|
Ngày 17 tháng 2 năm 1979
Trung Quốc xua quân tấn
công Việt Nam trên toàn
tuyến biên giới Việt
Trung. Quan hệ môi hở
răng lạnh của 2 đảng
cộng sản vừa là đồng chí
vừa là anh em trở thành
môi bầm răng mẻ và kẻ
thù không đội trời
chung. Trong lúc đó, kể
từ năm 1975 (cho đến
1994) Hoa Kỳ bao vây
kinh tế Việt Nam bằng
cấm vận, ngăn cản các nỗ
lực giúp đỡ Việt Nam từ
quốc tế. Đồng minh duy
nhất c̣n lại để đảng
CSVN bám víu cho sự sống
c̣n là Liên Xô cũ.
Từ thập niên 80s, Liên
bang Xô Viết với chính
sách từng bước chấm dứt
đối đầu với thế giới tư
bản, cộng thêm với những
khủng hoảng nội tại về
kinh tế lẫn xă hội đă
không c̣n nhu cầu nuôi
dưỡng các đàn em vệ tinh
trong khối cộng sản. Năm
1985 Mikhail Gorbachov
nhận chức Tổng bí thư và
bắt đầu tiến hành chính
sách
"Cải Tổ"
(perestroika –
Перестройка) và
"Công khai hóa"
(Glasnost – Гласность).
Năm 1986 đảng CSVN nhận
2,9 tỉ viện trợ từ Liên
Xô. Năm 1990 xuống c̣n
100 triệu. Ngày 25 tháng
12 năm 1991, sau khi các
nước cộng ḥa thuộc Liên
bang Xô viết kư tuyên
ngôn thỏa thuận thành
lập Cộng đồng các quốc
gia độc lập, Liên Bang
Cộng ḥa Xă hội Chủ
nghĩa Xô viết chính thức
chấm dứt tồn tại. Nguồn
viện trợ và là mạch sống
của đảng CSVN từ Liên Xô
tan biến.
Cái nôi Cách mạng tháng
10 sụp đổ. Nguồn tiếp tế
để nuôi dưỡng bộ máy cai
trị bị cắt đứt. Đảng
CSVN phải t́m quan thầy
khác để dựa vào cho sự
sống c̣n. Quan thầy đó
là Trung Quốc, kẻ đă xâm
lăng và "dạy cho một bài
học" ở biên giới năm
nào. Đầu thập niên 90s,
giai đoạn CSVN quay đầu
và cúi đầu thần phục
Trung Quốc lại một lần
nữa bắt đầu.
*
Trong suốt thời gian
thần phục và được tiếp
máu bởi Trung Quốc, cộng
với chính sách
"Đổi mới" sao bản từ
Perestroika và
Glasnost, nền kinh
tế Việt Nam đă có những
"phát triển" đáng kể so
với thời kỳ bao cấp. Có
giai đoạn giới đầu tư
quốc tế hồ hởi dự đoán
Việt Nam sẽ trở thành
một con hổ Á Châu, một
con rồng đang vươn lên.
Hơn 20 năm nh́n lại, câu
hỏi được đặt ra: tiềm
năng và động lực nào
giúp Việt Nam "phát
triển"?
Đối chiếu khách quan với
thực tế:
-
Một đất nước phát triển
là nhờ vào một chính
sách phát triển chủ đạo
đúng đắn. Điều
này đă không xảy ra tại
Việt Nam với chính sách
"Kinh tế thị trường theo
định hướng xă hội chủ
nghĩa". Đă có hàng ngàn
bài viết phân tích về
vấn đề này, nhưng đơn
giản và cô đọng nhất có
thể nói: "ngay cả những
người đẻ ra khái niệm
này, những người kiên
quyết bám lấy nó để thực
hiện cũng không biết nó
là cái ǵ". Vậy th́
chính sách phát triển
chủ đạo đúng đắn không
có.
-
Một đất nước phát triển
là nhờ vào kiến thức (lư
thuyết) và kỹ năng (thực
hành) của công dân nước
đó. Nền giáo dục
Việt Nam là một nền giáo
dục với chính sách đào
tạo lạc hậu, đầy rẫy
những tệ trạng về thành
tích hảo, bằng cấp giả,
lư thuyết từ chương,
chính trị hóa học
đường... mà suốt bao năm
qua chính truyền thông
báo chí của đảng phải
thừa nhận. Dù thế nào,
một đất nước 90 triệu
người chắc chắn vẫn có
những chuyên gia tài
giỏi. Nhưng so với nhu
cầu của đất nước và so
sánh với các nước đang
phát triển khác th́ chưa
đủ và tập thể này cũng
không có được môi trường
và cơ hội để phát triển
và đóng góp tối đa. Hồng
vẫn hơn chuyên. Trường
hợp của Viện Nghiên Cứu
Phát Triển (IDS) phải tự
giải tán là một thí dụ
điển h́nh. Nói chung,
nền giáo dục Việt Nam đă
không đào tạo được đội
ngũ nhân sự có thể cạnh
tranh với đà phát triển
của thế giới.
-
Một đất nước phát triển
là nhờ vào khả năng quản
trị và điều hành vĩ mô
của nhà nước
(nếu quốc gia đó vận
hành theo chiều hướng
chính phủ kiểm soát và
can thiệp vào nền kinh
tế quốc gia). Đánh giá
thành quả của các tập
đoàn kinh tế quốc doanh
được điều hành bởi các
đảng viên cộng sản, đo
lường khả năng và kiến
thức của 14 người trong
Bộ Chính trị của đảng
"đă quyết" mọi chính
sách, đề án lớn của đất
nước, và nh́n vào t́nh
trạng giáo dục chuyên tu
lấy lệ, mua bằng bán cấp
của cán bộ cộng sản...
đủ để kết luận rằng:
Việt Nam không có một
đội ngũ lănh đạo có khả
năng cao để điều hành và
quản trị nền kinh tế.
-
Một đất nước phát triển
là nhờ vào một hệ thống
điều hành kinh tế minh
bạch và "trong
suốt", kiểm soát bởi một
nền pháp lư công bằng và
nghiêm minh và một
truyền thống tốt đẹp
trong quan hệ kinh tế.
Việt Nam với căn bệnh
trầm kha
"tham nhũng là quốc nạn"
- một
"bầy sâu lớn - nhỏ",
với một rừng luật nhưng
toàn là luật rừng, với
thái độ luật là ta - ta
là luật, với thói tật
bôi trơn đă thành nếp ở
mọi cấp, với truyền
thống làm ít nói nhiều,
làm giả khai thật, ...
đă không có một cấu trúc
lành mạnh cho việc phát
triển kinh tế.
Vậy th́, một đất nước
không có chính sách phát
triển đúng đắn, không có
một đội quân kinh tế với
đủ kiến thức và kỹ năng,
không có một tập thể
lănh đạo kinh tế giỏi,
không có một cấu trúc hạ
tầng lẫn thượng tầng
lành mạnh, th́
"cái ǵ" giúp đất nước
đó "phát triển"?
"Cái ǵ" ???
Ở Việt Nam,
"cái ǵ" đó là tài
nguyên, là lănh thổ, là
biển, là đảo của tổ
tiên.
Ở Việt Nam,
"cái ǵ" đó là đại
chính sách "vay nợ tương
lai", tài nguyên -
khoáng sản có ǵ đem bán
cứ bán, nếu chưa bán
được th́ tiến hành chính
sách cho "nước lạ" thuê
dài hạn để kiếm được
chút phồn vinh giai
đoạn.
Ở Việt Nam,
"cái ǵ" đó không
dừng lại ở tài nguyên mà
c̣n là danh dự, sĩ diện
dân tộc. Những hành động
vinh danh "liệt sĩ"
Trung Quốc, đục phá bia
mộ ghi nhớ công lao
chiến sĩ Việt Nam, kỷ
niệm ngày 1 tháng 10...
tất cả không chỉ là thái
độ đê hèn; nó là một sự
mua bán đổi chác đă được
thương lượng.
Ở Việt Nam,
"cái ǵ" đó là những
chuyến ngoại giao bí
mật, những hiệp định kư
kết bí mật, những thỏa
thuận mua bán ngầm, cách
dàn xếp nhân sự để có
được một đội ngũ trung
thành và những chiếc ghế
quyền lực được bảo
chứng.
Tất cả những
"cái ǵ" đó là nguồn
vốn của "phát triển".
Tất cả đều quy về một
mối, đổ về một nơi: bản
khế ước sang nhượng, mua
và bán tổ quốc Việt Nam
giữa hai đảng cộng sản
Việt Nam và Trung Quốc.
Tất cả những
"cái ǵ" đó đều quy
về một mục tiêu tối hậu:
SỰ SỐNG C̉N của những
chiếc ghế quyền lực, núp
đằng sau hệ thống - đảng
CSVN.
*
Thế nào là sự sống c̣n
của đảng CSVN?
Đảng cộng sản có hơn 3
triệu đảng viên. Ngày
hôm nay, tuy không chính
thức thừa nhận nhưng tất
cả đều biết đa phần
những người vào đảng là
v́ quyền lợi cá nhân.
Cũng ngày hôm nay, dưới
ánh sáng "giẫy chết" của
tư bản, mọi đảng viên
đều biết có quyền mà
không có tiền th́ vất
đi. Sự trung thành vào
đảng tỉ lệ thuận với
quyền và tiền được cung
ứng từ đảng. Mất nó,
đảng sẽ không c̣n tồn
tại.
Đảng cộng sản có một đội
ngũ quân đội
"Trung với đảng, hiếu
với dân". Lấy ǵ để
nuôi dưỡng ḷng trung
thành này từ thành phần
cầm súng có thể kéo về
Ba Đ́nh bất kỳ lúc nào
để làm nên một cuộc đảo
chánh? Khẩu hiệu trung
với đảng được dán lên lá
cờ và ban phát trong mỗi
dịp lễ không mua được
ḷng trung thành của
những khẩu súng đói. Mất
nó, đảng có nguy cơ bị
thay thế bởi một chế độ
quân phiệt.
Đảng cộng sản có một đội
ngũ công an, mật vụ
"C̣n đảng c̣n ḿnh".
Lấy ǵ để những người
này can tâm trở thành
một đội ngũ chó săn
trung thành với đảng,
trở thành một đám kiêu
binh hơn cả thời phong
kiến? Chắc chắn rằng hào
quang chủ nghĩa, lời dạy
sống chiến đấu học tập
theo gương của Hồ chủ
tịch không thể và không
c̣n "ăn" bằng những khúc
xương gói bằng tiền. Mất
nó, đảng mất sẽ mất đi
thành tŕ chuyên chính
bảo vệ đảng.
Đảng có một đội ngũ vừa
là đảng viên vừa là tư
bản đỏ, kết quả con đẻ
của sự ăn nằm chung chạ
giữa chính sách kinh tế
thị trường định hướng xă
hội chủ nghĩa và tập
đoàn doanh nghiệp nhà
nước. Đội ngũ này với
những đặc quyền chính
trị theo thời gian đă
trở thành tập đoàn nắm
giữ lợi nhuận và từ đó
"gói thầu" luôn quyền
lực kinh tế bên cạnh
quyền lực chính trị.
Lănh đạo đảng có nhu
cầu, hay chính xác hơn
hơn là có nhiệm vụ duy
tŕ, nuôi dưỡng và làm
hài ḷng tập đoàn này.
Mất nó, Nguyễn Tấn Dũng,
Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn
Phú Trọng... đă không
ngồi ở ghế quyền lực
ngày hôm nay.
Chưa nói đến sự nổi dậy
của quần chúng, chỉ cần
mất đi khả năng nuôi
sống, bồi dưỡng cho
những khối nhân sự nói
trên, tập đoàn thiểu số
sẽ mất đi vai tṛ cai
trị và đảng sẽ tan ră.
Ngày hôm nay, tập đoàn
thiểu số thống trị và
đảng cộng sản Việt Nam
đang đứng bên lề nguy cơ
tan ră đó. Nguy cơ đó
mang tên
"lạm phát và suy sụp
kinh tế".
*
Gần 20 năm qua có thể
nói là thời kỳ làm giàu
vàng son của các đảng
viên đảng cộng sản nhờ
vào những
"cái ǵ" đă được
tung hê đem bán, cho
thuê, khai thác. Người
dân Việt Nam không ít
th́ nhiều cũng "quá
giang" được phần nào
chuyến xe làm giàu dựa
vào vốn liếng tài nguyên
này. Một số giàu theo
nhờ vào sự hợp tác với
quan chức đảng viên. Một
số giàu theo nhờ vào khả
năng thích ứng vượt trội
so với đại số quần chúng
khác khi đi từ giai đoạn
ngăn sông cấm chợ và bao
cấp sang thời kỳ kinh tế
thị trường hoang dă. Bên
cạnh những bất công,
khoảng cách giàu nghèo
gia tăng, đạo đức xă hội
gần như phá sản, đời
sống người dân trên bề
nổi có phần khởi sắc nhờ
vào kết quả các công
tŕnh xây dựng vốn là cơ
hội và lư cớ để cán bộ
rút ruột, tham ô làm
giàu. Tất cả tạo nên một
cảm giác thỏa măn và
phong cách sống mới của
giai đoạn vơ vét và đua
nhau làm giàu bằng mọi
giá.
Dấu hiệu x́ hơi đầu tiên
của trái bong bóng làm
giàu căng ph́nh này là
sự vỡ nợ khủng khiếp của
Vinashin. Hệ lụy nhiều
năm của những sai trái
được phơi bày ra ánh
sáng với con số nợ 86
ngh́n tỷ đồng tức 4,41
tỷ USD. Cộng thêm với sự
cố Quốc Hội bác dự án
Đường sắt cao tốc 55 tỷ
USD, nó là điểm báo đầu
tiên cho thời kỳ làm
giàu vô tội vạ đă qua.
Đă qua không phải là v́
đảng cộng sản thức tỉnh.
Đă qua là v́ đảng cộng
sản xài và rút quá vốn,
đă bước từ thời kỳ
"bán để làm giàu"
sang giai đoạn vỡ nợ v́
"vay trước để làm giàu".
Giai đoạn vỡ nợ này cũng
là kết quả của quá tŕnh
nhập siêu, rút ruột,
tham nhũng, đầu tư bừa
băi cốt để vơ vét dẫn
đến t́nh trạng ngân sách
quốc gia thiếu hụt giống
như h́nh ảnh một cửa
hàng mậu dịch thời bao
cấp. Bây giờ, lấy ǵ để
nuôi dưỡng, để tiếp tục
duy tŕ ḷng trung thành
của hơn 3 triệu đảng
viên, của quân đội trung
với đảng, của công an
c̣n đảng c̣n ḿnh, của
tập đoàn tư bản xanh mặt
đỏ ḷng? Cách giải
quyết: in thêm tiền để
trám vào khoảng trống
ngân sách của đảng. Hệ
quả: lạm phát phi mă xảy
ra và nền kinh tế đă suy
sụp lại càng thêm suy
sụp.
Một lần nữa, một đất
nước không có chính sách
phát triển đúng đắn,
không có một đội quân
kinh tế có đủ kiến thức
và kỹ năng, không có một
tập thể lănh đạo kinh tế
giỏi, không có một cấu
trúc hạ tầng lẫn thượng
tầng lành mạnh, th́ lấy
ǵ để thoát được bế tắc,
khủng hoảng?
Câu trả lời rất đơn
giản, đó là: tiếp tục
cho thuê, sang nhượng
hoặc bán nốt những ǵ có
thể.
Nhưng c̣n ǵ để bán,
sang nhượng, đổi chác để
nuôi dưỡng guồng máy và
bảo vệ những chiếc ghế
quyền lực? Tây Nguyên đă
đóng bùn bô xít. Giao
kèo khai thác Rừng đầu
nguồn mực kư đă khô. 90%
tổng thầu EDP đă gói
trọn cúng cho anh cả
phía Bắc. C̣n ǵ?
Cả Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng của chính phủ, Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng
của đảng, Thứ trưởng
chức trung quyền lớn
Nguyễn Chí Vịnh của quân
đội, cùng nh́n về một
hướng; Hồ Cẩm Đào, Đới
Bỉnh Quốc cũng chỉ về
một nơi:
biển Nam Trung Hoa
- họ cùng nhau gọi như
thế trong những giao
kèo. Ở đó là một vùng
bao la c̣n rất nhiều thứ
để bán và để mua.
*
Biển Đông. Món
hàng c̣n lại để đổi chác
trước khi Việt Nam từng
bước âm thầm, lặng lẽ
trở thành một Tân Cương,
Tây Tạng thứ hai của Đại
Hán.
Thà làm quỷ phương Bắc
để làm vương nước Nam
là câu kết của bài ca nô
lệ mà Nguyễn Phú Trọng
sẽ cất tiếng hát ở sân
khấu đèn màu Bắc Kinh.
Bài ca đó đă được mở màn
dạo trước bởi Nguyễn Chí
Vịnh, Ngô Xuân Lịch,
Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn
Thiện Nhân bằng những
điệp khúc
"khẳng định mong muốn
trước sau như một",
"nguyện ghi nhớ và trân
trọng sự giúp đỡ to lớn
chí t́nh chí nghĩa", "có
c̣n ai hơn một nước
Trung Quốc Xă hội chủ
nghĩa láng giềng"...
Biển Đông. Lối
thoát của chế độ và nước
cờ cuối cùng để bảo vệ
ghế quyền lực của thiểu
số lănh đạo trước sự vỡ
nợ của Vinashin, t́nh
trạng phá sản của các
tập đoàn doanh nghiệp,
và nguy cơ lạm phát bùng
nổ dẫn đến bất ổn chính
trị và sụp đổ của chế
độ. Nó là đ̣i hỏi của bộ
máy đảng, quân đội, công
an phải tiếp tục được
nuôi béo. Nó là yêu cầu
của tập đoàn tư bản đỏ
với cơn khát làm giàu
không bao giờ đủ, và nhu
cầu rút ruột công tŕnh,
ăn chận ngân sách đă trở
thành cơn ghiền thuốc
phiện.
Và đó là sứ mạng sinh tử
cho chuyến đi sứ Tàu của
Tổng bí thư đảng CSVN
Nguyễn Phú Trọng. Một
chuyến đi buôn mua lấy
sự sống c̣n của tập đoàn
cai trị CSVN.
*
Nh́n lại suốt một giai
đoạn "trước sau như một"
khấu đầu làm nô lệ với
mục tiêu bảo vệ quyền
lực và làm giàu của đảng
cộng sản Việt Nam để
không có những ảo tưởng
"v́ quyền lợi dân tộc"
của đảng CSVN và kết quả
ǵ có lợi cho dân tộc về
chuyến triều cống của
ông TBT đảng CSVN -
Nguyễn Phú Trọng.
Nh́n lại để cho dù rằng
có lúc người dân chúng
ta phải thốt lên
"sao hèn vậy ta!"
hay
"cực kỳ hèn!" nhưng
thực sự những kẻ nắm
quyền bản chất không chỉ
có hèn. Chính xác hơn,
hèn đă bị xóa mất trong
tự điển của họ. Ở họ,
chỉ c̣n lại, và duy nhất
một hiện hữu đă trở
thành bản chất:
sự ham mê quyền lực đến
mức sẵn sàng bán hết tất
cả. Gia tài của tổ tiên,
danh dự của đất nước,
độc lập của dân tộc...
họ sẵn sàng bán hết.
Nh́n lại để hiểu rằng
tại sao cú đạp của vào
mặt người biểu t́nh
không chỉ là cú đạp của
một công an mà là bàn
chân của một tập đoàn
bán nước. Họ không bao
giờ chấp nhận bất kỳ ai
tố giác, phản đối, ngăn
cản cuộc mua bán này của
họ bởi v́ đó là sự sống
c̣n cho quyền lực cai
trị của họ. Và điều này
đă không chỉ mới xảy ra.
Nó đă xảy ra vào 1 giờ
trưa ngày 3 tháng 9 năm
1990 khi Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh và Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng
Đỗ Mười gặp Tổng Bí thư
Giang Trạch Dân và Thủ
tướng Lư Bằng của Trung
Quốc tại Thành Đô, Tứ
Xuyên - mở đầu cho thời
kỳ nô lệ Bắc Thuộc mới,
kéo dài cho đến ngày hôm
nay và sang đến tương
lai - một tương lai vô
cùng đen tối cho dân tộc
Việt Nam.
Vũ Đông Hà
Nguồn: Dân Làm Báo
<<trở về đầu trang>>