Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650
www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

Hắc thư "Le Livre noir du communisme"

1. Lời nói đầu
Cuốn sách " Le Livre noir du communisme ", Xb Robert Laffont 1997, của các học giả Stéphane Courtois, Nicolas Werth, Jean Louis Panné, Andrzej Packowski, K.Bartosek, ...Jean-Louis Margolin tố cáo tội ác của CS thế giới.

Lời nói đầu: Người ta có thể nói rằng lịch sử là môn khoa học chuyên về nổi đau khổ của con người. Thế kỷ bạo động trong đó chúng ta đang sống, đă chứng minh hùng hồn điều này. Trong các thế kỷ trước, các cường quốc Âu Châu đă làm giàu trong các cuộc buôn bán nô lệ da đen.

Nước Pháp với chính sách thuộc địa đă ghi lại biết bao nhiêu ghê tỡm trong lịch sử. XH Hoa Kỳ vẫn c̣n duy tŕ nền văn hóa bạo động phát sinh từ hai tôị ác trọng đại: Việc khai thác người nô lệ và việc tiêu diệt các giống thổ dân Da Đỏ.

Nhưng nếu nói về sự bạo động, thế kỷ chúng ta đang sống đă vượt hẳn các thế kỷ trước. Thế kỷ của chúng ta đă có quá nhiều thảm họa do con người gây ra: Hai trận thế chiến, Chế độ Đức quốc xă, các thảm trạng xăy ra ở Armenia, Biafra, Rwanda và 1 vài khu vực khác. Đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ chủ mưu tiêu diệt các sắc dân gốc Armenia. Đức quốc xă tiêu diệt dân Do Thái. Mussolini tàn sát dân Ethiopie..Nhưng những sự tàn sát này vẫn không thể nào so với tội ác của CS đă gây ra.

CNCS, 1 hiện tượng lớn của thế kỷ 20, bắt đầu từ 1914 và kết thúc vào 1991 taị Moskva. CNCS ra đời trước CN Quốc Gia Xă Hôị, goị tắc là Quốc Xă. CNCS sống lâu hơn Quốc Xă và nó lan rộng ra khắp năm Châu.

Chúng ta cần phân bịệt giữa CN và hành động.

Về phương diện lư thuyết chính trị, CNCS đă có từ nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm trước. Nhà hiền triết Hy Lạp Platon đă đề cập đến “ Chế độ CH” trong đó người dân không bị lệ thuộc vào tiền bạc hay quyền lực. Trong xă hôị đó chỉ có sự khôn ngoan, công lư và lẽ phải ngự trị mà thôi.

1 nhà tư tưởng lớn của Anh, ông Thomas More cũng đă vạch ra 1 quốc gia lư tưởng nhưng đă bị bạo chúa Henri VIII chặt đầu. Những tư tưởng này là những nguồn sinh khí những đóng góp quư giá cho các nền dân chủ về sau.

C̣n CNCS được đề cập ở đây không có vị thế của các nguồn tư tưởng trên. Đây là CNCS hành động. Nó đă diễn ra ở 1 thời điểm nhứt định, tại các quốc gia được biết rơ qua các cuộc khủng bố, đàn áp, kiểm soát biên giơí, kiểm soát các phương tiện truyền thông, bắt giam và cho lưu đày các thành phần đối lập.

Những kư ức về khủng bố đă làm cho người ta không quên được CNCS. Người ta không quên Mao Chủ Tịch vĩ đại của Trung Cộng, Kim Nhựt Thành của Bắc Triều Tiên, HCM của VN, Fidel Castro của Cu Ba v.v... và gần với lịch sử hiện đại của chúng ta là: Maurice Thorez, Jacques Duclos, Georges Marchais.

Nhưng tội ác của CS đă không được đánh giá trên cả luật pháp cũng như trên b́nh diện b́nh thường. Qua các trang sách này, lần đầu tiên chúng tôi đặt vấn đề với CS về tội ác mà chủ nghiă này đă gây ra. Sẽ có nhiều người cho rằng phần lớn các tội ác được coi là hợp pháp v́ các tội ác này do được thực hiện theo lệnh của các lănh tụ mà nước Pháp đă đón tiếp họ 1 cách nồng hậu.

Các tội ác mà chúng tôi tŕnh bày trong quyển sách này không dựa trên các tài liệu “ pháp lư” của chế độ CS. Chúng tôi sẽ dựa trên các văn bản “ bất thành văn “. Nói 1 cách khác, các tài liệu này không được viết ra như các đạo luật thiêng liêng về luân lư của nhân loại.

Chúng ta có thể không lưu tâm đến các cuộc xử bắn các con tin, sự tàn sát nhóm nhân công nổi loạn, các mồ chôn tập thể của những người nông dân chết đói, do hoàn cảnh gây nên. Chúng tôi chỉ đề cập đến chiều sâu của tội ác mà CS đă coi đó như là cứu cánh của ṭan thể hệ thống lănh đạo.

Chúng tôi sẽ nói lên những ǵ ? Chúng tôi sẽ đưa ra những tội ác nào ? Có vô số tôị ác: Trước hết là tôị ác về văn hóa của các quốc gia CS thống trị và văn hóa của nhân loại. Staline đă ra lịnh phá bỏ hàng trăm giáo đường của các tôn giáo taị Nga. Nhà độc tài Ceaucescu của Lỗ Ma Ni đă ra lịnh phá hủy trung tâm lịch sử Châu Âu đó là Tp Bucaresti. Pol Pot đă cho tháo gỡ từng viên gạch của Tp Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên. Trong cuộc CM văn hoá, Hồng Vệ Binh của Mao đă phá hủy vô số kho tàng văn hóa vô gía của n/d Trung Hoa.

Chúng tôi chỉ ghi lại tội ác của 1 số người được coi là linh hồn của các vụ tàn sát. Tuỳ theo mỗi chế độ, các phương tiện khủng bố được thi hành dưới nhiều h́nh thức khác nhau. Xư bắn, xử treo cổ, nhận ch́m trong nước, đánh bằng gậy gộc, dùng chất khí độc, cho chết đói, đưa đi lưu đày, gây ra tai nạn trong lúc đưa đi lưu đày, bắt đi bộ trên các quăng đường dài hàng trăm cây số, Lao động khổ sai, kiệt sức,..

Chúng tôi thống kê danh sách con số người đă bị CS giết chết. Đây chỉ là con số tối thiểu. Phải cần thời gian mới có thể đưa ra con số chính xác. Sau đây là con số người nạn nhân đă bị CS giết chết:

Các phong trào CSQT, các ĐCS đang nắm chính quyền: vài chục ngàn. Tổng số người chết lên đến con số gần 100 triệu. Nếu tính theo tỉ lệ thời gian th́ Pol Pot đứng hàng đàu gây tội ác. Trong ṿng 3 năm, Pol Pot đă tiêu diệt 1 phần tư dân số dân tộc Miên.

Mao đă gây tội ác trầm trọng trong cuộc CM văn hóa. Bàn tay của Lenine và Staline đẩm máu v́ cái lô-gích tư tưởng của ḿnh.

Nếu chỉ suy tư về tội ác th́ không thể nào đánh gía được phẩm chất chiều sâu của nó được. Công việc này phải được xét xử trên tiêu chuẩn khách quan và trên khía cạnh pháp lư.

Taị ṭa án Numberg vào 1945, các lănh tụ Đức Quốc Xă đă bị kết án về tội diệt chủng trong thế chiến thứ hai căn cứ theo điều 6 của ṭa án quốc tế. Điều luật này ghi 3 trọng tôị: chống lại ḥa b́nh, tội ác gây ra trong chiến tranh và tội chống lại nhân loại. Nếu căn cứ vào điều luật thứ 6 này th́ Lenine, Staline cũng như tất cả chính quyền CS đă gây ra tội ác đều phải bị kết án. Theo điều luật thứ 6A, các hành động như chỉ đạo, sửa sọan và theo đuỗi cuộc chiến tranh xâm lăng hay tiếp tay vào các cuộc chiến tranh vi phạm các thỏa ước quốc tế đều bị ghép vào tội chống lại ḥa b́nh. Như vậy Staline phải bị kết án. Staline bí mật kư hai hiệp ớc với Đức Quốc Xă vào ngày 23 tháng 8 và ngày 28 -9- 1938 để rănh tay ở hai mặt trận phía Đông và phía Tây. Hai hiệp ước này đă khởi đàu Đệ nhị thế chiến. Ngoài ra Staline c̣n vi phạm vào tội giúp khí giới cho Bắc Triều Tiên đem quân xâm lấn Nam Triều Tiên vào ngày 25 -6- 1950. Staline cũng đă xua quân tiến chiếm Phần Lan vào ngày 30 -9- 1939.

Moskva đă chỉ đạo các ĐCS đàng em, mở các cuộc chiến tranh phá hoại các 1 số quốc gia khác. Tại A Phú Hăn, Moskva đă vi phạm vào điều luật thứ 6A khi đưa quân vào giúp ĐCS nước này để cướp chính quyền vào ngày 27 -12- 1979.

Nó mở đầu cho cuộc chiến kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa kết thúc, mặc dù quân Nga đă rút ra từ năm 1989.

Điều luật 6B nêu ra các hành động vi phạm trong lúc chiến tranh. Các điều khỏan này đă được ghi rơ trong bản “ giao ước quốc tế “ ra đời năm 1907 tại Tp La Hague của nước Ḥa Lan. Nó bao gồm các điểm: hành động ám sát, hành hạ, ngược đăi, lưu đày khổ sai, hành quyết các con tin, cướp bóc hay tước đoạt tài sản, tàn phá các thôn xóm, hạ giá tiền tệ không có lư do cho chính đáng cho nhu cầu quân sự,..

Staline đă cho thủ tiêu hầu hết các sĩ quan của quân đội Ba Lan bị bắt làm tù binh vào cuối năm 1939. Tại Tp Katyn khi cho khai quật mồ chôn tập thể 4500 tử thi, mỗi tử thi điều có vết đạn ở sau ót. Ngoài ra c̣n các vụ giết người trầm trọng khác cho đến giờ này không có mấy người biết đến đó là các vụ tàn sát hàng trăm ngàn tù binh Đức ở các trại giam khổ sai từ năm 1943 cho đến năm 1945. Vụ Hồng Quân Nga hăm hiếp phụ nữ Đức trên các phần đất Đức bị chiếm.

Điều luật 6 C ghi các tội chống lại nhân loại. Nó gồm các hành động như sau: Tàn sát, tiêu diệt, biến thành nô lệ, bắt đi lưu đày, ngược đăi v́ lư do chính trị, kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo,..

Trung Quốc: 65 triệu; LX: 20 triệu; Bắc Hàn: 2 triệu; Miên: 2 triệu; Phi châu: 1,7 triệu; A phú Hăn: 1,5 triệu; Đông Âu: 1 triệu; VN: 1 triệu; Trung Mỹ:150 ngàn;

Trong bản cáo trạng tại toà án Numberg, Tổng Biện Lư Francois de Menton nhấn mạnh tính chất ư thức hệ của các tội ác này như sau: “ Tôi cho rằng tất cả các tội ác đă gây ra cho 1 khối đông đăo quần chúng là tội ác chống lại tư tưởng. Tôi muốn nói lên 1 CN đă chối bỏ tất cả giá trị luân lư của nhân loại. Tội ác chống lại tư tưởng là nguồn gốc của CN Quốc Xă. Đó là CN kỳ thị chủng tộc.

Đây không phải là 1 tại nạn rủi ro, không phải là 1 sự việc t́nh cờ. Trái lại các hành động kỳ thị đă được nghiên cứu kỹ lưỡng và được tổ chức trong khi thi hành..”

Các bản tuyên cáo của ṭa án Numberg nhấn mạnh đến 1 điểm chính của điều khỏan “chống lại nhân lọai ': Lạm dụng quyền lực của nhà nườc đề phục vụ cho 1 chính sách và thi hành các tội ác.

Căn cứ vào điều luật này, th́ tất cả các hành động xảy ra dưới thời Lenine, Staline và tại các quốc gia nằm trong tay CS đều phải bị kết án.

CS nhân danh nhà nước, nhân danh 1 ư thức hệ để tiêu diệt hàng chục triệu người vô tội, chỉ v́ họ là quư tộc, là thành phần trung lưu, trí thức, địa chủ,..

Khái niệm về tôị ác chống lại nhân loại rất phức tạp. Ngoài tội diệt chủng dân Do Thái do Đức quốc xă gây nên, ngày 9 -12- 1948 Liên Hiệp Quốc xác nhận như sau:.giết hại, vi phạm tinh thần hay thân thể, cưỡng ép từ bỏ điều kiện sinh sống để dấn dần bị tiêu diệt đối với 1 nhóm dân, 1 sắc dân hay 1 tôn giáo điều bị ghép vào tôị ' chống lại nhân loại'.

Bộ h́nh luật mới của Pháp định nghĩa từ “ diệt chủng” rộng răi hơn. Đó là thỏa hiệp đưa đến việc tiêu diệt 1 phần lớn hay ṭan thể 1 khối người, 1 sắc tộc, 1 g/c trong XH hay 1 tôn giáo. Quan điểm này cũng không khác nào tư tưởng của Andre Frossard. Theo ông ta, nếu 1 người bị giết v́ lư do đă được sinh ra trong 1 g/c XH, 1 sắc dân hay theo 1 tôn giáo,.. đều bị coi như tội ác chống nhân loại.

Trong quyển sách “ Cuộc khủng bố đỏ ở Nga”xuất bản năm 1927 tại Bá Linh, sử gia người Nga ông Serguei Melgounov kể lại 1 mẫu chuyện của 1 người chi huy đầu tiên của cơ quan t́nh báo chính trị XV, có tên là Latziv. Ngày 1 -11- 1919 ông ta ra lịnh cho 1 tên CA dưới quyền là t́m bắt những người thuộc giới trung lưu mà không cần cứu xét tội lỗi. Câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là: anh thuộc thành phần nào, gốc gác từ đâu, tŕnh độ học vấn, nghề nghiệp,..

Chính Lenine và đám thân cận của ông ta cũng không dung thứ các đối thủ ch́nh trị. Những đối thủ chính trị này cần phải tiêu diệt ngay. Hành động diệt chủng của nhóm người BônsêVích thực sự tiến hành kể từ năm 1920 khi họ cho giải thể nhóm dân Cosaques. Đàn ông bị xử bắn. Người ǵa, phụ nữ và trẻ em bị đưa đi lưu đày. Làng mạc, nhà cửa bị phá hủy.

Trong những năm 1930, 1932 công tác giải thể nhóm dân Cosaques mạnh mẻ và ṭan diện hơn. Staline xử dụng bộ máy tuyên truyền trong nước cũng như bên ngoài về việc kết án xử bắn, đưa đi lưu đày những ai chống lại lịnh ' tập thể hóa '. Tuy rằng những ngưới đưa đi lưu đày không bị giết ngay nhưng với các điều kiện lao động cực khổ, trong điều kiện thời tiết gía lạnh của mùa Đông ở vùng Bắc Tây Bá lợi Á, chẳng c̣n được bao nhiêu người sống sót. Cho đến nay con số tử vong chưa được chính thức đưa ra, nhưng phải kể đến hàng trăm ngàn.

Trong vụ nạn đói ở vùng Ukraine vào những năm 1932-1933 và những vụ chống tập thể hóa đă có đến trên 6 triệu ngưới chết. Tại vùng này đă diễn ra hai h́nh thức diệt chủng: diệt chủng g/c và diệt chủng sắc dân.

Quốc Xă Đức xử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để thiết lập các pḥng hơi ngạt và ḷ thiêu để giết dân Do Thái. Trong khi CS xử dụng 'vũ khí đói' để tiêu diệt các sắc dân. CS t́m đủ mọi cách để kiểm sóat lương thực. Họ chỉ phân phối lương thực cho các phần tử mà họ cho là xứng đáng. Họ phân biệt giữa nhóm người này, nhóm người khác. T́nh trạng này đă dẫn đến các nạn đói làm chết hàng triệu người tại các nước CS.

Bản tổng kết đàu tiên ṭan bộ các tội ác được ghi như sau: Trong những năm 1918-1922 có hàng chục ngàn con tin bị xử bắn mà không được xét xử. Hàng trăm ngàn công nhân và nông dân bị tàn sát v́ chống đói chính sách tập thể hoá của CS.

Nạn đói năm 1922 đă làm cho 5 triệu người chết. Hàng trăm người Cosaques sống quanh sông DON bị tiêu diệt.

Hàng chục ngàn chết trong các trại tập trung vào những năm 1918-1930. Hàng trăm ngàn phú nông, trung lưu, trí thức bị đưa đi lưu đày.

Trên 6 triệu dân Uraine bị chết đói trong năm 1932-1933.

Hàng trăm ngàn ngướ thuộc các sấc dân Ba Lan, Ukraine, dân Bắc Âu, dân sống trong vùng Moldave bị đi lưu đày trong những năm 1939-1940 và tái diễn trong những năm 1944-1945.

Năm 1941, nhóm dân Đức nhưng làm việc cho Nga sinh sống dọc theo sông Volga bị đi lưu đày.

Năm 1975-1979 dân ở các Tp Cao Miên bị đi lưu đày và bị thủ tiêu.

Tiêu diệt từ từ dân Tây Tạng do CS Trung quốc chủ trương từ năm 1950.

Cho tới nay người ta chưa tính hết tội ác do Lenine, Staline gây ra. Và các tội ác này cũng tái diễn dưới bàn tay của Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành và Pol Pot. Về phương diện ngôn ngữ của các sử gia, cần phải đưa ra 1 vấn đề: Sử gia có quyền xử dụng các từ thuộc lănh vực pháp lư như “ tội ác chống lại nhân lọai' hay “ tôị diệt chủng “ trong lúc nghiên cứu về tính chất của chiến tranh hay không ? Mặc khác, các khái niệm này cũng không nên quá phức tạp để giữ tính khách quan trong lúc sưu tầm tài liệu lịch sử.

Về điểm thứ nhất, lịch sử cho chúng ta thấy tôị ác diệt chủng không phải là tôị ác độc quyền của Đức quốc xă. Hăy nh́n những ǵ đă xăy ra gần đây ở các nước Bosnie, ở Rwanda, chúng ta sẽ bằng ḷng điểm này.

Phần thứ hai là chúng ta sẽ không trở lại cái thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, sử gia chỉ t́m hiểu sự việc mà không phán đóan.

Nhưng đứng trước thảm họa của nhân loại, sự phá vỡ phẩm gía của con người, các sử gia có thể bỏ qua 1 số nguyên tắc để cứu xét vấn đề. Sử gia Jean Pierre Azema đă kết án chế độ Đức quốc xă có “ tôị ác chống lại nhân loại”. Và ông Pierre-Vielal Naquet cũng tuyên bố tương tự khi kết án tên Touvier, 1 người Pháp công tác viên đắc lực cho Đức đuốc xă.

Cũng như vậy, chúng tôi làm những công việc sưu tầm để đưa ra ánh sáng những tôị ác do CS đă gây ra.

Ngoài ra c̣n phải đặc trách nhiệm của các chế độ CS đang nắm quyền hành. Họ là những kẽ ṭng phạm. Năm 1987, bộ h́nh luật của Gia Nă Đại tu chính các điều 3.76 và 3.77 ghi các điểm thuộc tôị ác chống lại nhân loại, gồm có: Mưu toan, ṭng phạm, khuyến khích, giúp đỡ để thực hiện tôị ác chống lại nhân loại, âm mưu và ṭng phạm sau khi đă xảy ra sự việc.

Vậy mà trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1950 những người CS trên thế giới đă hô hào cổ vỏ cho hai tên gây tôị ác Lenine và Staline. Hàng trăm ngàn người tham gia vào phong trào CS quốc tế. Trong nhừng năm 1950,1960,1970 hàng triệu ngướ sùng bái Mao Trạch Đông của Trung Quốc trong cuộc cải cách văn hoá. Và gần đây c̣n có nhiều ngướ ca tụng Pol Pot. Về sau họ chỉ trả: chúng tôi đâu có biết.. Mà quả thật không dễ ǵ biết những ǵ CS làm. Bí mật là phương châm họat động của CS. Nhưng có nhiều người ngày nay đă biết sự thật nhưng họ vẫn êm lặng.

Năm 1969 ông Robert Conquest, 1 trong những sử gia đầu tiên nghiên cứu về tôị ác của CS, đă viết:” 1 việc rất rơ là có nhiều ngướ chấp nhận các cuộc thanh trừng diễn ra ở Tp Moskva trong các năm 1936,1937 và 1938 theo lịnh của Staline. Chính sự chấp thuận này là sự đồng lơa cho các vụ thanh trừng ṭan diện tiếp theo sau. Nhiều người ở bên ngoài đă thừa nhận các vụ hành quyết là đúng. Những ngướ này dù chỉ có lời b́nh phẩm về các vụ thanh trừng này cũng phải chịu trách nhiệm và phải được coi là ṭng phạm trong các vụ án chính trị.

Joseph Berger, 1 cán bộ trong tổ chức Quốc Tế CS, ngướ đă từng nếm mùi ở các trại lao động khổ sai, đă kể lại 1 lá thư của 1 nữ tù nhân ĐV CS được trả tự do sau khi lưu đày với nội dung như sau:” Các người CS thế hệ chúng tôi chấp nhận quyền lực của Staline. Họ chấp nhận hành động bạo ác của Staline. Và cả những người CS khác trên khắp thế giới. Đây là 1 vết nhơ mà chúng tôi đă vi phạm. Để phá bỏ vết nhơ, chúng tôi phải làm sao cho các tôị ác này không c̣n tái diễn. Điều ǵ đă diễn ra ? Phải chăng chúng tôi mất cả lư trí ? Phải chăng chúng tôi là những kẻ phản bội CS ? Thật ra chúng tôi, kể ca những nhân viện thân cận của Staline đều đă vi phạm các tôị ác. Chúng tôi đă tưởng rằng đó là những đóng góp quan trọng cho việc chiến thắng của CNXH. Chúng tôi cũng tin tưởng tất cả các việc làm để củng cố quyền uy cho ĐCS ở LX cũng như cho các ĐCS trên toàn thế giới.

Chúng tôi không bao giờ nghĩ đến có sự tranh chấp giữa chính sách và luân lư..”

Những ngướ CS Tây phương, mặc dù họ không bị khống chế bơỉ cơ quan NKVD - Bộ nội vụ- của LX nhưng họ vẫn mù quáng ca ngợi LX và nhà độc tài Staline. Phải chăng họ đă uống phải liều thuốc tiên nào đó nên luôn luôn tôn sùng quy phục quyền lực tối uy của LX.

Trong quyển sách nói về CM của Nga, nhà văn Martin Malia đă vén cho chúng ta thấy tấm màn nghịch lư của 1 “ tư tưởng lớn” và đă dẫn đến 1 kết luận: Đó là 1 tội ác lớn.

Bà Annie Kriegel, 1 nhà phân tích lớn về CNCS đă cho thấy hai mặt của CN: Mặt tươi sáng và mặt tối.

Ư thức hệ CS dự phóng 1 XH tốt đẹp. Điều này đă mê hoặc nhiều người. Nhưng XH CS tước đoạt tất cả trách nhiệm của chúng ta. Họ quyết định mọi việc. Nhiều người ở bên ngoài v́ sợ chịu trách nhiệm và tự do đă chấp nhận CNCS. Nhưng những người sống trong chế độ độc tài CS th́ quá chán ngán. Họ chỉ mong có sự thay đổi. Trong luận đề “ Sự sợ hăi của ư thức tự do “ ông Fromm tuyên bố: t́nh nguyện làm đầy tớ cho CNCS.

Những người t́nh nguyện làm đầy tớ cũng là những kẻ ṭng phạm. Khi chấp nhận làm gạch nối cho công tác tuyên truyền che dấu sự thật cũng là ṭng phạm.

Phân tích hiện tượng CS khi đang nắm chính quyền là 1 việc làm khó khăn.

Ông Jean Ellenstein cho rằng Staline là 1 hiện tượng vừa mang tính chất bạo tàn của thời cổ Hy Lạp, vừa mang tính độc tài của Đông phương. Nhận định này tương đối chính xác nhưng chưa khai thác được chiều sâu của tính độc tài. 1 vài so sánh sau đây sẽ giải thích rơ vấn đề.

Chúng ta bằng ḷng dưới thời Nga Hoàng dân chúng bị áp bức. Người Bônsêvích chiến đău chống lại chế độ Nga Hoàng. Nhưng 1 khi quyền hành nằm trong tay những người BônsêVích th́ sự áp bức con kinh hoàng hơn ở thời Nga Hoàng rất nhiều. Nga Hoàng đưa những tù chính trị ra trước ṭa án xét xử, đúng luật lệ của 1 toà án. Có nghĩa là có luật sư biện hộ cho tôị nhân, có nhân chứng, có dư luận của quần chúng. Đôí vơí CS, các sự việc trên không hề xảy ra. Người tù trong chế độ Nga Hoàng hưởng đủ quy chế tù nhân. Họ có quyền đọc sách, viết thơ và nếu bị lưu đày, họ đi cùng với gia đ́nh. Họ có quyền đi săn, đi câu cá và có quyền giúp đỡ tù nhân khác,.. Chính Lenine và Staline cũng đă từng ở tù và bị lưu đày dưới thớ Nga Hoàng. Cả hai đă có những kinh nghiệm này.

Trong tác phẩm “ Kỹ niệm ngôi nhà của người chết”, nhà văn Dostoievski đă làm cho độc giả của ông ta xao xuyến. Nhưng nếu so với các thảm cảnh của thời Lenine, Staline th́ chẳng đáng vào đâu.

Từ năm 1888 đến năm 1917, nước Nga xảy ra rất nh́ều cuộc rối lọan và bị đàn áp. Đă có 6360 ngướ bị kết án tử h́nh. Trong số này có 3922 ngướ bị xử bắn. Nhưng so với 4 tháng đàu tiên lên nắm chính quyền, người Bônsêvích đă xử tử nhiều hơn so vơí con số này.

Vào những năm 1920 đến năm 1940, CS lên tiếng phản đối các cuộc khủng bố của chính quyền quân phiệt ở các nước khác. Chúng ta thử xét xem những ǵ xảy ra ở Ư. Chế độ Phát xít Ư có ngược đăi các nhà chính trị đối lập. Trong năm 1935 nhà độc tài Mussolini đă bắt vài trăm đói thủ chính trị vào tù và vài trăm người khác bị quản thúc tại các đăo. Trên thực tế có vài ngàn người lưu vong. Đó là những ǵ mà thế giới đă kết án nhà độc tài Mussolini và chính quyền của ông.

Trong kỳ thế chiến thứ hai, Đức quốc xă đă ra tay đàn áp các thành phần chống đối họ như các ngướ CS, nhóm XH,nhóm vô CP và 1 số nghiệp đ̣an. Đức quốc xă công khai đàn áp và bắt giam những ngướ này. Từ năm 1933 đến 1939 Đức quốc xă đă kết án và xử bắn 20.000 ngướ. Đó là chưa kể đến con số người bị bắn chết v́ lư do không đủ tiêu chuẩn sắc tộc thuần tuư tóc vàng, da trắng; những ngướ bịnh tâm thần, tật nguyền hay ǵa yếu,..

Hitler đă ra lịnh giết chết những ngướ già,người bịnh tâm thần bằng hơi ngạt. Từ năm 1933 đến năm 1940 đă có 70.000 người chết v́ hơi ngạt. Khi Giáo hội lên tiến phản đối, chương tŕnh dùng hơi ngạt mới ngưng họat động. Sau này rút kinh nghiệm đă dùng hơi ngạt giết chết lớp người thứ ba, đó là giống dân Do Thaí.

Thoạt đầu có vài trăm ngướ Do thái bị giết chết. 35.000 người bị bắt giam vào các trại tập trung và sau đó bị đưa vào các trại tử thần. Khi tấn công vào LX, quân Đức đă giết 15 triệu dân ở các vùng chiếm đóng. Có 5,1 triệu dân Do Thái, 3,3 triệu tù binh XV và 1,1 triệu dân đă

bị bắt vào các trại tử thần. Ngoài con số nạn nhân này, cũng cần phải kể đến vài trăm ngàn dân Tziganes, 8 triệu người bị cưỡng bách lao động khổ sai và 1,6 triệu người c̣n sống sót lại trong các trại tập trung.

Ṭa án Numberg đă kết án những tội phạm và đă công bố những tội ác mà họ đă gây ra. Sau cùng khi tiết lộ hành động diệt chủng giống dân Do Thái đă làm cho lương tâm nhân loại xúc động.

Ở đây chúng tôi không muốn đưa ra 1 danh sách so sánh về con số kinh hoàng hay bản kết toán về sự ghê tởm về những ǵ CS đă làm. Nhưng sự kiện tội ác của CS đă quá rơ ràng. Chế độ CS đă giết chết hàng trăm triệu ngướ so với 25 triệu nạn nhân của Đức quốc xă. Với bản đúc kết này, ít ra chúng ta cũng thấy được sự khác nhau giữa hai chế độ trong thế kỷ này. Năm 1945, Đức quốc xă bị kết án là chế độ bị vi phạm quá nhiều tội ác trong thế kỷ. Trong khi đó chế độ CS lại được duy tŕ cho đến năm 1991 với tất cả tính cách pháp lư quốc tế của nó. Cho cả đến ngày hôm nay, CS vẫn c̣n ngự trị trên 1 vài quốc gia với 1 số tín đồ. Và mặc dù có 1 vài nước CS nh́n nhận tội ác của Staline, của Lenine nhưng cho đến nay họ vẫn chưa chịu từ bỏ các nguyên tắc của Lenine và họ cũng chẳng hề bị kết án có liên hệ ǵ với tội ác này cả.

Các phương pháp của Lenine và sau này được Staline hệ thống hóa, đă được tay chân bộ hạ của hai ông thi hành làm cho chúng ta liên tưởng đến những ǵ đă xảy ra trong thời Đức quốc xă. Có 1 số tội ác đă xảy ra trước thời Hitler.

Roudolf Hoess là người được uỷ nhiệm thiết lập trại tử thần Auschwitz. Về sau trại trưởng của trại này tiết lộ cho biết ông có nhận chỉ thị của UB TW về an ninh 1 số chi tiết về các trại tập trung của XV.[ Nên nhớ là đầu năm 1918, Lenine đă ra lịnh cho lưu đày các chính trị đói thủ và và năm 1933 Đức quốc xă cũng áp dụng như vậy]. Tài liệu c̣n nhấn mạnh XV tiêu diệt ṭan bộ 1 số dân bằng cách bắt họ lao động khổ sai.

Với mức độ và kỹ thuật gây tội ác cho 1 số quần chúng đông đăo mà những người CS đă khai trương áp dụng, và sau đó Đức quốc xă đă làm theo. Dưới cái nh́n của chúng tôi, người ta có thể minh chứng 1 chân lư về sự liên hệ trực tiếp giữa chế độ CS và sự ra đời của chế độ Đức quốc xă.

Vào các năm cuối của thập niên 20, cơ quan GPV, 1 danh xưng mới của cơ quan t́nh báo chính trị XV, cho cho ra đời chính sách tỉ lệ phân vùng. Mỗi vùng phải t́m cách bắt đi lưu đày 1 tỉ lệ “ thành phần thù địch “nào đó do nhà nước chỉ định. Sau năm 1920, Hồng quân đánh bại quân Hoàng gia [ Bạch quân ], đă xảy ra các cuộc lùng bắt khủng khiếp các sắc dân địa phương Ba Lan và 3 nước vùng Baltique.

Việc chuyên chở các người lưu đày trên các toa xe lửa dùng để chở súc vật đă được tái diễn tại các trại tập trung của Đức quốc xă. Năm 1943-1944 trong lúc chiến tranh đang diễn ra ở khắp nơi, Stalin, thay v́ cung cấp cho chiến trường, ông ta đă dùng hàng ngàn nhân viên củac

cơ quan t́nh báo chính trị cùng với hàng chục ngàn toa xe vào công việc chuyên chở các dân thuộc sắc tộc sống trong vùng Caucase đi lưu đày trong ṿng vài ngày.

Đối chiếu những ǵ đă xảy ra dưới chế độ Đức quốc xă và dưới chế độ CS, chúng ta sẽ thấy kỳ lạ. V.Grossman là ngướ đầu tiên đă nêu ra tôị ác xảy ra ở khám đường Treblinka. Mẹ ông đă bị lính Đức quốc xă giết chết trong khu biệt giam của vùng Berditchev. Ông cũng là 1 trong những người trưng bày tội ác của Đức quốc xă đă tiêu diệt ngướ Do Thái cư ngụ trân lănh thổ của XV.

Trong tập truyện ngắn “ Ṛi tất cả cũng đi qua - Tout passe “, ông đă đưa 1 nhân chứng của vụ chết v́ đói ở vùng Urakine. Ông viết: “ Các văn sĩ, kể cả Staline cho rằng phú nông là những ngướ ăn bám, những kư sinh trùng. Họ là những kẻ đă đốt bỏ bông lúa và giết chết trẻ

em.”. Staline cũng c̣n công khai khuyến khích quần chúng nổi dậy chống lại quần chúng, tiêu diệt tất cả những ngướ mà họ gọi là tầng lớp xấu xa. Staline cho c̣n cho biết muốn giết họ th́ hăy coi thành phần phú nông không phải là người cũng giống như Đức quốc xă coi dân Do Thái cũng không phải là ngướ.

Đức quốc Xă dự trù cho 1 XH tương lai của 1 sắc dân thuần chủng. CS chuẩn bị cho ngày mai 1 XH của những người VS. Hai cách cải tạo XH tuy có khác nhau về cách xử dụng tiêu chuẩn nhưng giống nhau ở mục đích. Nếu cho rằng CNCS là 1 chủ thuyết tổng quan th́ thật là sai lầm. Nếu nó mang tính chất toàn cầu, th́ quả thực 1 nửa nhân loại không c̣n xứng đáng để sinh tồn. Bởi nó mang tính chất của CN Quốc xă. Nếu có khác chăng là khác ở chổ, CS phân chia ra nhiều g/c trong khi Quốc xă phân chia ra giống dân và lănh thổ.

Tội ác của Lenine, Staline và h́nh ảnh dân Cao Miên dưới thời Pol Pot đă đặt ra 1 câu hỏi mới cho các luật gia, các sử gia và cho cả nhân loại: Phải xếp vào tội nào đối với những ngướ đă tiêu diệt các thành phần bị ghép vào tội thù địch v́ lư do chính trị, tư tưởng, không phải ở

phạm vi vài ba cá nhân mà cả tập thể đám đông quần chúng XH. Phải chăng cần đặt ra 1 tội danh mới ? Ngướ Anh đă dùng danh từ Politicide, bao gồm ư nghĩa cuả Chính trị - politipue - và Giết chết - Cide. Người Tiệp Khắc gọi là Tội ác CS.

Người ta biết ǵ về những tội ác CS gây ra ? Người ta muốn biết cái ǵ, loại nào ? Và tại làm sao phải chờ măi đến cuối thế kỷ này nó mới có các cuộc nghiên cứu nghiêm túc?

Việc nghiên cứu tội ác của Quốc xă đă có từ lâu và đă đi khá xa so với việc nghiên cứu các cuộc khủng bố của Lenine, Staline. Nói chung, có sự khác biệt khá lớn giữa các cuộc nghiên cứu cần phải vượt qua mặc dù các nước Đông Âu đă gia tăng các cuộc nghiên cứu này.

1 số khác biệt đă được phát hiện. Năm 1945, lực lượng Đồng minh thắng trận đă chính thức lên án tội ác diệt chũng những người đầu năo của Đức quốc xă. Nhiều công tŕnh nghiên cứu có hệ thống và đạt nhiều kết quả trong công tác kết án này. Hàng ngàn quyển sách xuất bản, hàng trăm cuống phim tŕnh chiếu. Như “ Đêm và sương mù - Nuit et Brouillard”; “ Sự chọn lựa của Sophine- Le choix de Sophine”; “Danh sách của Schindler- La liste de Schindler”. Chỉ riêng ông Raul Hilberg, ông ta đă sưu tầm các chi tiết về thủ tục và phương pháp giết người dân Do Thái dưới thời Đệ Tam Đế Quốc Đức.

Những tên như Himmler, Eischman được thế giới biết đến như biểu tượng của tàn ác,và dă man của thời đại. Nhưng người ta không hề nói đến những hung thần CS. Các tên ác ôn như Djerjinski, Iagoda hay Iejev nào có ai biết đến. C̣n các tên Lenine, Staline, HCM, Mao trạch Đông, th́ lại được sùng kính đáng ngạc nhiên. Lại có 1 viên chức nhà nước Pháp, Le Loto đă dùng các h́nh ảnh này vào trong chương tŕnh quảng cáo. Có ai bao giờ thấy các h́nh ảnh của Hitler hay Goebbels trong các sinh họat tương tợ hay không ?

Việc nghiên cứu tội ác của Quốc Xă Đức được chính thức xác nhận. Nguyện vọng của những người sống sót được đáp ứng. Các nhà nghiên cứu được công nhận và các nhà lănh tụ của quốc gia liên hệ đă làm sáng tỏ gía trị của nền dân chủ. Nhưng tại sao chỉ có tiếng vang rất nhỏ về lời khai của những người sống soát trong chế độ CS ? Tại sao có sự êm lặng chính trị 1 cách ngượng ngùng như vậy ? Và nhất là sự êm lặng của quư vị trong Hàn Lâm về thảm họa của CS từ hơn 80 năm qua đă gây cho hơn 1/ 3 dân số trên 4 lục địa. Tại sao chúng ta bất lực để đặt yếu tố ' Tội ác” vào trọng tâm trong công việc nghiên cứu chế độ CS? Tội ác đối với tập thể đông đăo quần chúng; tội ác hành động có âm mưu; tội ác chống lại nhân loại.

Phải chăng chúng ta không có đủ khả năng hiểu biết ? Hay đó chỉ là sự từ chối không muốn biết chỉ v́ sợ hăi ?

Lư do của sự che dấu này rất phức tạp. Trước hết đó là hành động cổ điển của những người chủ mưu gây tôị ác. Họ muốn xóa bỏ những ǵ họ đă làm. Họ không muốn ai nhắc đến.

Năm 1956 Kroutchev đọc 1 bản văn bí mật nh́n nhận tội ác của CS, tội ác của các nhà lănh đạo CS, những người hiện đang nắm quyền hành cũng đă nhúng tay vào. Theo lời của 1 hung thủ, họ mong được che đậy các tội ác và cứ đổ lỗi cho Staline. Họ chỉ là người thừa hành. V́ muốn che dấu các đ/c của ông ta nên Kroutchev chỉ nêu lên những người CS là nạn nhân trong các cuộc khủng bố

này. Dĩ nhiên cũng có người CS là nạn nhân thật. Nhưng so với con số thường dân chết th́ con số nạn nhân là người CS th́ quá nhỏ. Thay v́ kết án, Kroutchev chỉ nói rằng đó là “ Sự lạm dụng dưới thời Staline” để mong bào chữa cho sự liên tục của chế độ.

Kroutchev cũng tŕnh bày cho biết những trở lực và những người chống đối trong khi viết bản phúc tŕnh mật này. Kể cả nhân vật thân cận của Staline. Tên Kaganovitch là 1 ĐV thân cận với Staline. Ông ta có thể cắt cổ cha ông ta nếu như có lịnh, chỉ cần 1 cái nheo mắt của

Staline. Ông ta cho rằng thi hành lịnh của Staline là để phục vụ cho sự nghiệp của đăng. Cũng phải được hiểu là cho cả sự nghiệp của Staline. Sau này Kaganovitch giải thích cho hành động của ông ta là v́ ông muốn bảo tồn mạng sống của ḿnh. Ông ta chỉ c̣n muốn có 1

điều là làm sao xóa bỏ tội ác của ông. Công việc này chỉ có thể thực hiện được bằng cách phải bảo vệ bí mật các văn khố dự trữ, không ai được tham khảo; kiểm soát ṭan diện báo chí; kiểm soát các người ra nước ngoài; tuyên truyền và phóng đại các thành quả của chế độ; các

cơ quan truyền thông thực hiện các công tác đầu tiên là ngăn chận tất cả các đề nghị đưa ra ánh sáng các sự thật về tôị ác của CS.

V́ không bằng ḷng với những ǵ họ đă làm trong quá khứ, những tội phạm t́m mọi cách chống lại những ai muốn t́m hiểu sự thật.

Sau đệ nhi thế chiến, tại Pháp có hai vụ tố cáo tôị ác của CS. Từ tháng 4 đến tháng giêng năm 1949, ṭa án Ba Lê đă xét vụ án ông Victor Kravchenko, cựu công chức cao cấp XV và là tác gỉa quyển “ Tôi chọn tự do -Je choisi la liberte' “. Từ 11 - 1950 đến 1-1951 cũng tại ṭa án BaLê, ông Aragon đă kiện ông David Rousset, 1 nhà trí thức có khuynh hướng Trotski. Rousset đă từng bị lưu đày trong các trại tập trung của Đức trong đệ nhị thế chiến. Năm 1946 ông đoạt giải văn chương Renaudot với tác phẩm “ Vũ trụ tập trung - Univers concentrationaire”. Ngày 12 -11- 1946, ông Rousset kêu gọi những tù nhân ở LX hăy thành lập UB điều tra các trại tập trung khổ sai. Báo chí CS lúc bấy giờ mở chiến dịch chống phá Rousset kịch liệt và chính quyền XV cho biết là không hề có trại lao động khổ sai ở xứ này. Hưởng ứng lời kêu gọi của Rousset, tờ báo Figaro Litteraire số ra ngày 25 tháng 2-1950 cho đăng 1 bài báo tựa đề: “ Trại tập trung khổ sai của XV, Cái ǵ khốn khổ nhất: Địa ngục hay trại Belzebuth ? “ trong đó bà Magaret-Neuman với tư cách là nạn nhân, tường thuật lại những ǵ bà đă trăi qua trong trại tập trung của XV và của Quốc Xă Đức.

Những nhà độc tài XV t́m mọi cách chống lại lương tâm của con người. Họ mở ra 1 mặt trận rộng lớn với 1 số vũ khí đồ sộ để can thiệp vào mọi nơi trên thế giới. Họ tuyên bố bài trừ, đe dọa, và làm mất niềm tin đối với những ngướ như Soljenitsine, Boukovski, Zinoviev, Plioutch,.. Họ đuổi những người này ra nước ngoài hay cho đi lưu đày biệt xứ. Họ quản thúc ông Sakharov, nhà bác học đầu tiên chế ra bom nguyên tử tại Tp Gorgi. Cho Tướng Piotr Grigorenko an trí trong nhà thương điên..

Trước sự đe dọa quá lớn cùng vơí sự che đậy bịp bợm, các nạn nhân không đủ can đăm để phát biểu và cũng không c̣n khả năng để hội nhập vào cái XH c̣n đầy rẫy những tên chỉ điểm, những hung thủ đang sống nghênh ngang. Trong tác phẩm “ Rồi moị việc cũng qua “, tác giả Vassili Grossman tỏ vẻ thất vọng khi so sánh hai thảm kịch. Thảm kịch Do Thái đă được chính người Do Thái trên ṭan thế giới chu lo tưởng niệm. Trong khi thảm kịch của những nạn nhân của chế độ CS không hề có quyền đ̣i hỏi bồi thường, cho dù chỉ làm 1 lễ tưởng niệm nhỏ. Tất cả đều bị cấm kỵ.

1 khi CS không c̣n che dấu được 1 số sự thật như các vụ xử bắn, các trại tập trung, gây ra các nạn đói,.., th́ chúng vội vàng chạy tội vụng về. Sau khi nh́n nhận có xảy ra các cuộc khủng bố, họ t́m cách biện minh hợp lư. Họ cho rằng khi người ta đốn gỗ trong rừng th́ có các dâm cây bay ra ngoài. Hay muốn chiên trứng gà th́ phải đập vỏ trứng. Nhưng nào có chiên trứng gà nào đâu! Cái bịp bợm nhất là cách xử dùng ngôn ngữ của CS. H́nh thức tập trung chúng gọi la trại cải tạo. Các tên cai tù th́ mệnh danh là các tên quản giáo. Họ cố biến những tù nhân của chế độ củ thành những ngướ của chế độ mới. Ở các trại tù XV, các tên cai tù dùng bạo lực bắt tù nhân phải thừa nhận chính quyền. Tại Trung Cộng, các tù nhân là những sinh viên bị cưỡng bách đi lao động. Họ bị bắt buột phải họ các tư tưởng do đăng đưa ra và phải sửa sai tư tưởng cá nhân. Phải nói láo những sự thật. Nó làm cho tư tưởng của con người trở nên loạn thị về XH và chính trị. Tuy vậy sự méo mó về đường lối tuyên truyền của CS c̣n có thể sửa đổi được, nhưng khó có thể đưa những đă vi phạm tư tưởng trở về cái tri thức thích nghi. Cái ấn tượng đầu tin đă trở thành thiên kiến. Những người CS nhờ guồng máy tuyên truyền mạnh mẻ, khó có ai

sánh kịp, cộng thêm vào đó vơí cách xử dụng ngôn ngữ điếm xăo, đôi khi c̣n dùng vũ lực để chống lại các lời tố cáo về các hành động khủng bố của chúng, chúng tạo được 1 hàng ngũ chặt chẽ, kéo theo cảm t́nh viên, lập lại CNCS. Các người CS biết xử dụng 1 cách có hiệu lực nguyên tắc đầu tiên của hệ tư tưởng. Ông Tertullien đă từng tiên bố:” Tôi tin, dù cho phi lư”.

Nằm trong khuôn khổ tuyên truyền, nhiều nhà trí thức khoa bản đă bán đứng lương tri của họ. Vào năm 1928, văn hào nổi danh của Nga, ông Gorki đă chấp nhận đi viếng các vùng thuộc quần đăo Solovski. Nơi đây là thí điểm tập trung mà sau này theo nhận xét của Soljenitsine, trở thành hệ thống trại tù Goulag. Sau chuyến viếng thăm, nhà đại văn hào Gorki viết các bài báo ca tụng chế độ XV và quần đăo Solovski.

1 nhà văn Pháp, ông Henri Barbusse sau khi đoạt giải văn chương Goneourt vào năm 1916 đă viết bài nịnh hót chế độ Staline. Năm 1928 ông cho xuất bản quyển “ Xứ Georgie tuyệt vời”. Đó là quê hương của Staline. Tại nơi này, Staline cùng với thân cận Ordjonikidze vào năm 1921 đă mở 1 cuộc tàn sát rùng rợn.

Gần đây, Mario Maccio đă ca tụng Mao và Alain Peyrefitte cũng làm như vậy. Bà Danielle Mitterand cũng từng ca tụng Fidel Castro. Ḷng gian tham, sự nhu nhược tính khoe khoang và sự hư ảo đă bị bạo lực CM thôi miên. Các chế độ độc tài, dù với động cơ nào, vẫn luôn luôn có người sùng bái và ca tụng. Và họ cũng cần những người này. Chế độ độc tài CS cũng vậy.

Đứng trước các lời tuyên truyền của CS, các nước Tây phương có thái độ mù quáng lạ lùng. Hầu hết các nước Tây Âu đă tỏ ra quá ngây thơ đối với chế độ CS xăo quyệt. Phải chăng họ khiếp sợ trước sức mạnh của XV hay v́ cái vô liêm sĩ của các chính khách?

Tại hội nghị Yalta vào năm 1945 đă hiện diện sự mù quáng này. Tổng Thống Hoa Kỳ đă buôn rơi các nước Đông Âu cho Staline và Staline hứa sẽ cho tổ chức bầu cở tại các quốc gia này. Năm 1944, Tổng thống De Gaulle tại Mac Tư khoa, đă bỏ rơi Ba Lan cho bạo chúa Staline để

đổi lấy sự chấp thuận của lănh tụ CS Pháp Moris Thorez về 1 bảo đăm an ninh XH và chính trị trên đất Pháp khi khi chiến tranh kết thúc.

Việc làm mù quáng này đă củng cố 1 cách hợp pháp ḷng tin của những người CS Phương Tây và các thành phần khuynh tả. Họ cho rằng ở phía sau bức màn sắt là thiên đàng CNXH. Nhiều cuộc tranh luận về vấn đề này trong các nước dân chủ. Họ cho rằng phía bên kia bức màn sắt là 1 thực thể. Bà Simone Veil nhấn mạnh rằng công nhân CM rất sung sướng v́ họ được nhà nước yễm trợ.

1 nhà nước ủng hộ chính thức các hoạt động của công nhân. Chỉ có nhà nước mới có quyền ban cho. CNCS tự xưng là con đẻ của truyền thống giải phóng, con người và XH, 1 giấc mơ về sự b́nh đẳng thực sự, 1 hạnh phúc cho tất cả mọi người. Trong cái hào quang sáng chói này, CS đă phơi bày tất cả tất cả những điều nhơ nhớp mà CNXH đă gây ra.

Dù muốn hay không, sự không biết về chiều sâu của tội ác do CS gây ra mỗi lúc 1 gia tăng. 1 phần cũng tại sự thờ ơ của các người cùng thời với anh, cha chúng ta. Không phải con người có quả tim chai đá. Ông Tzvetan Todorov nhấn mạnh: “ Kư ức tang chế của cá

nhân ta đă cản trở ta cái tri giác cảm xúc các nổi đau khổ của người khác..”. Thế kỷ 20 là thế kỷ xảy ra quá nhiều tang thương. Con người đă gánh chịu quá nhiều nổi đau khổ cho nên chẳng mấy ai c̣n có thể động ḷng trắc ẩn trước sự đau khổ của người khác.


Có ba lư do che dấu tội ác của CS:

1. Trước hết là vấn đề liên hệ đến ư thức CM. Cho tới ngày nay nhiều người vẫn c̣n sùng bái ư niệm CM của giữa thế kỷ thứ 19. Các biểu tượng như lá cờ đỏ, bài quốc tế ca, nắm tay dơ lên cao, có dịp xuất hiện khi có sự tranh chấp XH. H́nh ảnh Che' Guerava trở thành cái mốt thời trang. Nhiều nhóm người làm CM, sinh hoạt công khai,lên tiếng phản đối những ai chỉ trích về tội ác

của những người làm CM đi trước. Họ không ngần ngại đọc các bài diễn văn ca tụng những tội phạm như Lenine, Staline, Mao,.. Có rất nhiều tác giả viết nhiều sách ca tụng và tin tưởng vào những lời tuyên truyền của CS.


2. Lư do thứ hai của hành động che dấu tội ác của CS là bởi XV đă tham gia vào cuộc chiến tranh chống Hitler và đă chiến thắng. Đó là cơ hội để cho những người CS chính thức đeo mặt nạ của những người ái quốc lương thiện ḥng đạt cho kỳ được mục tiêu tối hậu là nắm lấy chính quyền.

Từ đầu -6- 1941, khi quân Đức xua quân xâm chiến lănh thổ XV, tất cả các ĐV ĐCS ở các quốc gia bị Đức chiếm đóng, đồng loạt đứng lên, chiến đău vỏ trang chống lại Quốc Xă Đức hay Phát xít Ư. Những người CS cũng đă chịu cùng số phận của các tổ chức chính trị khác. Hàng ngàn ĐV CS bị hành hung, bắt giam, lưu đày lao động khổ sai hay bị xử bắn. CS đă thần tựơng hoá những ĐV bi tù đày hay bị xử bắn để nâng cao lư tưởng của chúng và c̣n dùng để chỉ trích những ai tố cáo tội ác của chúng. Ngoài ra, c̣n có rất nhiều người không phải là CS, cùng sát cánh với CS trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không chịu mở mắt ra. Tại nước Pháp, quân của cánh De Gaulle v́ cùng chung chống Đức quốc xă với quân của XV nên họ theo De Gaulle trở thành bộ phận của XV đối chọi với Hoa Kỳ.

Việc các người CS tham gia chống Phát xít được coi như là mẫu mực của phe tả. Những người CS tự coi ḿnh là tiêu biểu của lực lượng chống Phát Xít. Nhân danh nhản hiệu chống Phát xít này, CS đă làm câm họng những ai chỉ trích họ.

Francois Furet đă nhấn mạnh rất nhiều về cái điểm cốt cán này. Đức Quốc xă thua trận, các nước gọi là điều ác. Những người CS chiến thắng Đức, đó là điều thiện. Trong ṭa án Numberg, CS ngồi vào ghế biện lư. Chính nhờ vậy, họ đă che lấp các hoạt động xấu xa đối với gía trị dân chủ của các nước Tây phương. CS đă từng kư ḥa ước với Đức quốc xă vào năm 1939, cùng với quân Đức tàn sát các sĩ quan Ba lan tại Katyn vào mùa xuân 1940. N/d các quốc gia bị Đức chiếm đóng và được các nước Đồng Minh Anh, Hoa Kỳ giải phóng th́ tỏ ra vô cùng biết ơn Hồng quân Nga và cùng chia sẻ với n/d XV về những sự mất mát v́ chiến tranh. Ngành tuyên

truyền của CS khai thát triệt để các sự kiện này.Đồng thời, bộ máy tuyên truyền của CS cũng t́m cách che dấu những tội ác của chúng gây nên tại các quốc gia chúng chiếm đóng. Các nước Tây Âu cũng như dân chúng trên toàn thế giới đâu biết những ǵ đă xảy ra. Sử gia đă chia các cuộc chiến giải phóng ra làm hai loại: 1 là dân chủ hoá các quốc gia nằm trong khối Đồng Minh Tây Âu. Hai là thiết lập chế độ độc tài ở các quốc gia thuộc quyền kiểm soát của Hồng quân Nga. Ông Witold Gombrowicz diễn tả thảm cảnh của các quốc gia bị Hồng quân chiếm đóng như sau: “ Chiến tranh đă kết thúc nhưng không giải phóng cho người dân Ba lan. Tại khu vực đau khổ Trung Âu này, đó chỉ là sự thay đổi bóng tối này bằng 1 bóng tối khác. Các hung thủ của Staline đến thay các hung thủ của Hitler mà thôi. Trong khi đó, tại thủ đô

Ba Lê của nước Pháp người ta ca hát chào mừng n/d Ba lan đă được giải phóng khỏi gông cùm phong kiến..”


3. Lư do thứ ba của sự che dấu tội ác rất tế nhị.

Sau năm 1945, sự kiện diệt chủng dân Do Thái đă trở thành 1 hiện tượng dă man hiện đại. Hiện tượng này xâm chiếm tất cả tâm tư của con người. Trước thế chiến, CS cho rằng họ không hề có hành động ngược đăi dân Do Thái. Và họ biết rất rơ là họ sẽ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt tuyên truyền 1 khi họ khuyến khích phong trào chống Phát Xít. Gần đây, tại các nước CS lại xảy ra vụ xét lại tội diệt chủng dân Do Thái, với mục đích làm mờ đi tội ác tương tự của chúng.

Khúc quanh lớn đă diễn ra vào ngày 24 -2 - 1956. Đó là ngày chính thức nh́n nhận tội ác của CS. Buổi chiều ngày hôm ấy, Bí thư thứ nhất của ĐCS LX, ông Nikita Kroutchev khai mạc ĐH lần thứ 20 của ĐCS. ĐH họp trong pḥng kín. Các đại biểu êm lặng và căng thẳng ngồi nghe Kroutchev vạch tội Staline, ṛng ră 30 năm là người hùng của CNCS thế giới. Bản phúc tŕnh mật từ ngày đó đă là nguyên nhân của sự chuyển hướng căn bản của CNCS ngày nay. Và đây là lần thứ nhất 1 người lăng đạo cao cấp CS chính thức thừa nhận những người lănh đạo từ năm 1917 đă gây ra tội ác.

Có nhiều lư do đă thúc đẩy Kroutchev phá vỡ 1 trong những điều cấm kỵ của CS. Mục đính chính của Kroutchev là t́m cách quy tội cho 1 cá nhân để chạy tội cho chính sách dă man của CNCS. Trong kế hoạch này, ông tấn công và khai trừ các đăng viện tay chân của Staline, những ngướ theo Staline và chống lại ông. Kết quả cho chúng ta thấy rơ vào mùa hè năm 1957, tất cả các ĐV thân Staline ở mọi ngành, mọi nơi đều bị cách chức. Thí dụ điển h́nh này chỉ là 1 chi tiết tầm thường. Trên thực tế c̣n nhiều điều kinh ḥang hơn. Khi ông ta c̣n ở chức vụ Bí Thư vùng Ukraine, được coi như là lănh chúa của vùng, trong nhiều năm phát động nhiều vụ tàn sát khủng khiếp. Trong tập hồi kư, ông chỉ ghi lại những thành quả tốt đẹp cuả ông mà thôi. ĐH kết thúc với những quyết nghị và chương tŕnh thi hành các NQ. Nhưng rồi họ làm được những ǵ. Ông ta viết:” Vậy chúng ta phải làm ǵ cho những người bị xử bắn vô tội; phải làm ǵ cho những người bị bắt và bị thủ tiêu? Chúng ta có bằng cớ rơ ràng rằng họ là những người công dân lương thiện, họ là những ĐV trung thành với đăng. Họ đă hy sinh cho CNCS. Sớm hay muộn ǵ, những người hiện c̣n bị giam trong các khám sẽ được trả tự do. Họ sẽ kễ lại cho thân nhân nghe những ǵ đă xảy ra. V́ vậy tôi phải thú nhận trước các đại biểu hiện diện ngày hôm nay về đường lối lănh đạo sai lầm của đăng trong những năm đó. Làm sao chúng ta có thể nói là chúng ta không hề biết ǵ chuyện đó. Chúng ta phải biết rằng đó là 1 thời kỳ đàn áp và độc đóan ở trong đăng. Chúng ta có nhiệm vụ phải tŕnh bày trước ĐH những ǵ chúng ta biết. Trong cuộc sống, những người phạm tội sẽ nhận khoan hồng nếu như họ thú tôi. “

Cũng có 1 số trường hợp hối hận xảy ra. Nhiều người trước kia tham dự trực tiếp vào các vụ tàn sát thời Staline, tiêu diệt các ĐV khác để chiếm giữ các chức vụ quan trọng, nay cũng tư phê b́nh, tự kiểm điểm. Đó chỉ v́ sự cưỡng bách mà phải làm. Ai đó có thể trực tiếp đứng ra ngăn chận sự tàn sát này ? Đó là Kroutchev. Nhưng rồi cũng chính Kroutchev vào năm 1956 đă ra lịnh cho Hồng quân kéo xe tăng vào đè bẹp dân chúng Hung gia Lợi.

Trong các phiên họp ĐH thứ 22 của ĐCS, Kroutchev lại 1 lần nữa cho rằng ĐV CS là nạn nhân của Staline. Ông cho xây đài tưởng niệm những người CS này. Ông đi trở lại con đường độc tài. Con đường độc tài tuyệt đối dành riêng cho CS.

Vào năm 1962 khi c̣n tại quyền Tổng bí thư đăng, ông Kroutchev cho xuất bản quyển “ 1 ngày của Ivan Denissovitch “ của Alexandre Soljenitsine. Ngày 24 -10- 1960 Kroutchev bị truất phế, nhưng không bị thủ tiêu. Ông mất âm thầm vào năm 1974. Chẳng ai hay biết, ngoại trừ thân nhân.

Nhiều người nh́n nhận rằng bản “ phúc tŕnh mật của Kroutchev” phá vỡ căn bản chính sách của CS trong thế kỷ thứ 20.c

Theo ông Francois Furet 1 ĐV CS Pháp ly khai năm 1954 cho rằng bản phúc tŕnh mật chỉ là 1 sự thú nhận quanh co. Bản phúc tŕnh chỉ đề cập đến những ngướ CS là nạn nhân của Staline. Nhưng theo ông, dù sao bản phúc tŕnh mật cũng xác nhận là có xảy ra các vụ tàn sát kinh hoàng và ở mức rộng lớn trên đất nước Nga. Điều mà có nhiều người từ lâu nay vẫn nghi ngờ. Nhiều lănh tụ ĐCS ở các quốc gia khác không chiụ thừa nhận tội ác như Kroutchev đă làm. Măi đến năm 1979, ĐCS TQ mới chịu phân tích con đường chính trị của Mao. Họ cho rằng Mao đă có công rất lớn cho đến năm 1957. Sau đó họ Mao đă làm sai. CS VN chỉ đề cập đến điểm này xuyên qua việc tố cáo “ hành động diệt chủng của Pol Pot “. C̣n Castro th́ cho rằng không hề có bạo lực xảy ra dưới thời của ông.

Cho đến lúc này, chỉ có những người chống đối CS, những thành phần ly khai lên tiếng kết án tội ác của CS. Kết quả của các vụ tố cáo chẳng đi đến đâu. Chỉ có những người sống sót được trong các trại tù của Đức quốc xă, của CS mới đủ ư chí quyết liệt tố cáo tội ác. Nhưng ở Pháp không mấy ai chịu nghe họ. Pháp có trên 10.000 công dân sinh sống trong hai vùng Alsace và Lorraine, bị Quốc Xă sát nhập vào Đức. Trong chiến tranh, Những người Pháp này bị Đức gởi đi ra mặt trận trên đất Nga. Họ bị Hồng quân bắt làm tù binh và bị ngược đăi. Cho đến ngày hôm nay, 50 năm sau, gia đ́nh của họ không hề biết được tin tức ǵ cả. CP Pháp chưa giải quyết thỏa đáng.

2-1956, bản phúc tŕnh mật do Kroutchev đọc trước ĐH Đăng lần thứ 20 đă làm đăo lộn hàng ngũ CS. Lời tố cáo không phải xuất phát từ Phương Tây Tự Do mà từ Thánh địa Moskva. Ư niệm CS bị lung lay, không phải chỉ ở Nga mà c̣n dao động ở các nước CS chư hầu. Bởi v́ lời tố cáo không phải phát xuất từ 1 ĐV b́nh thường do bất măn, trái lại, nó do chính Chủ tịch nhà nước đương kiêm Đệ nhất Bí Thư Kroutchev đích thân tuyên đọc. Sự kiện này khiến cho người ta tự hỏi, liệu CNCS c̣n đáng được tin tưởng hay không ? Cả hội trường, không 1 ĐV đại biểu nào phát biểu chống lại, chứng tỏ bản phúc tŕnh mật có 1 gía trị sức mạnh ghê gớm.

Từ đầu năm 1917, đă xảy ra nhiều sự kiện lịch sử nghịch lư. 1 nhóm tỏ vẻ hồ hởi đón nhận cái gọi là “ tia sáng lớn lóe ra từ phương Đông “.

Nhóm khác cực lực chỉ trích các hoạt động của người Bônsêvich. Các cuộc tranh cải giữa hai khuynh hướng nhằm vào các cuộc khủng bố bạo lực của Lenine.

Trong những thập niên 20 và 50, cũng có nhiều ngưới lên án bộ mặt thật của những người Bônsêvich. Nhưng phải đợi đến khi người CS tự thú th́ tốc độ tố cáo mới có phần gia tăng. Nhiều UB thành h́nh co nhiệm vụ thu nhập những kư ức của nạn nhân. Như UB Quốc Tế về chế độ Trại tập trung của David Rousset hay Uy ban về sự thật tôị ác của Staline,.. Nhưng tiếng nói của các UB bị lấn át bởi tiếng trống tuyên truyền của CS và được nối tiếp bởi sự yên lặng hèn hạ gần như thờ ơ. Ngay cả khi Soljenitsine cho xuất bản quyển “ Quần đăo Goulag” và tác phẩm “ Ảo ảnh chết người” của Pin Yathay dư luận ở Tây phương vẫn tiếp tục êm lặng. XH Tăy Phương vẫn từ chối nh́ nhận sự thật đă xảy ra trước mắt họ: CNCS từ căn bản, ở mỗi cấp độ, tất cả đều đă nhúng tay vào tội ác.

Từ năm 1920 đến năm 1950 v́ CS bưng bít, nên các nhà nghiên cứu các tài liệu về các tội ác, chỉ có thể căn cứ vào những lời khai cuả các nhân chứng trốn thoát khỏi địa ngục LX.

Năm 1959 1 viên chức cao cấp của cơ quan t́nh báo XV KBG rời bỏ hàng ngũ chạy qua Tây Phương t́m tự do. Ông ta tŕnh bày tất cả các chi tiết về các trại Goulag và được viết lại trong tác phẩm “'Chế độ trại tập trung của XV từ 1930-1957”, tác giả là Paul Barton. Sách do nhà xuất bản Plon phát hành 1959. Ông Paul Barton là ai. Ông ta là người Tiệp Khắc lưu vong. Tên thật của ông là Jiri Veltrusky. Ông là 1 trong những người tham dự của nổi dậy ở thủ đô Prague của Tiệp Khắc vào 1945 chống lại Đức quốc xă. 1948 ông trốn qua Pháp.

Vào những thập niên 70- 80, Soljenitsine cho ra đờI tác phẩm “ Quần đăo ngụ tù Goulag”. Dư luận có chú ư, nhưng Soljenitsine cũng đă gặp nhiều khó khăn khi t́m cách phá vỡ cái lớp lừa bịp. Vào năm 1975, 1 kư giả của tờ báo lớn ở Pháp, tờ Humanite' đă ví Soljenitsine, người đạt giải thưởng Nobel văn chương, như các ông Pierree Laval, Doriot và Deat. [ các ông này bị ṭa án Pháp kết tôị tử h́nh v́ đă nghinh đón quân Đức như đón những đoàn quân GP ]. Những ǵ ông Soljenitsine viết, cũng như những ǵ ông Chalamov kể về Kolyma hay ông Pin Yathay nói về Cao miên đều là những nhận thức quyết định đầu tiên về ư thức.

Gần đây, ông Vladimir Boukovski, 1 trong những người ly khai trong phong trao ly khai dưới thời Brejnev, đă phản kháng trong tác phẩm “ Xử án tại Moskva - Jugement a Moscou”. Ông ta kêu gọi thành lập 1 ṭa án quốc tế như ṭa án Numberg để xử tội ác của chế độ CS. Tác phẩm của ông ta được thế giới Tây phương tiếp nhận nồng hậu. Nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy các tài liệu kêu gọi phục hồi danh dự và sự nghiệp của Staline.

Ngày hôm nay các trung tâm văn khố trưng bày các sự thật, đă thúc đẩy công việc sưu tầm các tội ác. Trung tâm văn khố của Liên bang XV cũ, của các nước Đông Âu, của Cao Miên đă đưa ra ánh sáng những sự kiện kinh hoàng. Đă đến lúc phải mở 1 cuộc điều tra theo phương pháp khoa học về tội ác của CNCS mà không sợ bị chi phối v́ lư do chính trị. Câu hỏi được đặt ra là phải quy trách tội ác của CS ở cấp độ nào cho đúng ?

Để trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này, cần phải có những đóng góp đặc thù trong công tác nghiên cứu.

Điểm thứ nhất, chúng tôi làm bổn phận của chúng tôi đối với lịch sử. Đối với sử gia, không thể có áp lực nào cho dù chính trị, tư tưởng hay cá nhân riêng tư cấm đóan họ nghiên cứu bất kỳ 1 đề tài nào. Ngày nay không ai có thể ngăn chận sự t́m hiểu, khai quật và phán quyết những ǵ đă xảy ra và nhất là những sự kiện từ bấy lâu nay bị dấu kín trong các văn khố cũng như trong lương tâm của con người.

Vấn đề nghiên cứu CNCS không thể chỉ giới hạn trong tầm vóc 1 quốc gia, 1 XH hay chỉ trong lănh vực văn hóa. Bởi với chính sách cực quyền, CS không những chỉ hoạt động trên phần đất Âu Châu và c̣n bao trùm khắp cả thế giới.

Nói 1 cách khác, vấn đề tộị ác CS không những chỉ xảy ra trên phần đất Nga mà c̣n cả trên lănh thổ Trung quốc của Mao trạch Đông, trên bắc Triểu tiên ở VN, trên đất Chùa Tháp Cao Miên của Pol Pot nữa. Tại các quốc gia này, CS thực hiện mẫu mực những ǵ đă xảy ra trên đất Nga, trở thành pḥng trào CS thế giới. Sự kiện lịch sử mà chúng ta đang trực diện có liên quan đến toàn thể nhân loại trên trái đất.

Lịch sử và kư ức được quy định trong nhiều h́nh thức khác nhau. Ở 1 nơi, nó liên hệ đến các quốc gia mà nơi đó CS không có 1 chút ảnh hưởng nào trong lănh vực kinh tế hay XH. Như ở các quốc gia Anh, Úc, Bỉ,..

Ở 1 nơi khác, CNCS tỏ ra đáng ghê sợ. Như ở Hoa Kỳ sau năm 1946. CS có thể cướp lấy chính quyền ở Pháp, ở Ư, ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay ở Hy lạp. Tại 1 số quốc gia Đông Âu, CS ngự trị hàng chục năm, cho tới những năm gần đây mới bị dân chúng hạ bệ.. Và ngọn lửa CS vẫn c̣n chập chờn gây đe dọa tại Trung quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Lao và VN.

Tuỳ theo hoàn cảnh và thái độ của những người đương thời, vấn đề lịch sử cũng như những kư ức không giống nhau. Trường hợp tại các quốc gia nói trên, thái độ của họ chỉ là những cuộc vận động đơn giản về suy tư. Nhưng ở trường hợp khác, họ c̣n phải đương đầu với 1 số vấn đề cần thiết cho sự hoà giải quốc gia trong những quyết định trừng phạt hay tha thứ cho những phạm tội đă gây ra tội ác. Nước Đức là 1 trường hợp đặc biệt. Việc thống nhất nước Đức quả là 1 phép mầu nhiệm. Nó không giống như Tiệp Khắc chia làm hai quốc gia riêng biệt. C̣n Nam Tư th́ tan ră ra từng mảnh nhỏ. Các nước Ba Lan, Miên th́ vẫn c̣n c̣n ray rứt với cái quá khứ tội ác. Ở 1 mức độ nào đó, hiện tượng quên đi những ǵ trong quá khứ có thể chấp nhận để hàn gắn vết thương luân lư và tâm lư của từng cá nhân hay của tập thể.

Tại các nước CS, th́ việc chối bỏ tội ác được thực hiện 1 cách có hệ thống. Trung Cộng, Cu Ba Bắc triều Tiên, VN vẫn c̣n cai trị bằng bạo lực.

Về phương diện luân lư, không ai có quyền phủ nhận bổn phận cuả họ đối với lịch sử và kư ức.

Không 1 ai có quyền bảo rằng “ Ai cho anh cái quyền nói đến Thiện và Ác.” Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, qua thông Điệp Mit Brennender Sorge đề ngày 14 -7- 1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI, đă chính thức lên án CN Quốc Xă. Thông Điệp thứ hai Divini Redemtoris đề ngày 19 -3- 1937 Đức Giáo Hoàng tố cáo CS. Thông Điệp thứ hai nhấn mạnh những đặc quyền của Thiên Chúa ban cho loài người. Quyền sinh sống; Quyền được ṭan vẹn thân thể; Quyền được hưởng những nhu cầu cấn thiết hằng ngày; Quyền được sống đến ngày cuối cùng theo con đường Chúa đă vạch định; Quyền được hội họp; Quyền tư hữu; Quyền xử dụng các tư hữu này. Cho dù ai có mĩa mai cái đạo đức gỉa nào đó của Giáo Hội khi cho phép những người làm giàu quá mức bằng cách chiếm đoạt tài sản của người khác, nhưng vấn đề nhắc nhở con người phải tôn trọng nhân phẩm vẫn là điều cần thiết.

Năm 1931, trong 1 Thông Điệp, Đức Giáo Hoàng XI nhận định rằng, CS hoạt động công khai và t́m đủ mọi cách kể cả bạo lực để đạt cho kỳ được hai mục tiêu. Đó là: luôn luôn đău tranh g/c và hũy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu.

CS xử dụng mọi phương tiện để đạt cho được hai mục tiêu này. CS chẳng tôn trọng cái ǵ cả. Nơi nào CS nắm chính quyền th́ nơi đó CS cho thi hành khủng bố tàn bạo. Các cuộc tàn sát ở Đông Âu và ở Á Châu đă chứng tỏ điều này. Lời cảnh cáo của Đức Giáo Hoàng mang nhiều ư nghĩa v́ nó phát xuất từ 1 cơ chế tồn tại qua nhiều thế kỷ..

Nếu cho rằng Giáo Hội giữ vai tṛ kiểm duyệt về luân lư, th́ những người viết sử phải viết làm sao về các mẫu chuyện mang tính chất anh hùng của những người CS và những mẫu chuyện thống thiết của các nạn nhân của CS ? Trong tác phẩm “ Hồi kư của nấm mồ -Memoiries d'outre-tombe, nhà văn Francois Rene' de Chateaubriand viết: “ Trong sự êm lặng của đê hèn, người ta không c̣n nhớ đến những tiếng kêu của dây xích của người nô lệ hay không nghe tiếng nói của người tố cáo”. Trong khi mọi người khiếp sợ trước bạo chúa, các sử gia đứng ra làm công việc báo thù cho dân tộc.”Nhưng ở vào những ngày cuối cùng trong đời, Chateubriand không c̣n tin tưởng vào “ việc báo thù cho dân tộc “. Và với tư cách là sử gia, với khả năng khiêm tốn, người viết sử cho dù không muốn ḿnh là phát ngôn viên của nạn nhân, cũng phải sẵn sàng nói lên sự thật những ǵ mà họ đă trăi qua. Người viết sử thực hiện công việc của ư thức. Công việc của sử gia là thiết lập các sự kiện thực đă xảy ra. Ngoài ra c̣n có sự liên hệ của sử gia với chế độ CS. Họ đă bị bắt buộc phải viết lên lịch sự của sự lừa dối.

Mặc dù các cánh cửa cuả các văn khố đă mở toanh, các tài liệu tŕnh bày ra trước mặt, nhưng sử gia cũng phải đề pḥng để khỏi trở thành quá “ thơ ngây” trong 1 số vấn đề phức tạp, có nhiều hậu ư, cần phải tranh luận.

Nhưng các sự hiểu biết về lịch sử không thể không kể đến sự phán xét, nếu muốn tôn trọng gía trị của nền dân chủ, và nhất là việc tôn trọng nhân phẩm. Trong cái ư niệm này, sử gia phán xét những chủ chốt của lịch sử. Ngoài những lư do khách quan đă thúc đẩy các sử gia sưu tầm các tội ác lịch sử, c̣n có lư do của cá nhân họ. Có nhiều vị cộng tác trong tập tài liệu này đă từng là những người bị lư thuyết CS mê hoặc. Các vị này cũng từng ủng hộ CNCS chính thống Lenine - Staline hay CNCS ly khai Trosky - Mao Trạch Đông.

Việc nghiên cứu để so sánh các việc xảy ra ở Trung Quốc, LX, Cu Ba và cả ở VN cần phải có 1 cuộc sưu tầm rộng răi. Đến nay chúng tôi chỉ có 1 số ít tài liệu. Ở vài nơi, các trung tâm văn khố mở cửa. Có nơi chỉ hé mở. Và nơi khác th́ vẫn c̣n đóng kín. Với t́nh trạng này, chúng tôi chưa đủ để có thể bắt tay vào công việc nghiên cứu. Chúng tôi biết rằng chúng tôi có 1 số tài liệu tuy không toàn bộ, nhưng phát xuất từ những tổ chức đáng tin cậy, được coi như là bước khởi đầu. Chúng tôi mong rằng đây là phát súng khai trương cho các cuộc nghiên cứu rộng lớn sau này.Chúng tôi khởi đầu bằng 1 cuộc điều tra các sự việc đă xảy ra. Các sự việc này rất là quan trọng và không thể nào chối căi được.

Quyển sách của chúng có quá nhiều chữ và có rất ít h́nh ảnh. Ngày hôm nay, con người tiếp nhận thường xuyên các tin tức, h́nh ảnh qua các hệ thống truyền thanh, truyền h́nh và trên báo chí. Ảnh hưởng của các cơ quan truyền thông có tác dụng rất lơn trong quần chúng để đánh giá phải trái các sự việc đă xảy ra. Chúng tôi chỉ có 1 số ít h́nh ảnh. Các trại tập trung Goulag chúng tôi không có h́nh. Chúng tôi có vài tấm ảnh của các trại cải tạo ở Trung Quốc. H́nh ảnh các nạn đói của” Bước tiến nhảy vọt” của Trung Quốc th́ không dễ ǵ có được. Ai cũng biết, đối với CS các h́nh ảnh như vậy là tuyệt đối phải giữ bí mật.

Những người thắng trận ở ṭa án Numberg có đủ điều kiện tự do để quay phim chụp h́nh, kể cả quay cảnh hàng ngàn người chết ở Bergen -Belsen. Họ cũng c̣n t́m thấy các bức ảnh do các hung thủ Đức Quốc Xă chụp các lính Đức bắn chết 1 người đàn bà trên tay đang bồng đứa con. Đối với chế độ CS th́ không thể chụp h́nh như vậy được v́ các vụ khủng khiếp này luôn luôn xảy ra trong ṿng bí mật.

Xin quư độc giả rộng lượng chấp nhận 1 số ít h́nh ảnh sưu tầm trong quyển sách. Xin quư độc giả hăy đọc thật kỹ từng trang 1 và suy tư về nổi thống khổ mà hàng chục triệu người đă chịu đựng.


Xin quư vị hăy tưởng tượng tấm bị kịch vĩ đại đă diễn ra. Nó đă ám ảnh nhân loại trên toàn thế giới từ mấy thập niên qua và sẽ c̣n kéo dài mấy thập niên về sau. Câu hỏi chính yếu được đặt ra là: Tại sao những người như Lenine, Staline, Trotsky hay các đ/c của họ phải tiêu diệt những người mà họ cho là kẻ thù ? Tại sao những người này có quyền giết người ? Như vậy họ đă vi phạm vào điều luật, mặc dù không thành văn, nhưng đă chi phối nhân loại: Người không được giết người. Đoạn cuối của quyển sách sẽ là phần trả lời cho các câu hỏi này.


<<trở về đầu trang>>
free counters