|
1. Lời
nói đầu
Cuốn sách " Le Livre
noir du communisme ", Xb Robert Laffont 1997, của
các học giả Stéphane Courtois, Nicolas Werth, Jean
Louis Panné, Andrzej Packowski, K.Bartosek,
...Jean-Louis Margolin
tố cáo tội ác của CS thế giới.
Lời nói đầu:
Người ta có thể
nói rằng lịch sử là môn khoa học chuyên về nổi đau
khổ của con người. Thế kỷ bạo động trong đó chúng ta
đang sống, đă chứng minh hùng hồn điều này. Trong
các thế kỷ trước, các cường quốc Âu Châu đă làm giàu
trong các cuộc buôn bán nô lệ da đen.
Nước Pháp với
chính sách thuộc địa đă ghi lại biết bao nhiêu ghê
tỡm trong lịch sử. XH Hoa Kỳ vẫn c̣n duy tŕ nền văn
hóa bạo động phát sinh từ hai tôị ác trọng đại: Việc
khai thác người nô lệ và việc tiêu diệt các giống
thổ dân Da Đỏ.
Nhưng nếu nói
về sự bạo động, thế kỷ chúng ta đang sống đă vượt
hẳn các thế kỷ trước. Thế kỷ của chúng ta đă có quá
nhiều thảm họa do con người gây ra: Hai trận thế
chiến, Chế độ Đức quốc xă, các thảm trạng xăy ra ở
Armenia, Biafra, Rwanda và 1 vài khu vực khác. Đế
quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ chủ mưu tiêu diệt các
sắc dân gốc Armenia. Đức quốc xă tiêu diệt dân Do
Thái. Mussolini tàn sát dân Ethiopie..Nhưng những sự
tàn sát này vẫn không thể nào so với tội ác của CS
đă gây ra.
CNCS, 1 hiện
tượng lớn của thế kỷ 20, bắt đầu từ 1914 và kết thúc
vào 1991 taị Moskva. CNCS ra đời trước CN Quốc Gia
Xă Hôị, goị tắc là Quốc Xă. CNCS sống lâu hơn Quốc
Xă và nó lan rộng ra khắp năm Châu.
Chúng ta cần
phân bịệt giữa CN và hành động.
Về phương diện
lư thuyết chính trị, CNCS đă có từ nhiều thế kỷ,
nhiều ngàn năm trước. Nhà hiền triết Hy Lạp
Platon đă đề cập đến
“ Chế độ CH” trong đó người dân không bị lệ
thuộc vào tiền bạc hay quyền lực. Trong xă hôị đó
chỉ có sự khôn ngoan, công lư và lẽ phải
ngự trị mà thôi.
1 nhà tư tưởng
lớn của Anh, ông Thomas More cũng đă vạch ra 1 quốc
gia lư tưởng nhưng đă bị bạo chúa Henri VIII chặt
đầu. Những tư tưởng này là những nguồn sinh khí
những đóng góp quư giá cho các nền dân chủ về sau.
C̣n CNCS được
đề cập ở đây không có vị thế của các nguồn tư tưởng
trên. Đây là CNCS hành động. Nó đă diễn ra ở 1 thời
điểm nhứt định, tại các quốc gia được biết rơ qua
các cuộc khủng bố, đàn áp, kiểm soát biên giơí, kiểm
soát các phương tiện truyền thông, bắt giam và cho
lưu đày các thành phần đối lập.
Những kư ức về khủng bố đă làm cho người ta không quên được
CNCS. Người ta không quên Mao Chủ Tịch vĩ đại của
Trung Cộng, Kim Nhựt Thành của Bắc Triều Tiên, HCM
của VN, Fidel Castro của Cu Ba v.v... và gần với
lịch sử hiện đại của chúng ta là: Maurice Thorez,
Jacques Duclos, Georges Marchais.
Nhưng tội ác của CS đă
không được đánh giá trên cả luật pháp cũng như trên
b́nh diện b́nh thường. Qua các trang sách này, lần
đầu tiên chúng tôi đặt vấn đề với CS về tội ác mà
chủ nghiă này đă gây ra.
Sẽ có nhiều người cho
rằng phần lớn các tội ác được coi là hợp pháp v́ các
tội ác này do được thực hiện theo lệnh của các lănh
tụ mà nước Pháp đă đón tiếp họ 1 cách nồng hậu.
Các tội ác mà
chúng tôi tŕnh bày trong quyển sách này không dựa
trên các tài liệu “ pháp lư” của chế độ CS. Chúng
tôi sẽ dựa trên các văn bản “ bất thành văn “. Nói 1
cách khác, các tài liệu này không được viết ra như
các đạo luật thiêng liêng về luân lư của nhân loại.
Chúng ta có
thể không lưu tâm đến các cuộc xử bắn các con tin,
sự tàn sát nhóm nhân công nổi loạn, các mồ chôn tập
thể của những người nông dân chết đói, do hoàn cảnh
gây nên. Chúng tôi chỉ đề cập đến chiều sâu của tội
ác mà CS đă coi đó như là cứu cánh của ṭan thể hệ
thống lănh đạo.
Chúng tôi sẽ nói lên
những ǵ ? Chúng tôi sẽ đưa ra những tội ác nào ? Có
vô số tôị ác: Trước hết là tôị ác về văn hóa của các
quốc gia CS thống trị và văn hóa của nhân loại.
Staline đă
ra lịnh phá bỏ hàng trăm giáo đường của các tôn giáo
taị Nga. Nhà độc tài Ceaucescu của Lỗ Ma Ni đă ra
lịnh phá hủy trung tâm lịch sử Châu Âu đó là Tp
Bucaresti. Pol Pot đă cho tháo gỡ từng viên gạch của
Tp Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên. Trong cuộc CM văn
hoá, Hồng Vệ Binh của Mao đă phá hủy vô số kho tàng
văn hóa vô gía của n/d Trung Hoa.
Chúng tôi chỉ ghi lại tội ác của 1 số người được coi là linh hồn
của các vụ tàn sát. Tuỳ theo mỗi chế độ, các phương
tiện khủng bố được thi hành dưới nhiều h́nh thức
khác nhau. Xư bắn, xử treo cổ, nhận ch́m trong nước,
đánh bằng gậy gộc, dùng chất khí độc, cho chết đói,
đưa đi lưu đày, gây ra tai nạn trong lúc đưa đi lưu
đày, bắt đi bộ trên các quăng đường dài hàng trăm
cây số, Lao động khổ sai, kiệt sức,..
Chúng tôi
thống kê danh sách con số người đă bị CS giết chết.
Đây chỉ là con số tối thiểu. Phải cần thời gian mới
có thể đưa ra con số chính xác. Sau đây là con số
người nạn nhân đă bị CS giết chết:
Các phong trào CSQT,
các ĐCS đang nắm chính quyền: vài chục ngàn. Tổng số
người chết lên đến con số gần 100 triệu.
Nếu tính theo tỉ lệ
thời gian th́ Pol Pot đứng hàng đàu gây tội ác.
Trong ṿng 3 năm, Pol Pot đă tiêu diệt 1 phần tư dân
số dân tộc Miên.
Mao đă gây tội ác trầm trọng trong cuộc CM văn hóa. Bàn tay của
Lenine và Staline đẩm máu v́ cái lô-gích tư tưởng
của ḿnh.
Nếu chỉ suy tư
về tội ác th́ không thể nào đánh gía được phẩm chất
chiều sâu của nó được. Công việc này phải được xét
xử trên tiêu chuẩn khách quan và trên khía cạnh pháp
lư.
Taị ṭa án Numberg vào
1945, các lănh tụ Đức Quốc Xă đă bị kết án về tội
diệt chủng trong thế chiến thứ hai căn cứ theo điều
6 của ṭa án quốc tế. Điều luật này ghi 3 trọng tôị:
chống lại ḥa b́nh, tội ác gây ra trong chiến tranh
và tội chống lại nhân loại. Nếu căn cứ vào điều luật
thứ 6 này th́ Lenine, Staline cũng như tất cả chính
quyền CS đă gây ra tội ác đều phải bị kết án.
Theo điều luật thứ
6A, các hành động như chỉ đạo, sửa sọan và theo đuỗi
cuộc chiến tranh xâm lăng hay tiếp tay vào các cuộc
chiến tranh vi phạm các thỏa ước quốc tế đều bị ghép
vào tội chống lại ḥa b́nh. Như vậy Staline phải bị
kết án. Staline bí mật kư hai hiệp ớc với Đức Quốc
Xă vào ngày 23 tháng 8 và ngày 28 -9- 1938 để rănh
tay ở hai mặt trận phía Đông và phía Tây. Hai hiệp
ước này đă khởi đàu Đệ nhị thế chiến. Ngoài ra
Staline c̣n vi phạm vào tội giúp khí giới cho Bắc
Triều Tiên đem quân xâm lấn Nam Triều Tiên vào ngày
25 -6- 1950. Staline cũng đă xua quân tiến chiếm
Phần Lan vào ngày 30 -9- 1939.
Moskva đă chỉ
đạo các ĐCS đàng em, mở các cuộc chiến tranh phá
hoại các 1 số quốc gia khác. Tại A Phú Hăn, Moskva
đă vi phạm vào điều luật thứ 6A khi đưa quân vào
giúp ĐCS nước này để cướp chính quyền vào ngày 27
-12- 1979.
Nó mở đầu cho cuộc chiến kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa kết
thúc, mặc dù quân Nga đă rút ra từ năm 1989.
Điều luật 6B nêu ra các hành động vi phạm trong lúc chiến tranh.
Các điều khỏan này đă được ghi rơ trong bản “ giao
ước quốc tế “ ra đời năm 1907 tại Tp La Hague của
nước Ḥa Lan. Nó bao gồm các điểm: hành động ám sát,
hành hạ, ngược đăi, lưu đày khổ sai, hành quyết các
con tin, cướp bóc hay tước đoạt tài sản, tàn phá các
thôn xóm, hạ giá tiền tệ không có lư do cho chính
đáng cho nhu cầu quân sự,..
Staline đă cho
thủ tiêu hầu hết các sĩ quan của quân đội Ba Lan bị
bắt làm tù binh vào cuối năm 1939. Tại Tp Katyn khi
cho khai quật mồ chôn tập thể 4500 tử thi, mỗi tử
thi điều có vết đạn ở sau ót. Ngoài ra c̣n các vụ
giết người trầm trọng khác cho đến giờ này không có
mấy người biết đến đó là các vụ tàn sát hàng trăm
ngàn tù binh Đức ở các trại giam khổ sai từ năm 1943
cho đến năm 1945. Vụ Hồng Quân Nga hăm hiếp phụ nữ
Đức trên các phần đất Đức bị chiếm.
Điều luật 6 C
ghi các tội chống lại nhân loại. Nó gồm các hành
động như sau: Tàn sát, tiêu diệt, biến thành nô lệ,
bắt đi lưu đày, ngược đăi v́ lư do chính trị, kỳ thị
chủng tộc hay tôn giáo,..
Trung Quốc: 65 triệu; LX: 20 triệu; Bắc Hàn: 2 triệu; Miên: 2
triệu; Phi châu: 1,7 triệu; A phú Hăn: 1,5 triệu;
Đông Âu: 1 triệu; VN: 1 triệu; Trung Mỹ:150 ngàn;
Trong bản cáo trạng tại toà án Numberg, Tổng Biện Lư Francois de
Menton nhấn mạnh tính chất ư thức hệ của các tội ác
này như sau: “ Tôi cho rằng tất cả các tội ác đă gây
ra cho 1 khối đông đăo quần chúng là tội ác chống
lại tư tưởng. Tôi muốn nói lên 1 CN đă chối bỏ tất
cả giá trị luân lư của nhân loại. Tội ác chống lại
tư tưởng là nguồn gốc của CN Quốc Xă. Đó là CN kỳ
thị chủng tộc.
Đây không phải
là 1 tại nạn rủi ro, không phải là 1 sự việc t́nh
cờ. Trái lại các hành động kỳ thị đă được nghiên cứu
kỹ lưỡng và được tổ chức trong khi thi hành..”
Các bản tuyên cáo của ṭa án Numberg nhấn mạnh đến 1 điểm chính
của điều khỏan “chống lại nhân lọai ': Lạm dụng
quyền lực của nhà nườc đề phục vụ cho 1 chính sách
và thi hành các tội ác.
Căn cứ vào
điều luật này, th́ tất cả các hành động xảy ra dưới
thời Lenine, Staline và tại các quốc gia nằm trong
tay CS đều phải bị kết án.
CS nhân danh nhà nước, nhân danh 1 ư thức hệ để tiêu diệt hàng
chục triệu người vô tội, chỉ v́ họ là quư tộc, là
thành phần trung lưu, trí thức, địa chủ,..
Khái niệm về
tôị ác chống lại nhân loại rất phức tạp. Ngoài tội
diệt chủng dân Do Thái do Đức quốc xă gây nên, ngày
9 -12- 1948 Liên Hiệp Quốc xác nhận như sau:.giết
hại, vi phạm tinh thần hay thân thể, cưỡng ép từ bỏ
điều kiện sinh sống để dấn dần bị tiêu diệt đối với
1 nhóm dân, 1 sắc dân hay 1 tôn giáo điều bị ghép
vào tôị ' chống lại nhân loại'.
Bộ h́nh luật
mới của Pháp định nghĩa từ “ diệt chủng” rộng răi
hơn. Đó là thỏa hiệp đưa đến việc tiêu diệt 1 phần
lớn hay ṭan thể 1 khối người, 1 sắc tộc, 1 g/c
trong XH hay 1 tôn giáo. Quan điểm này cũng không
khác nào tư tưởng của Andre Frossard. Theo ông ta,
nếu 1 người bị giết v́ lư do đă được sinh ra trong 1
g/c XH, 1 sắc dân hay theo 1 tôn giáo,.. đều bị coi
như tội ác chống nhân loại.
Trong quyển
sách “ Cuộc khủng bố đỏ ở Nga”xuất bản năm 1927 tại
Bá Linh, sử gia người Nga ông Serguei Melgounov kể
lại 1 mẫu chuyện của 1 người chi huy đầu tiên của cơ
quan t́nh báo chính trị XV, có tên là Latziv. Ngày 1
-11- 1919 ông ta ra lịnh cho 1 tên CA dưới quyền là
t́m bắt những người thuộc giới trung lưu mà không
cần cứu xét tội lỗi. Câu hỏi đầu tiên phải đặt ra
là: anh thuộc thành phần nào, gốc gác từ đâu, tŕnh
độ học vấn, nghề nghiệp,..
Chính Lenine
và đám thân cận của ông ta cũng không dung thứ các
đối thủ ch́nh trị. Những đối thủ chính trị này cần
phải tiêu diệt ngay. Hành động diệt chủng của nhóm
người BônsêVích thực sự tiến hành kể từ năm 1920 khi
họ cho giải thể nhóm dân Cosaques. Đàn ông bị xử
bắn. Người ǵa, phụ nữ và trẻ em bị đưa đi lưu đày.
Làng mạc, nhà cửa bị phá hủy.
Trong những
năm 1930, 1932 công tác giải thể nhóm dân Cosaques
mạnh mẻ và ṭan diện hơn. Staline xử dụng bộ máy
tuyên truyền trong nước cũng như bên ngoài về việc
kết án xử bắn, đưa đi lưu đày những ai chống lại
lịnh ' tập thể hóa '. Tuy rằng những ngưới đưa đi
lưu đày không bị giết ngay nhưng với các điều kiện
lao động cực khổ, trong điều kiện thời tiết gía lạnh
của mùa Đông ở vùng Bắc Tây Bá lợi Á, chẳng c̣n được
bao nhiêu người sống sót. Cho đến nay con số tử vong
chưa được chính thức đưa ra, nhưng phải kể đến hàng
trăm ngàn.
Trong vụ nạn
đói ở vùng Ukraine vào những năm 1932-1933 và những
vụ chống tập thể hóa đă có đến trên 6 triệu ngưới
chết. Tại vùng này đă diễn ra hai h́nh thức diệt
chủng: diệt chủng g/c và diệt chủng sắc dân.
Quốc Xă Đức xử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để thiết lập các
pḥng hơi ngạt và ḷ thiêu để giết dân Do Thái.
Trong khi CS xử dụng 'vũ khí đói' để tiêu diệt các
sắc dân. CS t́m đủ mọi cách để kiểm sóat lương thực.
Họ chỉ phân phối lương thực cho các phần tử mà họ
cho là xứng đáng. Họ phân biệt giữa nhóm người này,
nhóm người khác. T́nh trạng này đă dẫn đến các nạn
đói làm chết hàng triệu người tại các nước CS.
Bản tổng kết đàu tiên
ṭan bộ các tội ác được ghi như sau:
Trong những năm
1918-1922 có hàng chục ngàn con tin bị xử bắn mà
không được xét xử. Hàng trăm ngàn công nhân và nông
dân bị tàn sát v́ chống đói chính sách tập thể hoá
của CS.
Nạn đói năm 1922 đă làm cho 5 triệu người chết. Hàng trăm người
Cosaques sống quanh sông DON bị tiêu diệt.
Hàng chục ngàn
chết trong các trại tập trung vào những năm
1918-1930. Hàng trăm ngàn phú nông, trung lưu, trí
thức bị đưa đi lưu đày.
Trên 6 triệu
dân Uraine bị chết đói trong năm 1932-1933.
Hàng trăm ngàn
ngướ thuộc các sấc dân Ba Lan, Ukraine, dân Bắc Âu,
dân sống trong vùng Moldave bị đi lưu đày trong
những năm 1939-1940 và tái diễn trong những năm
1944-1945.
Năm 1941, nhóm dân Đức nhưng làm việc cho Nga sinh sống dọc theo
sông Volga bị đi lưu đày.
Năm 1975-1979
dân ở các Tp Cao Miên bị đi lưu đày và bị thủ tiêu.
Tiêu diệt từ từ dân Tây Tạng do CS Trung quốc chủ trương từ năm
1950.
Cho tới nay người ta
chưa tính hết tội ác do Lenine, Staline gây ra. Và
các tội ác này cũng tái diễn dưới bàn tay của Mao
Trạch Đông, Kim Nhật Thành và Pol Pot.
Về phương diện ngôn
ngữ của các sử gia, cần phải đưa ra 1 vấn đề: Sử gia
có quyền xử dụng các từ thuộc lănh vực pháp lư như “
tội ác chống lại nhân lọai' hay “ tôị diệt chủng “
trong lúc nghiên cứu về tính chất của chiến tranh
hay không ? Mặc khác, các khái niệm này cũng không
nên quá phức tạp để giữ tính khách quan trong lúc
sưu tầm tài liệu lịch sử.
Về điểm thứ nhất, lịch sử cho chúng ta thấy tôị ác diệt chủng
không phải là tôị ác độc quyền của Đức quốc xă. Hăy
nh́n những ǵ đă xăy ra gần đây ở các nước Bosnie, ở
Rwanda, chúng ta sẽ bằng ḷng điểm này.
Phần thứ hai
là chúng ta sẽ không trở lại cái thế kỷ 19. Vào thời
điểm đó, sử gia chỉ t́m hiểu sự việc mà không phán
đóan.
Nhưng đứng
trước thảm họa của nhân loại, sự phá vỡ phẩm gía của
con người, các sử gia có thể bỏ qua 1 số nguyên tắc
để cứu xét vấn đề. Sử gia Jean Pierre Azema đă kết
án chế độ Đức quốc xă có “ tôị ác chống lại nhân
loại”. Và ông Pierre-Vielal Naquet cũng tuyên bố
tương
tự khi kết án tên Touvier, 1 người Pháp công tác viên đắc lực
cho Đức đuốc xă.
Cũng như vậy,
chúng tôi làm những công việc sưu tầm để đưa ra ánh
sáng những tôị ác do CS đă gây ra.
Ngoài ra c̣n
phải đặc trách nhiệm của các chế độ CS đang nắm
quyền hành. Họ là những kẽ ṭng phạm. Năm 1987, bộ
h́nh luật của Gia Nă Đại tu chính các điều 3.76 và
3.77 ghi các điểm thuộc tôị ác chống lại nhân loại,
gồm có: Mưu toan, ṭng phạm, khuyến khích, giúp đỡ
để thực hiện tôị ác chống lại nhân loại, âm mưu và
ṭng phạm sau khi đă xảy ra sự việc.
Vậy mà trong
khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1950 những người CS
trên thế giới đă hô hào cổ vỏ cho hai tên gây tôị ác
Lenine và Staline. Hàng trăm ngàn người tham gia vào
phong trào CS quốc tế. Trong nhừng năm
1950,1960,1970 hàng triệu ngướ sùng bái Mao Trạch
Đông của Trung Quốc trong cuộc cải cách văn hoá. Và
gần đây c̣n có nhiều ngướ ca tụng Pol Pot. Về sau
họ chỉ trả: chúng tôi đâu có biết.. Mà quả thật
không dễ ǵ biết những ǵ CS làm. Bí mật là phương
châm họat động của CS. Nhưng có nhiều người ngày nay
đă biết sự thật nhưng họ vẫn êm lặng.
Năm 1969 ông Robert Conquest, 1 trong những sử gia đầu tiên
nghiên cứu về tôị ác của CS, đă viết:” 1 việc rất rơ
là có nhiều ngướ chấp nhận các cuộc thanh trừng
diễn ra ở Tp Moskva trong các năm 1936,1937 và 1938
theo lịnh của Staline. Chính sự chấp thuận này là sự
đồng lơa cho các vụ thanh trừng ṭan diện tiếp theo
sau. Nhiều người ở bên ngoài đă thừa nhận các vụ
hành quyết là đúng. Những ngướ này dù chỉ có lời
b́nh phẩm về các vụ thanh trừng này cũng phải chịu
trách nhiệm và phải được coi là ṭng phạm trong các
vụ án chính trị.
Joseph Berger, 1 cán
bộ trong tổ chức Quốc Tế CS, ngướ
đă từng nếm mùi ở các trại lao động khổ sai, đă kể
lại 1 lá thư của 1 nữ tù nhân ĐV CS được trả tự do
sau khi lưu đày với nội dung như sau:” Các người CS
thế hệ chúng tôi chấp nhận quyền lực của Staline. Họ
chấp nhận hành động bạo ác của Staline. Và cả những
người CS khác trên khắp thế giới. Đây là 1 vết nhơ
mà chúng tôi đă vi phạm. Để phá bỏ vết nhơ, chúng
tôi phải làm sao cho các tôị ác này không c̣n tái
diễn. Điều ǵ đă diễn ra ? Phải chăng chúng tôi mất
cả lư trí ? Phải chăng chúng tôi là những kẻ phản
bội CS ? Thật ra chúng tôi, kể ca những nhân viện
thân cận của Staline
đều đă vi phạm
các tôị ác. Chúng tôi đă tưởng rằng đó là những đóng
góp quan trọng cho việc chiến thắng của CNXH. Chúng
tôi cũng tin tưởng tất cả các việc làm để củng cố
quyền uy cho ĐCS ở LX cũng như cho các ĐCS trên toàn
thế giới.
Chúng tôi
không bao giờ nghĩ đến có sự tranh chấp giữa chính
sách và luân lư..”
Những ngướ CS Tây phương, mặc dù họ không bị khống chế bơỉ cơ
quan NKVD - Bộ nội vụ- của LX nhưng họ vẫn mù quáng
ca ngợi LX và nhà độc tài Staline. Phải chăng họ đă
uống phải liều thuốc tiên nào đó nên luôn luôn tôn
sùng quy phục quyền lực tối uy của LX.
Trong quyển
sách nói về CM của Nga, nhà văn Martin Malia đă vén
cho chúng ta thấy tấm màn nghịch lư của 1 “ tư tưởng
lớn” và đă dẫn đến 1 kết luận: Đó là 1 tội ác lớn.
Bà Annie
Kriegel, 1 nhà phân tích lớn về CNCS đă cho thấy hai
mặt của CN: Mặt tươi sáng và mặt tối.
Ư thức hệ CS dự phóng 1 XH tốt đẹp. Điều này đă mê hoặc nhiều
người. Nhưng XH CS tước đoạt tất cả trách nhiệm của
chúng ta. Họ quyết định mọi việc. Nhiều người ở bên
ngoài v́ sợ chịu trách nhiệm và tự do đă chấp nhận
CNCS. Nhưng những người sống trong chế độ độc tài CS
th́ quá chán ngán. Họ chỉ mong có sự thay đổi. Trong
luận đề “ Sự sợ hăi của ư thức tự do “ ông Fromm
tuyên bố: t́nh nguyện làm đầy tớ cho CNCS.
Những người
t́nh nguyện làm đầy tớ cũng là những kẻ ṭng phạm.
Khi chấp nhận làm gạch nối cho công tác tuyên truyền
che dấu sự thật cũng là ṭng phạm.
Phân tích hiện
tượng CS khi đang nắm chính quyền là 1 việc làm khó
khăn.
Ông Jean Ellenstein cho rằng Staline là 1 hiện tượng vừa mang
tính chất bạo tàn của thời cổ Hy Lạp, vừa mang tính
độc tài của Đông phương. Nhận định này tương đối
chính xác nhưng chưa khai thác được chiều sâu của
tính độc tài. 1 vài so sánh sau đây sẽ giải thích rơ
vấn đề.
Chúng ta bằng
ḷng dưới thời Nga Hoàng dân chúng bị áp bức. Người
Bônsêvích chiến đău chống lại chế độ Nga Hoàng.
Nhưng 1 khi quyền hành nằm trong tay những người
BônsêVích th́ sự áp bức con kinh hoàng hơn ở thời
Nga Hoàng rất nhiều. Nga Hoàng đưa những tù chính
trị ra trước ṭa án xét xử, đúng luật lệ của 1 toà
án. Có nghĩa là có luật sư biện hộ cho tôị nhân, có
nhân chứng, có dư luận của quần chúng. Đôí vơí CS,
các sự việc trên không hề xảy ra. Người tù trong chế
độ Nga Hoàng hưởng đủ quy chế tù nhân. Họ có quyền
đọc sách, viết thơ và nếu bị lưu đày, họ đi cùng với
gia đ́nh. Họ có quyền đi săn, đi câu cá và có quyền
giúp đỡ tù nhân khác,.. Chính Lenine và Staline cũng
đă từng ở tù và bị lưu đày dưới thớ Nga Hoàng. Cả
hai đă có những kinh nghiệm này.
Trong tác phẩm “ Kỹ niệm ngôi nhà của người chết”, nhà văn
Dostoievski đă làm cho độc giả của ông ta xao xuyến.
Nhưng nếu so với các thảm cảnh của thời Lenine,
Staline th́ chẳng đáng vào đâu.
Từ năm 1888
đến năm 1917, nước Nga xảy ra rất nh́ều cuộc rối
lọan và bị đàn áp. Đă có 6360 ngướ bị kết án tử
h́nh. Trong số này có 3922 ngướ bị xử bắn. Nhưng so
với 4 tháng đàu tiên lên nắm chính quyền, người
Bônsêvích đă xử tử nhiều hơn so vơí con số này.
Vào những năm
1920 đến năm 1940, CS lên tiếng phản đối các cuộc
khủng bố của chính quyền quân phiệt ở các nước khác.
Chúng ta thử xét xem những ǵ xảy ra ở Ư. Chế độ
Phát xít Ư có ngược đăi các nhà chính trị đối lập.
Trong năm 1935 nhà độc tài Mussolini đă bắt vài trăm
đói thủ chính trị vào tù và vài trăm người khác bị
quản thúc tại các đăo. Trên thực tế có vài ngàn
người lưu vong. Đó là những ǵ mà thế giới đă kết án
nhà độc tài Mussolini và chính quyền của ông.
Trong kỳ thế
chiến thứ hai, Đức quốc xă đă ra tay đàn áp các
thành phần chống đối họ như các ngướ CS, nhóm
XH,nhóm vô CP và 1 số nghiệp đ̣an. Đức quốc xă công
khai đàn áp và bắt giam những ngướ này. Từ năm 1933
đến 1939 Đức quốc xă đă kết án và xử bắn 20.000
ngướ. Đó là chưa kể đến con số người bị bắn chết v́
lư do không đủ tiêu chuẩn sắc tộc thuần tuư tóc
vàng, da trắng; những ngướ bịnh tâm thần, tật
nguyền hay ǵa yếu,..
Hitler đă ra
lịnh giết chết những ngướ già,người bịnh tâm thần
bằng hơi ngạt. Từ năm 1933 đến năm 1940 đă có 70.000
người chết v́ hơi ngạt. Khi Giáo hội lên tiến phản
đối, chương tŕnh dùng hơi ngạt mới ngưng họat động.
Sau này rút kinh nghiệm đă dùng hơi ngạt giết chết
lớp
người thứ ba, đó là giống dân Do Thaí.
Thoạt đầu có
vài trăm ngướ Do thái bị giết chết. 35.000 người bị
bắt giam vào các trại tập trung và sau đó bị đưa vào
các trại tử thần. Khi tấn công vào LX, quân Đức đă
giết 15 triệu dân ở các vùng chiếm đóng. Có 5,1
triệu dân Do Thái, 3,3 triệu tù binh XV và 1,1 triệu
dân đă
bị bắt vào các trại tử thần. Ngoài con số nạn nhân này, cũng cần
phải kể đến vài trăm ngàn dân Tziganes, 8 triệu
người bị cưỡng bách lao động khổ sai và 1,6 triệu
người c̣n sống sót lại trong các trại tập trung.
Ṭa án Numberg đă kết án những tội phạm và đă công bố những tội
ác mà họ đă gây ra. Sau cùng khi tiết lộ hành động
diệt chủng giống dân Do Thái đă làm cho lương tâm
nhân loại xúc động.
Ở đây chúng
tôi không muốn đưa ra 1 danh sách so sánh về con số
kinh hoàng hay bản kết toán về sự ghê tởm về những
ǵ CS đă làm. Nhưng sự kiện tội ác của CS đă quá rơ
ràng. Chế độ CS đă giết chết hàng trăm triệu ngướ
so với 25 triệu nạn nhân của Đức quốc xă. Với bản
đúc kết này, ít ra chúng ta cũng thấy được sự khác
nhau giữa hai chế độ trong thế kỷ này. Năm 1945, Đức
quốc xă bị kết án là chế độ bị vi phạm quá nhiều tội
ác trong thế kỷ. Trong khi đó chế độ CS lại được duy
tŕ cho đến năm 1991 với tất cả tính cách pháp lư
quốc tế của nó. Cho cả đến ngày hôm nay, CS vẫn c̣n
ngự trị trên 1 vài quốc gia với 1 số tín đồ. Và mặc
dù có 1 vài nước CS nh́n nhận tội ác của Staline,
của Lenine nhưng cho đến nay họ vẫn chưa chịu từ bỏ
các nguyên tắc của Lenine và họ cũng chẳng hề bị kết
án có liên hệ ǵ với tội ác này cả.
Các phương
pháp của Lenine và sau này được Staline hệ thống
hóa, đă được tay chân bộ hạ của hai ông thi hành làm
cho chúng ta liên tưởng đến những ǵ đă xảy ra trong
thời Đức quốc xă. Có 1 số tội ác đă xảy ra trước
thời Hitler.
Roudolf Hoess
là người được uỷ nhiệm thiết lập trại tử thần
Auschwitz. Về sau trại trưởng của trại này tiết lộ
cho biết ông có nhận chỉ thị của UB TW về an ninh 1
số chi tiết về các trại tập trung của XV.[ Nên nhớ
là đầu năm 1918, Lenine đă ra lịnh cho lưu đày các
chính trị đói thủ và và năm 1933 Đức quốc xă cũng áp
dụng như vậy]. Tài liệu c̣n nhấn mạnh XV tiêu diệt
ṭan bộ 1 số dân bằng cách bắt họ lao động khổ sai.
Với mức độ và
kỹ thuật gây tội ác cho 1 số quần chúng đông đăo mà
những người CS đă khai trương áp dụng, và sau đó Đức
quốc xă đă làm theo. Dưới cái nh́n của chúng tôi,
người ta có thể minh chứng 1 chân lư về sự liên hệ
trực tiếp giữa chế độ CS và sự ra đời của chế độ Đức
quốc xă.
Vào các năm
cuối của thập niên 20, cơ quan GPV, 1 danh xưng mới
của cơ quan t́nh báo chính trị XV, cho cho ra đời
chính sách tỉ lệ phân vùng. Mỗi vùng phải t́m cách
bắt đi lưu đày 1 tỉ lệ “ thành phần thù địch “nào đó
do nhà nước chỉ định. Sau năm 1920, Hồng quân đánh
bại quân Hoàng gia [ Bạch quân ], đă xảy ra các cuộc
lùng bắt khủng khiếp các sắc dân địa phương Ba Lan
và 3 nước vùng Baltique.
Việc chuyên chở các người lưu đày trên các toa xe lửa dùng để
chở súc vật đă được tái diễn tại các trại tập trung
của Đức quốc xă. Năm 1943-1944 trong lúc chiến tranh
đang diễn ra ở khắp nơi, Stalin, thay v́ cung cấp
cho chiến trường, ông ta đă dùng hàng ngàn nhân viên
củac
cơ quan t́nh
báo chính trị cùng với hàng chục ngàn toa xe vào
công việc chuyên chở các dân thuộc sắc tộc sống
trong vùng Caucase đi lưu đày trong ṿng vài ngày.
Đối chiếu
những ǵ đă xảy ra dưới chế độ Đức quốc xă và dưới
chế độ CS, chúng ta sẽ thấy kỳ lạ. V.Grossman là
ngướ đầu tiên đă nêu ra tôị ác xảy ra ở khám đường
Treblinka. Mẹ ông đă bị lính Đức quốc xă giết
chết trong khu biệt giam của vùng Berditchev. Ông
cũng là 1 trong những người trưng bày tội ác của Đức
quốc xă đă tiêu diệt ngướ Do Thái cư ngụ trân lănh
thổ của XV.
Trong tập truyện ngắn “ Ṛi tất cả cũng đi qua - Tout passe “,
ông đă đưa 1 nhân chứng của vụ chết v́ đói ở vùng
Urakine. Ông viết: “ Các văn sĩ, kể cả Staline cho
rằng phú nông là những ngướ ăn bám, những kư sinh
trùng. Họ là những kẻ đă đốt bỏ bông lúa và giết
chết trẻ
em.”. Staline
cũng c̣n công khai khuyến khích quần chúng nổi dậy
chống lại quần chúng, tiêu diệt tất cả những ngướ
mà họ gọi là tầng lớp xấu xa. Staline cho c̣n cho
biết muốn giết họ th́ hăy coi thành phần phú nông
không phải là người cũng giống như Đức quốc xă coi
dân Do Thái cũng không phải là ngướ.
Đức quốc Xă dự trù cho
1 XH tương lai của 1 sắc dân thuần chủng.
CS chuẩn bị cho ngày mai 1 XH của những người VS.
Hai cách cải tạo XH tuy có khác nhau về cách xử dụng
tiêu chuẩn nhưng giống nhau ở mục đích. Nếu cho rằng
CNCS là 1 chủ thuyết tổng quan th́ thật là sai lầm.
Nếu nó mang tính chất toàn cầu, th́ quả thực 1 nửa
nhân loại không c̣n xứng đáng để sinh tồn. Bởi nó
mang tính chất của CN Quốc xă. Nếu có khác chăng là
khác ở chổ, CS phân chia ra nhiều g/c trong khi Quốc
xă phân chia ra giống dân và lănh thổ.
Tội ác của
Lenine, Staline và h́nh ảnh dân Cao Miên dưới thời
Pol Pot đă đặt ra 1 câu hỏi mới cho các luật gia,
các sử gia và cho cả nhân loại: Phải xếp vào tội nào
đối với những ngướ đă tiêu diệt các thành phần bị
ghép vào tội thù địch v́ lư do chính trị, tư tưởng,
không phải ở
phạm vi vài ba
cá nhân mà cả tập thể đám đông quần chúng XH. Phải
chăng cần đặt ra 1 tội danh mới ? Ngướ Anh đă dùng
danh từ Politicide, bao gồm ư nghĩa cuả Chính trị -
politipue - và Giết chết - Cide. Người Tiệp Khắc gọi
là Tội ác CS.
Người ta biết ǵ về những tội ác CS gây ra ? Người ta muốn biết
cái ǵ, loại nào ? Và tại làm sao phải chờ măi đến
cuối thế kỷ này nó mới có các cuộc nghiên cứu nghiêm
túc?
Việc nghiên cứu tội ác của Quốc xă đă có từ lâu và đă đi khá xa
so với việc nghiên cứu các cuộc khủng bố của Lenine,
Staline. Nói chung, có sự khác biệt khá lớn giữa các
cuộc nghiên cứu cần phải vượt qua mặc dù các nước
Đông Âu đă gia tăng các cuộc nghiên cứu này.
1 số khác biệt
đă được phát hiện. Năm 1945, lực lượng Đồng minh
thắng trận đă chính thức lên án tội ác diệt chũng
những người đầu năo của Đức quốc xă. Nhiều công
tŕnh nghiên cứu có hệ thống và đạt nhiều kết quả
trong công tác kết án này. Hàng ngàn quyển sách xuất
bản,
hàng trăm
cuống phim tŕnh chiếu. Như “ Đêm và sương mù - Nuit
et Brouillard”; “ Sự chọn lựa của Sophine- Le choix
de Sophine”; “Danh sách của Schindler- La liste de
Schindler”. Chỉ riêng ông Raul Hilberg, ông ta đă
sưu tầm các chi tiết về thủ tục và phương pháp giết
người dân
Do Thái dưới
thời Đệ Tam Đế Quốc Đức.
Những tên như
Himmler, Eischman được thế giới biết đến như biểu
tượng của tàn ác,và dă man của thời đại. Nhưng người
ta không hề nói đến những hung thần CS. Các tên ác
ôn như Djerjinski, Iagoda hay Iejev nào có ai biết
đến. C̣n các tên Lenine, Staline, HCM, Mao trạch
Đông, th́ lại được sùng kính đáng ngạc nhiên. Lại có
1 viên chức nhà nước Pháp, Le Loto đă dùng các h́nh
ảnh này vào trong chương tŕnh quảng cáo. Có ai bao
giờ thấy các h́nh ảnh của Hitler hay Goebbels trong
các sinh họat tương tợ hay không ?
Việc nghiên
cứu tội ác của Quốc Xă Đức được chính thức xác nhận.
Nguyện vọng của những người sống sót được đáp ứng.
Các nhà nghiên cứu được công nhận và các nhà lănh tụ
của quốc gia liên hệ đă làm sáng tỏ gía trị của nền
dân chủ. Nhưng tại sao chỉ có tiếng vang rất nhỏ về
lời khai của những người sống soát trong chế độ CS ?
Tại sao có sự êm lặng chính trị 1 cách ngượng ngùng
như vậy ? Và nhất là sự êm lặng của quư vị trong Hàn
Lâm về thảm họa của CS từ hơn 80 năm qua đă gây cho
hơn 1/ 3 dân số trên 4 lục địa. Tại sao chúng ta bất
lực để đặt yếu tố ' Tội ác” vào trọng tâm trong công
việc nghiên cứu chế độ CS? Tội ác đối với tập thể
đông đăo quần chúng; tội
ác hành động có âm mưu; tội ác chống lại nhân loại.
Phải chăng chúng ta không có đủ khả năng hiểu biết ? Hay đó chỉ
là sự từ chối không muốn biết chỉ v́ sợ hăi ?
Lư do của sự
che dấu này rất phức tạp. Trước hết đó là hành động
cổ điển của những người chủ mưu gây tôị ác. Họ muốn
xóa bỏ những ǵ họ đă làm. Họ không muốn ai nhắc
đến.
Năm 1956
Kroutchev đọc 1 bản văn bí mật nh́n nhận tội ác của
CS, tội ác của các nhà lănh đạo CS, những người hiện
đang nắm quyền hành cũng đă nhúng tay vào. Theo lời
của 1 hung thủ, họ mong được che đậy các tội ác và
cứ đổ lỗi cho Staline. Họ chỉ là người thừa hành. V́
muốn che dấu các đ/c của ông ta nên Kroutchev chỉ
nêu lên những người CS là nạn nhân trong các cuộc
khủng bố
này. Dĩ nhiên
cũng có người CS là nạn nhân thật. Nhưng so với con
số thường dân chết th́ con số nạn nhân là người CS
th́ quá nhỏ. Thay v́ kết án, Kroutchev chỉ nói rằng
đó là “ Sự lạm dụng dưới thời Staline” để mong bào
chữa cho sự liên tục của chế độ.
Kroutchev cũng tŕnh bày cho biết những trở lực và những người
chống đối trong khi viết bản phúc tŕnh mật này. Kể
cả nhân vật thân cận của Staline. Tên Kaganovitch là
1 ĐV thân cận với Staline. Ông ta có thể cắt cổ cha
ông ta nếu như có lịnh, chỉ cần 1 cái nheo mắt của
Staline. Ông
ta cho rằng thi hành lịnh của Staline là để phục vụ
cho sự nghiệp của đăng. Cũng phải được hiểu là cho
cả sự nghiệp của Staline. Sau này Kaganovitch giải
thích cho hành động của ông ta là v́ ông muốn bảo
tồn mạng sống của ḿnh. Ông ta chỉ c̣n muốn có 1
điều là làm sao xóa bỏ tội ác của ông. Công việc này chỉ có thể
thực hiện được bằng cách phải bảo vệ bí mật các văn
khố dự trữ, không ai được tham khảo; kiểm soát ṭan
diện báo chí; kiểm soát các người ra nước ngoài;
tuyên truyền và phóng đại các thành quả của chế độ;
các
cơ quan truyền thông thực hiện các công tác đầu tiên là ngăn
chận tất cả các đề nghị đưa ra ánh sáng các sự thật
về tôị ác của CS.
V́ không bằng ḷng với những ǵ họ đă làm trong quá khứ, những
tội phạm t́m mọi cách chống lại những ai muốn t́m
hiểu sự thật.
Sau đệ nhi thế chiến,
tại Pháp có hai vụ tố cáo tôị ác của CS. Từ tháng 4
đến tháng giêng năm 1949, ṭa án Ba Lê đă xét vụ án
ông Victor Kravchenko, cựu công chức cao cấp XV và
là tác gỉa quyển “ Tôi chọn tự do -Je choisi la
liberte' “.
Từ 11 - 1950 đến
1-1951 cũng tại ṭa án BaLê, ông Aragon đă kiện ông
David Rousset, 1 nhà trí thức có khuynh hướng
Trotski. Rousset đă từng bị lưu đày trong các trại
tập trung của Đức trong đệ nhị thế chiến. Năm 1946
ông đoạt giải văn chương Renaudot với tác phẩm “ Vũ
trụ tập trung - Univers concentrationaire”. Ngày 12
-11- 1946, ông Rousset kêu gọi những tù nhân ở LX
hăy thành lập UB điều tra các trại tập trung khổ
sai. Báo chí CS lúc bấy giờ mở chiến dịch chống phá
Rousset kịch liệt và chính quyền XV cho biết là
không hề có trại lao động khổ sai ở xứ này. Hưởng
ứng lời kêu gọi của Rousset, tờ báo Figaro
Litteraire số ra ngày 25 tháng 2-1950 cho đăng 1 bài
báo tựa đề: “ Trại tập trung khổ sai của XV, Cái ǵ
khốn khổ nhất: Địa ngục hay trại Belzebuth ? “ trong
đó bà Magaret-Neuman với tư cách là nạn nhân, tường
thuật lại những ǵ bà đă trăi qua trong trại tập
trung của XV và của Quốc Xă Đức.
Những nhà độc
tài XV t́m mọi cách chống lại lương tâm của con
người. Họ mở ra 1 mặt trận rộng lớn với 1 số vũ khí
đồ sộ để can thiệp vào mọi nơi trên thế giới. Họ
tuyên bố bài trừ, đe dọa, và làm mất niềm tin đối
với những ngướ như Soljenitsine, Boukovski,
Zinoviev, Plioutch,.. Họ đuổi những người này ra
nước ngoài hay cho đi lưu đày biệt xứ. Họ quản thúc
ông Sakharov, nhà bác học đầu tiên chế ra bom nguyên
tử tại Tp Gorgi. Cho Tướng Piotr Grigorenko an trí
trong nhà thương điên..
Trước sự đe
dọa quá lớn cùng vơí sự che đậy bịp bợm, các nạn
nhân không đủ can đăm để phát biểu và cũng không c̣n
khả năng để hội nhập vào cái XH c̣n đầy rẫy những
tên chỉ điểm, những hung thủ đang sống nghênh ngang.
Trong tác phẩm “ Rồi moị việc cũng qua “, tác giả
Vassili Grossman tỏ vẻ thất vọng khi so sánh hai
thảm kịch. Thảm kịch Do Thái đă được chính người Do
Thái trên ṭan thế giới chu lo tưởng niệm. Trong khi
thảm kịch của những nạn nhân của chế độ CS không hề
có quyền đ̣i hỏi bồi thường, cho dù chỉ làm 1 lễ
tưởng niệm nhỏ. Tất cả đều bị cấm kỵ.
1 khi CS không c̣n che dấu được 1 số sự thật như các vụ xử bắn,
các trại tập trung, gây ra các nạn đói,.., th́ chúng
vội vàng chạy tội vụng về. Sau khi nh́n nhận có xảy
ra các cuộc khủng bố, họ t́m cách biện minh hợp lư.
Họ cho rằng khi người ta đốn gỗ trong rừng th́ có
các dâm cây bay ra ngoài. Hay muốn chiên trứng gà
th́ phải đập vỏ trứng. Nhưng nào có chiên trứng gà
nào đâu! Cái bịp bợm nhất là cách xử dùng ngôn ngữ
của CS. H́nh thức tập trung chúng gọi la trại cải
tạo. Các tên cai tù th́ mệnh danh là các tên quản
giáo. Họ cố biến những tù nhân của chế độ củ thành
những ngướ của chế độ mới. Ở các trại tù XV, các
tên cai tù dùng bạo lực bắt tù nhân phải thừa nhận
chính quyền. Tại Trung Cộng, các tù nhân là những
sinh viên bị cưỡng bách đi lao động. Họ bị bắt buột
phải họ các tư tưởng do đăng đưa ra và phải sửa sai
tư tưởng cá nhân. Phải nói láo những sự thật. Nó làm
cho tư tưởng của con người trở nên loạn thị về XH và
chính trị. Tuy vậy sự méo mó về đường lối tuyên
truyền của CS c̣n có thể sửa đổi được, nhưng khó có
thể đưa những đă vi phạm tư tưởng trở về cái tri
thức thích nghi. Cái ấn tượng đầu tin đă trở thành
thiên kiến. Những người CS nhờ guồng máy tuyên
truyền mạnh mẻ, khó có ai
sánh kịp, cộng
thêm vào đó vơí cách xử dụng ngôn ngữ điếm xăo, đôi
khi c̣n dùng vũ lực để chống lại các lời tố cáo về
các hành động khủng bố của chúng, chúng tạo được 1
hàng ngũ chặt chẽ, kéo theo cảm t́nh viên, lập lại
CNCS. Các người CS biết xử dụng 1 cách có hiệu lực
nguyên tắc đầu tiên của hệ tư tưởng. Ông Tertullien
đă từng tiên bố:” Tôi tin, dù cho phi lư”.
Nằm trong
khuôn khổ tuyên truyền, nhiều nhà trí thức khoa bản
đă bán đứng lương tri của họ. Vào năm 1928, văn hào
nổi danh của Nga, ông Gorki đă chấp nhận đi viếng
các vùng thuộc quần đăo Solovski. Nơi đây là thí
điểm tập trung mà sau này theo nhận xét của
Soljenitsine, trở thành hệ thống trại tù Goulag. Sau
chuyến viếng thăm, nhà đại văn hào Gorki viết các
bài báo ca tụng chế độ XV và quần đăo Solovski.
1 nhà văn Pháp, ông Henri Barbusse sau khi đoạt giải văn chương
Goneourt vào năm 1916 đă viết bài nịnh hót chế độ
Staline. Năm 1928 ông cho xuất bản quyển “ Xứ
Georgie tuyệt vời”. Đó là quê hương của Staline. Tại
nơi này, Staline cùng với thân cận Ordjonikidze vào
năm 1921 đă mở 1 cuộc tàn sát rùng rợn.
Gần đây, Mario
Maccio đă ca tụng Mao và Alain Peyrefitte cũng làm
như vậy. Bà Danielle Mitterand cũng từng ca tụng
Fidel Castro. Ḷng gian tham, sự nhu nhược tính khoe
khoang và sự hư ảo đă bị bạo lực CM thôi miên. Các
chế độ độc tài, dù với động cơ nào, vẫn luôn luôn có
người sùng bái và ca tụng. Và họ cũng cần những
người này. Chế độ độc tài CS cũng vậy.
Đứng trước các
lời tuyên truyền của CS, các nước Tây phương có thái
độ mù quáng lạ lùng. Hầu hết các nước Tây Âu đă tỏ
ra quá ngây thơ đối với chế độ CS xăo quyệt. Phải
chăng họ khiếp sợ trước sức mạnh của XV hay v́ cái
vô liêm sĩ của các chính khách?
Tại hội nghị
Yalta vào năm 1945 đă hiện diện sự mù quáng này.
Tổng Thống Hoa Kỳ đă buôn rơi các nước Đông Âu cho
Staline và Staline hứa sẽ cho tổ chức bầu cở tại các
quốc gia này. Năm 1944, Tổng thống De Gaulle tại Mac
Tư khoa, đă bỏ rơi Ba Lan cho bạo chúa Staline để
đổi lấy sự chấp thuận của lănh tụ CS Pháp Moris Thorez về 1 bảo
đăm an ninh XH và chính trị trên đất Pháp khi khi
chiến tranh kết thúc.
Việc làm mù quáng này đă củng cố 1 cách hợp pháp ḷng tin của
những người CS Phương Tây và các thành phần khuynh
tả. Họ cho rằng ở phía sau bức màn sắt là thiên đàng
CNXH. Nhiều cuộc tranh luận về vấn đề này trong các
nước dân chủ. Họ cho rằng phía bên kia bức màn sắt
là 1 thực thể. Bà Simone Veil nhấn mạnh rằng công
nhân CM rất sung sướng v́ họ được nhà nước yễm trợ.
1 nhà nước ủng
hộ chính thức các hoạt động của công nhân. Chỉ có
nhà nước mới có quyền ban cho. CNCS tự xưng là con
đẻ của truyền thống giải phóng, con người và XH, 1
giấc mơ về sự b́nh đẳng thực sự, 1 hạnh phúc cho tất
cả mọi người. Trong cái hào quang sáng chói này, CS
đă phơi bày tất cả tất cả những điều nhơ nhớp mà
CNXH đă gây ra.
Dù muốn hay
không, sự không biết về chiều sâu của tội ác do CS
gây ra mỗi lúc 1 gia tăng. 1 phần cũng tại sự thờ ơ
của các người cùng thời với anh, cha chúng ta. Không
phải con người có quả tim chai đá. Ông Tzvetan
Todorov nhấn mạnh: “ Kư ức tang chế của cá
nhân ta đă cản trở ta cái tri giác cảm xúc các nổi đau khổ của người khác..”. Thế kỷ 20 là thế kỷ xảy ra quá nhiều tang thương. Con người đă gánh chịu quá nhiều nổi đau khổ cho nên chẳng mấy ai c̣n có thể động ḷng trắc ẩn trước sự đau khổ của người khác.
Có ba lư do
che dấu tội ác của CS:
1. Trước hết là vấn đề
liên hệ đến ư thức CM.
Cho tới ngày nay nhiều người vẫn c̣n sùng bái ư niệm
CM của giữa thế kỷ thứ 19. Các biểu tượng như lá cờ
đỏ, bài quốc tế ca, nắm tay dơ lên cao, có dịp xuất
hiện khi có sự tranh chấp XH. H́nh ảnh Che' Guerava
trở thành cái mốt thời trang. Nhiều nhóm người làm
CM, sinh hoạt công khai,lên tiếng phản đối những ai
chỉ trích về tội ác
của những người làm CM đi trước. Họ không ngần ngại đọc các bài diễn văn ca tụng những tội phạm như Lenine, Staline, Mao,.. Có rất nhiều tác giả viết nhiều sách ca tụng và tin tưởng vào những lời tuyên truyền của CS.
2. Lư do thứ hai của
hành động che dấu tội ác của CS là bởi XV đă tham
gia vào cuộc chiến tranh chống Hitler và đă chiến
thắng. Đó
là cơ hội để cho những người CS chính thức đeo mặt
nạ của những người ái quốc lương thiện ḥng đạt cho
kỳ được mục tiêu tối hậu là nắm lấy chính quyền.
Từ đầu -6-
1941, khi quân Đức xua quân xâm chiến lănh thổ XV,
tất cả các ĐV ĐCS ở các quốc gia bị Đức chiếm đóng,
đồng loạt đứng lên, chiến đău vỏ trang chống lại
Quốc Xă Đức hay Phát xít Ư. Những người CS cũng đă
chịu cùng số phận của các tổ chức chính trị khác.
Hàng ngàn ĐV CS bị hành hung, bắt giam, lưu đày lao
động khổ sai hay bị xử bắn. CS đă thần tựơng hoá
những ĐV bi tù đày hay bị xử bắn để nâng cao lư
tưởng của chúng và c̣n dùng để chỉ trích những ai tố
cáo tội ác của chúng. Ngoài ra, c̣n có rất nhiều
người không phải là CS, cùng sát cánh với CS trong
các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không chịu mở
mắt ra. Tại nước Pháp, quân của cánh De Gaulle v́
cùng chung chống Đức quốc xă với quân của XV nên họ
theo De Gaulle trở thành bộ phận của XV đối chọi với
Hoa Kỳ.
Việc các người CS tham
gia chống Phát xít được coi như là mẫu mực của phe
tả. Những
người CS tự coi ḿnh là tiêu biểu của lực lượng
chống Phát Xít. Nhân danh nhản hiệu chống Phát xít
này, CS đă làm câm họng những ai chỉ trích họ.
Francois Furet đă nhấn
mạnh rất nhiều về cái điểm cốt cán này. Đức Quốc xă
thua trận, các nước gọi là điều ác. Những người CS
chiến thắng Đức, đó là điều thiện.
Trong ṭa án Numberg,
CS ngồi vào ghế biện lư. Chính nhờ vậy, họ đă che
lấp các hoạt động xấu xa đối với gía trị dân chủ của
các nước Tây phương. CS đă từng kư ḥa ước với Đức
quốc xă vào năm 1939, cùng với quân Đức tàn sát các
sĩ quan Ba lan tại Katyn vào mùa xuân 1940. N/d các
quốc gia bị Đức chiếm đóng và được các nước Đồng
Minh Anh, Hoa Kỳ giải phóng th́ tỏ ra vô cùng biết
ơn Hồng quân Nga và cùng chia sẻ với n/d XV về những
sự mất mát v́ chiến tranh. Ngành tuyên
truyền của CS
khai thát triệt để các sự kiện này.Đồng thời, bộ máy
tuyên truyền của CS cũng t́m cách che dấu những tội
ác của chúng gây nên tại các quốc gia chúng chiếm
đóng. Các nước Tây Âu cũng như dân chúng trên toàn
thế giới đâu biết những ǵ đă xảy ra. Sử gia đă chia
các cuộc chiến giải phóng ra làm hai loại: 1 là dân
chủ hoá các quốc gia nằm trong khối Đồng Minh Tây
Âu. Hai là thiết lập chế độ độc tài ở các quốc gia
thuộc quyền kiểm soát của Hồng quân Nga. Ông Witold
Gombrowicz diễn tả thảm cảnh của các quốc gia bị
Hồng quân chiếm đóng như sau: “ Chiến tranh đă kết
thúc nhưng không giải phóng cho người dân Ba lan.
Tại khu vực đau khổ Trung Âu này, đó chỉ là sự thay
đổi bóng tối này bằng 1 bóng tối khác. Các hung thủ
của Staline đến thay các hung thủ của Hitler mà
thôi. Trong khi đó, tại thủ đô
Ba Lê của nước Pháp người ta ca hát chào mừng n/d Ba lan đă được giải phóng khỏi gông cùm phong kiến..”
3. Lư do
thứ ba của sự che dấu tội ác rất tế nhị.
Sau năm 1945, sự kiện diệt chủng dân Do Thái đă trở thành 1 hiện
tượng dă man hiện đại. Hiện tượng này xâm chiếm tất
cả tâm tư của con người. Trước thế chiến, CS cho
rằng họ không hề có hành động ngược đăi dân Do Thái.
Và họ biết rất rơ là họ sẽ đạt được nhiều thắng lợi
trên mặt tuyên truyền 1 khi họ khuyến khích phong
trào chống Phát Xít. Gần đây, tại các nước CS lại
xảy ra vụ xét lại tội diệt chủng dân Do Thái, với
mục đích làm mờ đi tội ác tương tự của chúng.
Khúc quanh lớn đă diễn ra vào ngày 24 -2 - 1956. Đó là ngày
chính thức nh́n nhận tội ác của CS. Buổi chiều ngày
hôm ấy, Bí thư thứ nhất của ĐCS LX, ông Nikita
Kroutchev khai mạc ĐH lần thứ 20 của ĐCS. ĐH họp
trong pḥng kín. Các đại biểu êm lặng và căng thẳng
ngồi nghe Kroutchev vạch tội Staline, ṛng ră 30 năm
là người hùng của CNCS thế giới. Bản phúc tŕnh mật
từ ngày đó đă là nguyên nhân của sự chuyển hướng căn
bản của CNCS ngày nay. Và đây là lần thứ nhất 1
người lăng đạo cao cấp CS chính thức thừa nhận những
người lănh đạo từ năm 1917 đă gây ra tội ác.
Có nhiều lư do
đă thúc đẩy Kroutchev phá vỡ 1 trong những điều cấm
kỵ của CS. Mục đính chính của Kroutchev là t́m cách
quy tội cho 1 cá nhân để chạy tội cho chính sách dă
man của CNCS. Trong kế hoạch này, ông tấn công và
khai trừ các đăng viện tay chân của Staline, những
ngướ theo Staline và chống lại ông. Kết quả cho
chúng ta thấy rơ vào mùa hè năm 1957, tất cả các ĐV
thân Staline ở mọi ngành, mọi nơi đều bị cách chức.
Thí dụ điển h́nh này chỉ là 1 chi tiết tầm thường.
Trên thực tế c̣n nhiều điều kinh ḥang hơn. Khi ông
ta c̣n ở chức vụ Bí Thư vùng Ukraine, được coi như
là lănh chúa của vùng, trong nhiều năm phát động
nhiều vụ tàn sát khủng khiếp. Trong tập hồi kư, ông
chỉ ghi lại những thành quả tốt đẹp cuả ông mà thôi.
ĐH kết thúc với những quyết nghị và chương tŕnh thi
hành các NQ. Nhưng rồi họ làm được những ǵ. Ông ta
viết:” Vậy chúng ta phải làm ǵ cho những người bị
xử bắn vô tội; phải làm ǵ cho những người bị bắt và
bị thủ tiêu? Chúng ta có bằng cớ rơ ràng rằng họ là
những người công dân lương thiện, họ là những ĐV
trung thành với đăng. Họ đă hy sinh cho CNCS. Sớm
hay muộn ǵ, những người hiện c̣n bị giam trong các
khám sẽ được trả tự do. Họ sẽ kễ lại cho thân nhân
nghe những ǵ đă xảy ra. V́ vậy tôi phải thú nhận
trước các đại biểu hiện diện ngày hôm nay về đường
lối lănh đạo sai lầm của đăng trong những năm đó.
Làm sao chúng ta có thể nói là chúng ta không hề
biết ǵ chuyện đó. Chúng ta phải biết rằng đó là 1
thời kỳ đàn áp và độc đóan ở trong đăng. Chúng ta có
nhiệm vụ phải tŕnh bày trước ĐH những ǵ chúng ta
biết. Trong cuộc sống, những người phạm tội sẽ nhận
khoan hồng nếu như họ thú tôi. “
Cũng có 1 số
trường hợp hối hận xảy ra. Nhiều người trước kia
tham dự trực tiếp vào các vụ tàn sát thời Staline,
tiêu diệt các ĐV khác để chiếm giữ các chức vụ quan
trọng, nay cũng tư phê b́nh, tự kiểm điểm. Đó chỉ v́
sự cưỡng bách mà phải làm. Ai đó có thể trực tiếp
đứng ra ngăn chận sự tàn sát này ? Đó là Kroutchev.
Nhưng rồi cũng chính Kroutchev vào năm 1956 đă ra
lịnh cho Hồng quân kéo xe tăng vào đè bẹp dân chúng
Hung gia Lợi.
Trong các
phiên họp ĐH thứ 22 của ĐCS, Kroutchev lại 1 lần nữa
cho rằng ĐV CS là nạn nhân của Staline. Ông cho xây
đài tưởng niệm những người CS này. Ông đi trở lại
con đường độc tài. Con đường độc tài tuyệt đối dành
riêng cho CS.
Vào năm 1962
khi c̣n tại quyền Tổng bí thư đăng, ông Kroutchev
cho xuất bản quyển “ 1 ngày của Ivan Denissovitch “
của Alexandre Soljenitsine. Ngày 24 -10- 1960
Kroutchev bị truất phế, nhưng không bị thủ tiêu. Ông
mất âm thầm vào năm 1974. Chẳng ai hay biết, ngoại
trừ thân nhân.
Nhiều người
nh́n nhận rằng bản “ phúc tŕnh mật của Kroutchev”
phá vỡ căn bản chính sách của CS trong thế kỷ thứ
20.c
Theo ông
Francois Furet 1 ĐV CS Pháp ly khai năm 1954 cho
rằng bản phúc tŕnh mật chỉ là 1 sự thú nhận quanh
co. Bản phúc tŕnh chỉ đề cập đến những ngướ CS là
nạn nhân của Staline. Nhưng theo ông, dù sao bản
phúc tŕnh mật cũng xác nhận là có xảy ra các vụ tàn
sát kinh hoàng và ở mức rộng lớn trên đất nước Nga.
Điều mà có nhiều người từ lâu nay vẫn nghi ngờ.
Nhiều lănh tụ ĐCS ở các quốc gia khác không chiụ
thừa nhận tội ác như Kroutchev đă làm. Măi đến năm
1979, ĐCS TQ mới chịu phân tích con đường chính trị
của Mao. Họ cho rằng Mao đă có công rất lớn cho đến
năm 1957. Sau đó họ Mao đă làm sai. CS VN chỉ đề cập
đến điểm này xuyên qua việc tố cáo “ hành động diệt
chủng của Pol Pot “. C̣n Castro th́ cho rằng không
hề có bạo lực xảy ra dưới thời của ông.
Cho đến lúc
này, chỉ có những người chống đối CS, những thành
phần ly khai lên tiếng kết án tội ác của CS. Kết quả
của các vụ tố cáo chẳng đi đến đâu. Chỉ có những
người sống sót được trong các trại tù của Đức quốc
xă, của CS mới đủ ư chí quyết liệt tố cáo tội ác.
Nhưng ở Pháp không mấy ai chịu nghe họ. Pháp có trên
10.000 công dân sinh sống trong hai vùng Alsace và
Lorraine, bị Quốc Xă sát nhập vào Đức. Trong chiến
tranh, Những người Pháp này bị Đức gởi đi ra mặt
trận trên đất Nga. Họ bị Hồng quân bắt làm tù binh
và bị ngược đăi. Cho đến ngày hôm nay, 50 năm sau,
gia đ́nh của họ không hề biết được tin tức ǵ cả. CP
Pháp chưa giải quyết thỏa đáng.
2-1956, bản phúc tŕnh mật do Kroutchev đọc trước ĐH Đăng lần
thứ 20 đă làm đăo lộn hàng ngũ CS. Lời tố cáo không
phải xuất phát từ Phương Tây Tự Do mà từ Thánh địa
Moskva. Ư niệm CS bị lung lay, không phải chỉ ở Nga
mà c̣n dao động ở các nước CS chư hầu. Bởi v́ lời tố
cáo không phải phát xuất từ 1 ĐV b́nh thường do bất
măn, trái lại, nó do chính Chủ tịch nhà nước đương
kiêm Đệ nhất Bí Thư Kroutchev đích thân tuyên đọc.
Sự kiện này khiến cho người ta tự hỏi, liệu CNCS c̣n
đáng được tin tưởng hay không ? Cả hội trường, không
1 ĐV đại biểu nào phát biểu chống lại, chứng tỏ bản
phúc tŕnh mật có 1 gía trị sức mạnh ghê gớm.
Từ đầu năm
1917, đă xảy ra nhiều sự kiện lịch sử nghịch lư. 1
nhóm tỏ vẻ hồ hởi đón nhận cái gọi là “ tia sáng lớn
lóe ra từ phương Đông “.
Nhóm khác cực
lực chỉ trích các hoạt động của người Bônsêvich. Các
cuộc tranh cải giữa hai khuynh hướng nhằm vào các
cuộc khủng bố bạo lực của Lenine.
Trong những thập niên 20 và 50, cũng có nhiều ngưới lên án bộ
mặt thật của những người Bônsêvich. Nhưng phải đợi
đến khi người CS tự thú th́ tốc độ tố cáo mới có
phần gia tăng. Nhiều UB thành h́nh co nhiệm vụ thu
nhập những kư ức của nạn nhân. Như UB Quốc Tế về chế
độ Trại tập trung của David Rousset hay Uy ban về sự
thật tôị ác của Staline,.. Nhưng tiếng nói của các
UB bị lấn át bởi tiếng trống tuyên truyền của CS và
được nối tiếp bởi sự yên lặng hèn hạ gần như thờ ơ.
Ngay cả khi Soljenitsine cho xuất bản quyển “ Quần
đăo Goulag” và tác phẩm “ Ảo ảnh chết người” của Pin
Yathay dư luận ở Tây phương vẫn tiếp tục êm lặng. XH
Tăy Phương vẫn từ chối nh́ nhận sự thật đă xảy ra
trước mắt họ: CNCS từ căn bản, ở mỗi cấp độ, tất cả
đều đă nhúng tay vào tội ác.
Từ năm 1920
đến năm 1950 v́ CS bưng bít, nên các nhà nghiên cứu
các tài liệu về các tội ác, chỉ có thể căn cứ vào
những lời khai cuả các nhân chứng trốn thoát khỏi
địa ngục LX.
Năm 1959 1
viên chức cao cấp của cơ quan t́nh báo XV KBG rời bỏ
hàng ngũ chạy qua Tây Phương t́m tự do. Ông ta tŕnh
bày tất cả các chi tiết về các trại Goulag và được
viết lại trong tác phẩm “'Chế độ trại tập trung của
XV từ 1930-1957”, tác giả là Paul Barton. Sách do
nhà xuất bản Plon phát hành 1959. Ông Paul Barton là
ai. Ông ta là người Tiệp Khắc lưu vong. Tên thật của
ông là Jiri Veltrusky. Ông là 1 trong những người
tham dự của nổi dậy ở thủ đô Prague của Tiệp Khắc
vào 1945 chống lại Đức quốc xă. 1948 ông trốn qua
Pháp.
Vào những thập niên
70- 80, Soljenitsine cho ra đờI tác phẩm “ Quần đăo
ngụ tù Goulag”.
Dư luận có chú ư,
nhưng Soljenitsine cũng đă gặp nhiều khó khăn khi
t́m cách phá vỡ cái lớp lừa bịp. Vào năm 1975, 1 kư
giả của tờ báo lớn ở Pháp, tờ Humanite' đă ví
Soljenitsine, người đạt giải thưởng Nobel văn
chương, như các ông Pierree Laval, Doriot và Deat. [
các ông này bị ṭa án Pháp kết tôị tử h́nh v́ đă
nghinh đón quân Đức như đón những đoàn quân GP ].
Những ǵ ông Soljenitsine viết, cũng như những ǵ
ông Chalamov kể về Kolyma hay ông Pin Yathay nói về
Cao miên đều là những nhận thức quyết định đầu tiên
về ư thức.
Gần đây, ông Vladimir
Boukovski, 1 trong những người ly khai trong phong
trao ly khai dưới thời Brejnev, đă phản kháng trong
tác phẩm “ Xử án tại Moskva - Jugement a Moscou”.
Ông ta kêu gọi thành lập 1 ṭa án quốc tế như ṭa án
Numberg để xử tội ác của chế độ CS. Tác phẩm của ông
ta được thế giới Tây phương tiếp nhận nồng hậu.
Nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy các tài liệu kêu
gọi phục hồi danh dự và sự nghiệp của Staline.
Ngày hôm nay các trung tâm văn khố trưng bày các sự thật, đă
thúc đẩy công việc sưu tầm các tội ác. Trung tâm văn
khố của Liên bang XV cũ, của các nước Đông Âu, của
Cao Miên đă đưa ra ánh sáng những sự kiện kinh
hoàng. Đă đến lúc phải mở 1 cuộc điều tra theo
phương pháp khoa học về tội ác của CNCS mà không sợ
bị chi phối v́ lư do chính trị. Câu hỏi được đặt ra
là phải quy trách tội ác của CS ở cấp độ nào cho
đúng ?
Để trả lời
thỏa đáng cho câu hỏi này, cần phải có những đóng
góp đặc thù trong công tác nghiên cứu.
Điểm thứ nhất, chúng
tôi làm bổn phận của chúng tôi đối với lịch sử.
Đối với sử
gia, không thể có áp lực nào cho dù chính trị, tư
tưởng hay cá nhân riêng tư cấm đóan họ nghiên cứu
bất kỳ 1 đề tài nào. Ngày nay không ai có thể ngăn
chận sự t́m hiểu, khai quật và phán quyết những ǵ
đă xảy ra và nhất là những sự kiện từ bấy lâu nay bị
dấu kín trong các văn khố cũng như trong lương tâm
của con người.
Vấn đề nghiên cứu CNCS
không thể chỉ giới hạn trong tầm vóc 1 quốc gia, 1
XH hay chỉ trong lănh vực văn hóa. Bởi với chính
sách cực quyền, CS không những chỉ hoạt động trên
phần đất Âu Châu và c̣n bao trùm khắp cả thế giới.
Nói 1 cách khác, vấn đề tộị ác CS không những chỉ xảy ra trên
phần đất Nga mà c̣n cả trên lănh thổ Trung quốc của
Mao trạch Đông, trên bắc Triểu tiên ở VN, trên đất
Chùa Tháp Cao Miên của Pol Pot nữa. Tại các quốc gia
này, CS thực hiện mẫu mực những ǵ đă xảy ra trên
đất Nga, trở thành pḥng trào CS thế giới. Sự kiện
lịch sử mà chúng ta đang trực diện có liên quan đến
toàn thể nhân loại trên trái đất.
Lịch sử và kư
ức được quy định trong nhiều h́nh thức khác nhau. Ở
1 nơi, nó liên hệ đến các quốc gia mà nơi đó CS
không có 1 chút ảnh hưởng nào trong lănh vực kinh tế
hay XH. Như ở các quốc gia Anh, Úc, Bỉ,..
Ở 1 nơi khác,
CNCS tỏ ra đáng ghê sợ. Như ở Hoa Kỳ sau năm 1946.
CS có thể cướp lấy chính quyền ở Pháp, ở Ư, ở Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha hay ở Hy lạp. Tại 1 số quốc gia
Đông Âu, CS ngự trị hàng chục năm, cho tới những năm
gần đây mới bị dân chúng hạ bệ.. Và ngọn lửa CS vẫn
c̣n chập chờn gây đe dọa tại Trung quốc, Bắc Triều
Tiên, Cu Ba, Lao và VN.
Tuỳ theo hoàn cảnh và thái độ của những người đương thời, vấn đề
lịch sử cũng như những kư ức không giống nhau.
Trường hợp tại các quốc gia nói trên, thái độ của họ
chỉ là những cuộc vận động đơn giản về suy tư. Nhưng
ở trường hợp khác, họ c̣n phải đương đầu với 1 số
vấn đề cần thiết cho sự hoà giải quốc gia trong
những quyết định trừng phạt hay tha thứ cho những
phạm tội đă gây ra tội ác. Nước Đức là 1 trường hợp
đặc biệt. Việc thống nhất nước Đức quả là 1 phép mầu
nhiệm. Nó không giống như Tiệp Khắc chia làm hai
quốc gia riêng biệt. C̣n Nam Tư th́ tan ră ra từng
mảnh nhỏ. Các nước Ba Lan, Miên th́ vẫn c̣n c̣n ray
rứt với cái quá khứ tội ác. Ở 1 mức độ nào đó, hiện
tượng quên đi những ǵ trong quá khứ có thể chấp
nhận để hàn gắn vết thương luân lư và tâm lư của
từng cá nhân hay của tập thể.
Tại các nước CS, th́ việc chối bỏ tội ác được thực hiện 1 cách có hệ
thống. Trung Cộng, Cu Ba Bắc triều Tiên, VN vẫn c̣n
cai trị bằng bạo lực.
Về phương diện luân lư,
không ai có quyền phủ nhận bổn phận cuả họ đối với
lịch sử và kư ức.
Không 1 ai có
quyền bảo rằng “ Ai cho anh cái quyền nói đến Thiện
và Ác.” Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, qua thông Điệp Mit
Brennender Sorge đề ngày 14 -7- 1937 của Đức Giáo
Hoàng Pio XI, đă chính thức lên án CN Quốc Xă. Thông
Điệp thứ hai Divini Redemtoris đề ngày 19 -3- 1937
Đức Giáo Hoàng tố cáo CS. Thông Điệp thứ hai nhấn
mạnh những đặc quyền của Thiên Chúa ban cho loài
người. Quyền sinh sống; Quyền được ṭan vẹn thân
thể; Quyền được hưởng những nhu cầu cấn thiết hằng
ngày; Quyền được sống đến ngày cuối cùng theo con
đường Chúa đă vạch định; Quyền được hội họp; Quyền
tư hữu; Quyền xử dụng các tư hữu này. Cho dù ai có
mĩa mai cái đạo đức gỉa nào đó của Giáo Hội khi cho
phép những người làm giàu quá mức bằng cách chiếm
đoạt tài sản của người khác, nhưng vấn đề nhắc nhở
con người phải tôn trọng nhân phẩm vẫn là điều cần
thiết.
Năm 1931, trong 1 Thông Điệp, Đức Giáo Hoàng XI nhận định rằng,
CS hoạt động công khai và t́m đủ mọi cách kể cả bạo
lực để đạt cho kỳ được hai mục tiêu. Đó là: luôn
luôn đău tranh g/c và hũy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu.
CS xử dụng mọi
phương tiện để đạt cho được hai mục tiêu này. CS
chẳng tôn trọng cái ǵ cả. Nơi nào CS nắm chính
quyền th́ nơi đó CS cho thi hành khủng bố tàn bạo.
Các cuộc tàn sát ở Đông Âu và ở Á Châu đă chứng tỏ
điều này. Lời cảnh cáo của Đức Giáo Hoàng mang nhiều
ư nghĩa v́ nó phát xuất từ 1 cơ chế tồn tại qua
nhiều thế kỷ..
Nếu cho rằng
Giáo Hội giữ vai tṛ kiểm duyệt về luân lư, th́
những người viết sử phải viết làm sao về các mẫu
chuyện mang tính chất anh hùng của những người CS và
những mẫu chuyện thống thiết của các nạn nhân của CS
? Trong tác phẩm “ Hồi kư của nấm mồ -Memoiries
d'outre-tombe, nhà văn Francois Rene' de
Chateaubriand viết: “ Trong sự êm lặng của đê hèn,
người ta không c̣n nhớ đến những tiếng kêu của dây
xích của người nô lệ hay không nghe tiếng nói của
người tố cáo”. Trong khi mọi người khiếp sợ trước
bạo chúa, các sử gia đứng ra làm công việc báo thù
cho dân tộc.”Nhưng ở vào những ngày cuối cùng trong
đời, Chateubriand không c̣n tin tưởng vào “ việc báo
thù cho dân tộc “. Và với tư cách là sử gia, với khả
năng khiêm tốn, người viết sử cho dù không muốn ḿnh
là phát ngôn viên của nạn nhân, cũng phải sẵn sàng
nói lên sự thật những ǵ mà họ đă trăi qua. Người
viết sử thực hiện công việc của ư thức. Công việc
của sử gia là thiết lập các sự kiện thực đă xảy ra.
Ngoài ra c̣n có sự liên hệ của sử gia với chế độ CS.
Họ đă bị bắt buộc phải viết lên lịch sự của sự lừa
dối.
Mặc dù các cánh cửa cuả các văn khố đă mở toanh, các tài liệu tŕnh bày ra trước mặt, nhưng sử gia cũng phải đề pḥng để khỏi trở thành quá “ thơ ngây” trong 1 số vấn đề phức tạp, có nhiều hậu ư, cần phải tranh luận.
Nhưng các sự
hiểu biết về lịch sử không thể không kể đến sự phán
xét, nếu muốn tôn trọng gía trị của nền dân chủ, và
nhất là việc tôn trọng nhân phẩm. Trong cái ư niệm
này, sử gia phán xét những chủ chốt của lịch sử.
Ngoài những lư do khách quan đă thúc đẩy các sử gia
sưu tầm các tội ác lịch sử, c̣n có lư do của cá nhân
họ. Có nhiều vị cộng tác trong tập tài liệu này đă
từng là những người bị lư thuyết CS mê hoặc. Các vị
này cũng từng ủng hộ CNCS chính thống Lenine -
Staline hay CNCS ly khai Trosky - Mao Trạch Đông.
Việc nghiên
cứu để so sánh các việc xảy ra ở Trung Quốc, LX, Cu
Ba và cả ở VN cần phải có 1 cuộc sưu tầm rộng răi.
Đến nay chúng tôi chỉ có 1 số ít tài liệu. Ở vài
nơi, các trung tâm văn khố mở cửa. Có nơi chỉ hé mở.
Và nơi khác th́ vẫn c̣n đóng kín. Với t́nh trạng
này, chúng tôi chưa đủ để có thể bắt tay vào công
việc nghiên cứu. Chúng tôi biết rằng chúng tôi có 1
số tài liệu tuy không toàn bộ, nhưng phát xuất từ
những tổ chức đáng tin cậy, được coi như là bước
khởi đầu. Chúng tôi mong rằng đây là phát súng khai
trương cho các cuộc nghiên cứu rộng lớn sau
này.Chúng tôi khởi đầu bằng 1 cuộc điều tra các sự
việc đă xảy ra. Các sự việc này rất là quan trọng và
không thể nào chối căi được.
Quyển sách của
chúng có quá nhiều chữ và có rất ít h́nh ảnh. Ngày
hôm nay, con người tiếp nhận thường xuyên các tin
tức, h́nh ảnh qua các hệ thống truyền thanh, truyền
h́nh và trên báo chí. Ảnh hưởng của các cơ quan
truyền thông có tác dụng rất lơn trong quần chúng để
đánh giá phải trái các sự việc đă xảy ra. Chúng tôi
chỉ có 1 số ít h́nh ảnh. Các trại tập trung Goulag
chúng tôi không có h́nh. Chúng tôi có vài tấm ảnh
của các trại cải tạo ở Trung Quốc. H́nh ảnh các nạn
đói của” Bước tiến nhảy vọt” của Trung Quốc th́
không dễ ǵ có được. Ai cũng biết, đối với CS các
h́nh ảnh như vậy là tuyệt đối phải giữ bí mật.
Những người thắng trận ở ṭa án Numberg có đủ điều kiện tự do để
quay phim chụp h́nh, kể cả quay cảnh hàng ngàn người
chết ở Bergen -Belsen. Họ cũng c̣n t́m thấy các bức
ảnh do các hung thủ Đức Quốc Xă chụp các lính Đức
bắn chết 1 người đàn bà trên tay đang bồng đứa con.
Đối với chế độ CS th́ không thể chụp h́nh như vậy
được v́ các vụ khủng khiếp này luôn luôn xảy ra
trong ṿng bí mật.
Xin quư độc giả rộng lượng chấp nhận 1 số ít h́nh ảnh sưu tầm trong quyển sách. Xin quư độc giả hăy đọc thật kỹ từng trang 1 và suy tư về nổi thống khổ mà hàng chục triệu người đă chịu đựng.
Xin quư vị hăy tưởng tượng tấm bị kịch vĩ đại đă diễn ra. Nó đă ám ảnh nhân loại trên toàn thế giới từ mấy thập niên qua và sẽ c̣n kéo dài mấy thập niên về sau. Câu hỏi chính yếu được đặt ra là: Tại sao những người như Lenine, Staline, Trotsky hay các đ/c của họ phải tiêu diệt những người mà họ cho là kẻ thù ? Tại sao những người này có quyền giết người ? Như vậy họ đă vi phạm vào điều luật, mặc dù không thành văn, nhưng đă chi phối nhân loại: Người không được giết người. Đoạn cuối của quyển sách sẽ là phần trả lời cho các câu hỏi này.
<<trở về đầu trang>>