược, hợp tác chặt
chẽ toàn diện, xử lư
thỏa đáng các vấn đề c̣n
tồn tại hay mới nảy sinh
giữa hai nước, là phù
hợp với lợi ích căn bản
và lâu dài của hai Đảng,
hai nước và nhân dân hai
nước, có lợi cho sự
nghiệp chủ nghĩa xă hội
ở mỗi nước, có lợi cho
ḥa b́nh, ổn định, hợp
tác và phát triển ở khu
vực và trên thế giới".
Mục 4 là mục chứa đựng
những nội dung rất cụ
thể của do 2 đảng cộng
sản thỏa thuận. Đây cũng
là nội dung của Kỷ
nguyên Bắc thuộc kiểu
mới. Nội dung của nó như
sau:
4.1. duy tŕ tiếp xúc
giữa lănh đạo cấp cao,
trao đổi qua đường dây
nóng giữa lănh đạo cấp
cao hai nướ.
4.2. phát huy đầy đủ vai
tṛ quan trọng của Ủy
ban chỉ đạo hợp tác song
phương Việt Nam-Trung
Quốc.
4.3. thực hiện “Kế hoạch
hợp tác giữa Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Trung Quốc giai
đoạn 2011-2015.”
4.4. tiếp xúc giữa lănh
đạo cấp cao quân đội hai
nước; tiếp tục tổ chức
tốt Đối thoại Chiến lược
cấp Thứ trưởng Quốc
pḥng; thúc đẩy thiết
lập đường dây điện thoại
trực tiếp giữa hai Bộ
Quốc pḥng hai nước;
tăng cường hợp tác đào
tạo cán bộ và giao lưu
sĩ quan trẻ; triển khai
thí điểm tuần tra chung
biên giới đất liền vào
thời điểm thích hợp;
tiếp tục tổ chức tuần
tra chung giữa hải quân
hai nước trong Vịnh Bắc
Bộ; tăng cường hợp tác
trong các mặt như tàu
hải quân hai nước thăm
nhau.
4.5. hợp tác giữa hai
nước trong lĩnh vực thi
hành pháp luật và an
ninh;
4.6. hợp tác giữa các cơ
quan như ṭa án, viện
kiểm sát, công an, hành
chính tư pháp; cùng
pḥng ngừa và tấn công
các hoạt động vi phạm
pháp luật, tội phạm
xuyên biên giới; tăng
cường phối hợp và ủng hộ
lẫn nhau trong việc giữ
ǵn ổn định trong nước
của ḿnh.
4.7. Thực hiện tốt “Quy
hoạch phát triển 5 năm
hợp tác kinh tế-thương
mại Việt Nam-Trung Quốc”
vừa được kư kết trong
chuyến thăm này.
4.8. hợp tác giữa hai
nước trong các lĩnh vực
như thương mại, đầu tư,
tài chính, ngân hàng,
nông lâm nghiệp, giao
thông, điện lực, công
nghệ thông tin, khoáng
sản, năng lượng, du
lịch…, trao đổi về cân
bằng thương mại song
phương, tạo thuận lợi
cho các doanh nghiệp của
hai nước mở rộng hợp tác
lâu dài cùng có lợi, xây
dựng khu hợp tác kinh tế
biên giới và hợp tác
“hai hành lang, một vành
đai”…
4.9. hợp tác giữa hai
nước trong các lĩnh vực
như khoa học kỹ thuật,
giáo dục, phát triển
nguồn nhân lực, văn hóa,
y tế, thể thao, báo chí…
Tăng cường hợp tác trong
các lĩnh vực như bảo vệ
môi trường, quản lư
nguồn nước và ứng phó
với biến đổi khí hậu.
Thực hiện tốt “Thỏa
thuận trao đổi giáo dục
2011-2015,” mở rộng số
lượng lưu học sinh cử
sang nhau.
4.10. định hướng dư luận
và quản lư báo chí, thúc
đẩy t́nh hữu nghị giữa
nhân dân hai nước, giữ
ǵn đại cục quan hệ hữu
nghị hai nước, làm cho
t́nh hữu nghị Việt-Trung
được kế thừa và phát huy
rạng rỡ.
4.11. Mở rộng hơn nữa sự
giao lưu, hợp tác giữa
các địa phương hai nước,
nhất là các tỉnh giáp
biển, giáp biên giới của
hai nước như Lạng Sơn,
Lào Cai, Cao Bằng, Quảng
Ninh, Điện Biên, Hà
Giang, Lai Châu của Việt
Nam với Quảng Tây, Quảng
Đông, Vân Nam, Hải Nam
của Trung Quốc.
4.12. t́m ṭi mô h́nh
mới trong kiểm tra liên
hợp khu vực đánh cá
chung ở Vịnh Bắc Bộ;
thúc đẩy thiết lập đường
dây nóng liên lạc giữa
cơ quan ngư nghiệp hai
nước.
4.13. sớm kư kết “Hiệp
định tàu thuyền qua lại
tự do khu vực cửa sông
Bắc Luân” và “Hiệp định
hợp tác khai thác và bảo
vệ tài nguyên du lịch
khu vực thác Bản Giốc,”
4.14. Nội dung điểm này
là liệt kê 6 kư kết,
được kư trong chuyến đi
thăm TQ của Nguyễn Phú
Trọng:
Mục 5 dành nội dung nói về các vấn đề trên biển.
5.1 Hai bên quyết tâm
chính trị thông qua đàm
phán và hiệp thương hữu
nghị để giải quyết tranh
chấp, giữ ǵn ḥa b́nh,
ổn định tại Biển Đông;
5.2 Lănh đạo hai Đảng,
hai nước sẽ đối thoại
thường xuyên về vấn đề
trên biển giữa Việt Nam
và Trung Quốc, từ tầm
cao chính trị và chiến
lược, kịp thời chỉ đạo
xử lư và giải quyết thỏa
đáng vấn đề trên biển.
5.3 Hai nước kư kết
“Thỏa thuận các nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết các vấn đề trên
biển;”. Thỏa thuận này
có ư nghĩa chỉ đạo quan
trọng đối với việc xử lư
và giải quyết thỏa đáng
vấn đề trên biển, thực
hiện nghiêm chỉnh Thỏa
thuận này.
5.4 Căn cứ vào nhận thức
chung đă có giữa Lănh
đạo cấp cao hai Đảng,
hai nước và “Thỏa thuận
các nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết các
vấn đề trên biển,” hai
bên đẩy mạnh đàm phán
vấn đề trên biển, t́m
kiếm giải pháp cơ bản và
lâu dài mà hai bên đều
có thể chấp nhận được,
đồng thời tích cực trao
đổi t́m kiếm giải pháp
có tính quá độ, tạm
thời, không ảnh hưởng
đến lập trường và chủ
trương của mỗi bên, bao
gồm việc tích cực nghiên
cứu và trao đổi về vấn
đề hợp tác cùng phát
triển.
5.5 Hai bên đàm phán
phân định khu vực ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác
cùng phát triển ở khu
vực này. Hai bên hợp tác
trong các lĩnh vực như
bảo vệ môi trường biển,
nghiên cứu khoa học
biển, t́m kiếm, cứu hộ,
cứu nạn trên biển, thăm
ḍ khai thác dầu khí,
pḥng chống thiên tai…
5.6 Trước khi giải quyết
dứt điểm tranh chấp trên
biển, hai bên cùng giữ
ǵn ḥa b́nh, ổn định
trên Biển Đông, giữ thái
độ b́nh tĩnh và kiềm
chế, không áp dụng hành
động làm phức tạp hóa
hoặc mở rộng thêm tranh
chấp, không để các thế
lực thù địch phá hoại
quan hệ hai Đảng, hai
nước, xử lư các vấn đề
nảy sinh với thái độ xây
dựng, không để ảnh hưởng
tới quan hệ hai Đảng,
hai nước và ḥa b́nh, ổn
định ở Biển Đông.
Mục 6 nói về ủng hộ của VN đối với đ̣i hỏi lănh thổ của TQ với Đài Loan.
Mục 7 nói về hợp tác
giữa BNG hai nước trên
trường quốc tế.
Mục 8 là cảm ơn của
Nguyễn Phú Trọng và lời
mời Hồ Cẩm Đào sang thăm
VN.
Đọc song Tuyên bố này,
cảm tưởng đầu tiên là
việc hợp tác sâu rộng và
cụ thể trong mọi lĩnh
vực của xă hội, của nhà
nước VN. Việc áp dụng
các biện pháp hữu hiệu,
cụ thể trong mọi lĩnh
vực của của nhà nước VN.
Khác hẳn tính chung
chung của các Tuyên bố
2001, 2006, 2008, bản
Tuyển bố này rất cụ thể
như ta thấy, trong tóm
tắt của mục 4 đă viết ở
trên. Từ hợp tác của
lănh đạo cao cấp 2 nước,
từ hợp tác 2 đảng, từ
hợp tác quốc pḥng,
ngoại giao, an ninh,
luật pháp, khoa học,
thương mại, tài chính
ngân hàng, lâm
nghiệp,công nghệ thông
tin... đến giáo dục,
tăng cường số lượng lưu
học sinh sang TQ..Thật
khó t́m ra lĩnh vực, mà
bản Tuyên bố không đề
cập đến.
Thật là toàn diện triệt
để.
Cả các tỉnh nào cần t́nh
hữu nghị của TQ, cũng
được viết rơ và căn kẽ.
Đấy là các tỉnh:Lạng
Sơn, Lào Cai, Cao Bằng,
Quảng Ninh, Điện Biên,
Hà Giang, Lai Châu. Đây
là các tỉnh biên giới
phía bắc [4.11]
Điều này làm tôi sợ
nhất.
Nhắc lại rằng, trong các
Tuyên bố chung 2001,
2006, 2008 đều có nhắc
đến Bôxit Đắc Nông Tây
Nguyên VN. Những năm sau
này, khai thác bôxit Tây
nguyên trở thành quyết
tâm sắt đá của Bộ chính
trị ĐCS VN và chính phủ
nước VN. Hậu quả ra sao,
mọi người đều rơ.
Hôm nay Tuyên bố
15/10/2011 lại mang mối
lo lắng khôn cùng tới
người dân Việt Nam, khi
nhắc đến các tỉnh biên
giới Lạng Sơn, Lào Cai,
Cao Bằng, Quảng Ninh,
Điện Biên, Hà Giang, Lai
Châu.
Các tỉnh biên giới này,
nằm trong dăy Hoàng Liên
Sơn, tạo thành tường đá,
lũy đá tự nhiên bất khả
xâm phạm của nhà nước
phong kiến Việt Nam.
Đường núi gập nghềnh,
hiểm hóc, chênh vênh,
chật chội... làm cho
việc hành quân xuống
phía nam trở thành nguy
hiểm.
Đưa 1 đạo quân lớn vào
VN trong thời gian ngắn
là khó, mà vận chuyển
quân trang quân dụng,
hậu cần càng khó hơn.
Cùng với địa h́nh bắc
VN, các tỉnh biên giới
tạo nên tử địa mà bất kỳ
sách kinh điển binh pháp
nào cũng khuyến cáo
không nên chinh chiến
trên đất này.
Phong kiến TQ đă 8 lần
xâm lược VN, và 8 lần
thảm bại cũng do đóng
góp của địa hiểm này.
Nhắc lại lần kháng
Nguyên lần thứ 3. Thoát
Hoan v́ sợ quân dân VN
phục kích vận chuyển
lương theo đường biên
giới [đường bộ] đă lệnh
cho Trương Văn Hổ tải
lương theo đường thủy,
qua biển. Thượng tướng
Trần Khánh Dư đă lập
công lớn, đánh đắm tất
cả thuyền lương của
Trương Văn Hổ gần Vân
Đồn. Thất bại của lần
xâm lược thứ 3 này đă
được định đoạt từ chiến
thắng Vân Đồn này.
Gần đây trong chiến
tranh biên giới 1979.
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp
đă nhử giặc vào sâu đến
Thái Nguyên. Hứa Thế Hữu
bị lừa, tưởng rằng cơ
hội đánh vào Hà Nội đă
xuất hiện. Họ Hứa đă xin
chỉ thị Bắc Kinh để được
chiếm Hà Nội. Chỉ khi
Đại tướng VN khóa đuôi,
chặn mọi tiếp viện hậu
cần, th́ Hứa Thế Hữu mới
hiểu sự ngu dốt không
hiểu địa lư và binh pháp
Việt Nam, của ḿnh. Kết
quả là TQ thất bại tại
VN, phải rút chạy khỏi
VN 3/1979.
Nước VN qua khỏi nạn Bắc
thuộc, dân tộc VN không
như 99 tộc Việt khác bị
Hán hóa, cũng nhờ có
phần đóng góp của địa lư
VN, của địa lư các tỉnh
biên giới VN.
Hôm nay Thông báo chung
Việt Nam-Trung Quốc đă
để ư tới các tỉnh này.
Chưa có Tuyên bố mà Lào
Cai đă t́nh nguyện thay
đổi ngày thành lập tỉnh
từ 10/10 thành ngày 1/10
cho trùng với kỷ niệm
quốc khách TQ [xem
Danlambao].
Thử hỏi sau khi tinh
thần của Tuyên bố chung
10/2011 thấm nhuần tới
các đảng viên của các
tỉnh biên giới, th́ quá
tŕnh Trung Quốc hóa sẽ
diễn ra với tốc độ ra
sao.
Trung Quốc không thiếu
tiền để thực hiến ư đồ
chiến lược của họ.
Nay lănh đạo cao cấp VN
đă bật đèn xanh.
Ngày các tỉnh c̣n lại
cũng kỷ niệm thành lập
tỉnh vào ngày quốc khánh
TQ chắc không xa nữa.
Ngày cả VN trở thành
sinh địa đối với TQ,
ngày cả VN kỷ niệm 1/10
là ngày quốc khánh của
ḿnh, chắc không xa nữa.
Về các vấn đề trên biển,
Tuyên bố chung dành 1
mục riêng biệt, mục 5.
Tuy là 1 mục riêng,
nhưng cả 2 bên đều né
tránh không 1 từ nói đến
"đường lưỡi ḅ trung
quốc", không 1 từ nói về
Hoàng Sa, Trường Sa. Ở
đây chỉ có nói đến "Thỏa
thuận các nguyên tắc cơ
bản chỉ đạo giải quyết
các vấn đề trên biển;”
vừa được kư kết.
Ai quan tâm đến t́nh
h́nh Biển Đông đều biết
TQ chiếm của VN Hoàng Sa
1974 và Trường Sa năm
1988. Sự thật này bị né
tránh.
Đảng cộng sản VN đang
muốn bán biển đảo VN.
Họ cố t́nh không dương
cao chính nghĩa Việt
Nam.
Họ cũng quên, không nhắc
sự kiện Hội nghị San
Francisco 1951, với 48
phiếu chống, 3 phiếu
thuận, 51 nước trên thế
giới đă bác bỏ yêu cầu
chủ quyền của TQ tại
Hoàng Sa, Trường Sa.
Đồng thời cả hội nghị,
không 1 ai phản đối
tuyên bố chủ quyền của
VN tại Hoàng Sa, Trường
Sa.
"Thỏa thuận các nguyên
tắc cơ bản giải quyết
các vấn đề trên biển”,
đang bị Phillipiness chê
trách.
Trước thế giới, VN đang
trở thành 1 thành viên
ASEAN không tốt, không
chung thủy, 1 thành viên
đang đầu hàng TQ riêng
rẽ.
Đoạn kết mục 5:"Trước
khi giải quyết dứt điểm
tranh chấp trên biển,
hai bên cùng giữ ǵn ḥa
b́nh, ổn định trên Biển
Đông, giữ thái độ b́nh
tĩnh và kiềm chế, không
áp dụng hành động làm
phức tạp hóa hoặc mở
rộng thêm tranh chấp,
không để các thế lực thù
địch phá hoại quan hệ
hai Đảng, hai nước, xử
lư các vấn đề nảy sinh
với thái độ xây dựng,
không để ảnh hưởng tới
quan hệ hai Đảng, hai
nước và ḥa b́nh, ổn
định ở Biển Đông".
Đây là 1 đoạn thuộc loại
quan trọng bậc nhất của
cả Tuyên bố chung này.
Đây là 1 thế, để TQ phá
vây, trước ṿng vây ngăn
chặn bành trướng TQ do
Hoa Kỳ đang thiết lập.
Đây là 1 hướng phá vây
của TQ, trong trận đ̣
bát quái hoa kỳ, hướng
VN.
Đây là 1 thủ đoạn nhằm
chia rẽ ĐCS VN và nhân
dân yêu nước VN biểu
t́nh chống TQ xâm lươc,
khuyến khích ĐCS VN đàn
áp người biểu t́nh chống
TQ.
Tuyên bố chung tháng
10/2011 có nội dung câu
kết sâu sắc trên tất cả
các lĩnh vực quan trọng
của Đảng nhà nước VN với
đảng và nhà nước TQ.
Kư Tuyên bố này, Nguyễn
Phú Trọng và phái đoàn
đă quên đi lời dạy của
vua Trần Nhân Tông, dặn
ḍ di chúc:
“Cái họa lâu đời của ta
là họa Trung hoa. Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không để lọt vào tay kẻ
khác. Ta để lời nhắn nhủ này như là một lời di chúc cho muôn đời con cháu về sau”.
Nguyễn Nghĩa 650
Nguồn: Dân Làm Báo
<<trở về đầu trang>>