Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Tưởng niệm Cụ Trần Văn Hương nhân sĩ suốt đời giữ tiết tháo
Hứa Hoành
"Tôi xin phép
từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu
ǵ tôi cũng đă là người lănh đạo miền Nam, trong khi
binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ v́ thừa lịnh của
chúng tôi, mà giờ đây vẫn c̣n bị giam cầm trong các
trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lư
ǵ, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền
công dân trước..."
(Lời cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trả lời một cán
bộ CS, khi họ đến nhà định làm lễ, quay phim "trả
quyền công dân cho ông").
Hàng năm, cứ đến ngày oan trái 30 - 4, tôi lại bâng
khuâng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ
đă bỏ ḿnh v́ nước. Làm tướng giữ thành,
thành mất, tuẫn tiết theo thành, ngày xưa có Tổng
đốc Hoàng Diệu (1828 - 1882), Tổng đốc Nguyễn Tri
Phương (1800 - 1873)... Ngày nay có Thiếu tướng
Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Thiếu tá
quận trưởng Bồng Sơn Hoàng Lê Cương (1972) và hàng
trăm ngàn chiến sĩ vô danh khác, đătự sát để giữ
tṛn khí tiết, không để lọt vào tay kẻ thù làm nhục.
Họ nêu những gương hy sinh cao quư, tiết liệt, lịch
sử ghi nhớ muôn đời.
Hai mươi năm chiến tranh, một cuộc chiến tranh vệ
quốc sáng ngời chính nghĩa quân dân miền Nam đă hy
sinh hàng triệu người, chỉ v́ muốn bảo vệ một lư
tưởng "Độc lập, tự dỏ và không muốn đất nước rơi vào
tay CS. Nhưng cuối cùng phải thất bại trong nỗi uất
hận, nghẹn ngào.
Năm nay, nhân ngày tang tóc đau thương của toàn thể
dân tộc Việt Nam, chúng tôi muốn nhắc lại với thế hệ
mới lớn lên, về những cái chết oai hùng. Trong phạm
vi bài nầy, chúng tôi kể lại những ngày sau cùng của
một chính khách thanh liêm, cương trực, suốt đời giữ
được tiết tháo và ḷng yêu nước: người đó là cụ Trần
Văn Hương, hai lần làm đô trưởng Sàig̣n, hai lần làm
thủ tướng và Phó Tổng Thống, và cuối cùng là Tổng
Thống Việt Nam Cộng Ḥa chỉ được 3 ngày.
Cụ Hương
mất đi không một lời cáo phó. Cụ mất, nhưng gương hi
sinh và thái độ sống của người quân tử mà cụ nêu
gương không bao giờ mất. Tuy là
người đồng hương, v́ nhà tôi ở chỉ cách nhà người
chị ruột của cụ Trần Văn Hương chừng 300 mét, trên
đường Văn Thánh (tức Văn Thánh miếu thờ Đức Khổng Tử
và cụ Phan Thanh Giản) tại Vĩnh Long. Là thế hệ sau,
thuộc hàng con cháu, nên tôi
không được quen biết với cụ. Tháng Hai năm 1975, tôi
là thành viên của một phái đoàn vận động thành lập
Viện Đại học Long Hồ cho 3 tỉnh Vĩnh Long Kiến Phong
và Vĩnh B́nh, có đến tư thất của cụ ở đường Phan
Thanh Giản Sàig̣n, để yết kiến và xin cụ giúp đợ
Tháng 3 năm 1975, cụ với tư cách là Phó Tổng Thống,
có đến tại hội trường thuộc trường Sư Phạm (cao
đẳng) Vĩnh Long, để chứng kiến lễ chấp nhận thành
lập Viện Đại Học Long Hồ, do Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia
Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh kư trước mặt cụ. Mặc dầu rất
nhiều lần giữ những địa vị cao trong chính trường
miền Nam, nhưng cụ Trần Văn Hương là một người có
đời sống giản dị, mẫu mực, thanh liêm không bất cứ
một ai có thể mua chuộc được. Khi thôi việc, cụ
Hương sống cuộc đời chật vật nhưng vẫn giữ được tư
cách.
Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu,
nay thuộc quận Châu Thành Vĩnh Long, trong một gia
đ́nh nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia
đ́nh, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học
trường Cao đẳng Sư Phạm... Sau khi tốt nghiệp, ông
giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Le
Myrle de Vilers Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà
ông đătheo học mấy năm trước. Thời gian từ năm 1943
- 1945, ông Hương là giáo sư dạy môn văn chương và
luân lư tại trường nầy. Sau đó ông Hương được đổi
lên làm Đốc học tỉnh Tây Ninh.
Năm 1945, Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền khắp 3
kỳ, nhóm Việt Minh mới của Trần Văn Giàu (chủ tịch
Ủy ban hành chánh Nam bộ) cử cụ làm chủ tịch Ủy ban
hành chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với Việt Minh
được mấy tháng, thấy họ không thành thật, và theo
con đường bá đạo, nên ông Hương từ chức. Tuy vậy cụ
vẫn c̣n đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Khi thấy bộ
mặt thật của Việt Minh là CS, t́m cách khủng bố, ám
sát thủ tiêu những người yêu nước có tinh thần quốc
gia, cụ bỏ về thành. Ban đầu cụ bán thuốc tây cho
nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan (Pharmacy Kim
Quan) ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành bây giờ).
Theo tài liệu của t́nh báo Mỹ, ông Hương có hai
người con: Trần Văn Dinh và Trần Văn Doi (Giỏỉ). Hồi
c̣n theo học trường "College de Can Thơ" kháng chiến
nổi lên, Doi bỏ học theo kháng chiến. Khi phái đoàn
Hồ Chí Minh qua Pháp cùng một lúc với hội nghị
Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Doi theo
xuống tàu ra Bắc. Từ đó hai cha con không bao giờ
gặp nhau nữa. Ông Huỳnh Văn Lang, cựu Tổng giám đốc
Viện Hối Đoái dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cho
biết "Ông Trần Văn Giỏi (không phải Dơi) ở tại
Sàig̣n, bên cạnh ông Hương như một người cố vấn."
Năm 1964, ông Hương làm Thủ tướng chính phủ, t́nh
báo Mỹ có đem lại một hồ sơ cho biết cụ có người con
theo CS. Cụ Hương thẳng thắn nh́n nhận và cho biết
từ đó cho đến nay, cụ không c̣n liên lạc ǵ với
người con đó hết. Khi cụ tham chính, th́ ngụi con
lớn là Trần Văn Doi ở kế cận đóng vai người cố vấn
thân tín.
Tháng 7 - 1967, ông cùng với ông Mai Thọ Truyền, ra
ứng cử chức Tổng Thống chỉ được 10% số phiếu, về
hạng tư. Tháng 5 - 1986, ông được Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu mời làm Thủ Tướng, thay thế Thủ Tướng
Nguyễn Văn Lộc. Trong nhiệm kỳ Tổng Thống 1971 - 75,
ông Trần Văn Hương làm phó tổng thống, và khi ông
Thiệu từ chức tổng thống giữa lúc t́nh thế đất nước
lâm nguy,ông Hương được đôn lên làm tổng thống dùng
theo hiếp pháp.
Các chi tiết về cuộc đời của cụ Trần Văn Hương trong
những ngày tháng cuối cùng, được bà Phan Cẩm Anh
cùng chồng là bác sĩ, người có dịp gần gũi với cụ
Hương kể lại. Tôi được phép chỉ để trích một phần
lớn trong bài ấy: "Hương trà năm cũ" trong bài viết
để đồng bào, đồng hương có dịp biết thêm về nhiều
chi tiết cảm động của một kẻ sĩ thế hệ cũ c̣n sốt
lại. Kính xin anh chị Phan Cẩm Anh thể nhận nơi đây
ḷng biết ơn của tác giả.
"... Nhiều năm trước, khi tôi học trung học, một
buổi tối sau khi dùng cơm, chị tôi dẫn tôi đến phủ
"cây tùng" để thăm Mai Hương, một người bạn cùng
"khóa I Nữ quân nhân" của chị, bây giờ vừa lập gia
đ́nh với đại úy Phan Hữu Chương, cháu ruột cụ Trần
Văn Hương. Ba chị em đứng tṛ chuyện dưới táng cây
của phủ phó tổng thống. Th́nh ĺnh, cụ Hương từ
trong nhà bước ra, nh́n về phía chúng tôi, gật đầu,
rồi đưa tay ra hiệu bảo Mai Hương theo cụ vào trong
phủ. Khi trở ra, Mai Hương lè lưỡi nói với chị tôi:
- Ông cụ vừa mới la.
- La về chuyện ǵ vậy?
- Ông cụ nói: "Sao không mời bạn bè vào pḥng khách
nói chuyện đàng hoàng mà để bạn đứng dưới gốc cây.
Ông cụ nói tiếp: "Tiếp bạn đến chơi như vậy là không
trọng bạn chút nào hết."
Đó lần đầu tiên tôi thấy cụ Hương, nhưng nghe thuật
lại những lời cụ trách, ḷng tôi tự nhiên nhen nhúm
một cảm t́nh đầy quư trọng. Sau đó, tôi có dịp trở
lại phủ phó tổng thống vài lần lúc Mai Hương sắp vào
nhà bảo sanh. V́ lẽ phu quân Mai Hương bận công vụ,
nên Mai Hương cho tài xế đến nhờ tôi và em gái tôi
giúp đưa Mai Hương vô bịnh viện. Tất cả những lần
đó, tôi chẳng có dịp nào giáp mặt cụ Hương.
Thời gian trôi qua, miền Nam sụp đổ, Dương Văn Minh
ra lịnh đầu hàng. Ngay buổi sáng sớm ngày đầu mất
nước, tại ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất trong ngơ
hẻm ngăn đường Phan Thanh Giản, thân nhân sống trong
biệt thự này đă đau đớn đem đặt giữa nhà hai xác
người cùng nhau t́m cái chết. Họ vừa chia nhau ống
thuốc ngủ đêm qua. Đó là đại úy Phan Hữu Chương và
vợ là cựu trung úy Trần Mai Hương. Họ để lại vỏn vẹn
vài lời trăng trối "xin nhờ ḷng tha thứ của cụ
Hương và gia đ́nh v́ không thể sống khi đất nước rơi
vào tay kẻ thù." Đôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa
con trai c̣n thơ dại, nhờ ông bà nội (em rể cụ
Hương) dưỡng nuôi. Cũng trong ngôi biệt thự bao phủ
một bầu không khí ảm đạm và im ĺm đó, nơi một căn
pḥng khác trên lầu, cụ Hương đóng cửa, im lặng,
trầm ḿnh trong nỗi đau khổ của một người đătừng
lănh đạo đất nước, bây giờ đành tâm chứng kiến giờ
phút suy vong, cảnh nhà tang chế. Nỗi đau khổ của cụ
ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được cụ hé môi thổ
lộ.
Nhưng ư định cùng chồng đi t́m cái chết của Mai
Hương, không được toại nguyện bởi lẽ một người cháu
đem Mai Hương đi cấp cứu. Sự sống của Mai Hương
đăđược các bác sĩ giành giựt lại từ đường tơ kẻ tóc.
Nhờ đó Mai Hương trở thành một chiếc cầu để tôi có
cơ hội biết thêm chút ít về cụ Trần Văn Hương trong
những ngày cuối cùng của cụ.
Nhiều lần Mai Hương dẫn tôi về lại ngôi biệt thự
trên để thăm các con của Mai Hương, hiện đang sống
nương nhờ vào ông bà nội. Tôi đăchứng kiến cảnh sống
đạm bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn, túng quẩn
của gia đ́nh cụ Hương. Cụ Hương luôn luôn sống lặng
lẽ một ḿnh trong căn pḥng nhỏ ở trên lầu.ăn pḥng
bày trí thật sơ sài, chẳng có món đồ nào được coi là
sang trọng. Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật
c̣n lại là hai chiếc ghế bành, một cái tủ đựng quần
áo đăcũ, một chiếc bàn con trên đó cụ để một tượng
Phật Di Lạc. Căn pḥng có một cửa ăn thông ra sân
thượng. Hầu cận, săn sóc cụ là người em rể của cụ mà
tôi gọi theo như Mai Hương là Dượng. Phía dưới lầu
là các gian nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo bức tường
phía trong của khuôn viên biệt thự, có lẽ trước kia
là nhà kho, bây giờ trở thành nơi tá túc qua ngày
cho các thân nhân gồm các em và cháu của cụ, v́ phải
gặp cảnh khó khăn dưới quê, t́m về Sàig̣n nương náu
trong ngôi biệt thự cũ nát mà tổng thống Thiệu đă
cấp từ thời trước.
Ngôi biệt thự nầy, trước khi cấp cho cụ Hương, tổng
thống Thiệu đă chỉ thị phải
sửa chửa, chỉnh trang lại đàng hoàng, nhưng cụ từ
chối viện lẽ cụ già rồi, không làm việc ǵ ích nước
lợi dân được nữa, nên không muốn làm hao tốn công
qũy. Do đó, đến khi CS vào, ngôi biệt thự trên chẳng
phải là mồi ngon cho cán bộ của họ tranh nhau giành
giật chiếm đoạt như các ngôi biệt thự xinh xắn khác.
Tường biệt thự nhiều nơi nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ
vở bung lên, màu vôi trải qua nhiều năm tháng vàng ố
không được trùng tu, sơn quét. H́nh ảnh cụ lúc nầy
như một con chim đại bàng sa cơ, găy cánh mà vẫn cố
giương đôi cánh mang thương tích của ḿnh để bảo bọc
chim non. Tôi được nghe kể lại cứ mỗi lần người nhà
bưng cơm lên lầu cho cụ, phần cơm rất đạm bạc, lâu
lâu mới có chút cá thịt, thân nhân muốn nhường cho
cụ để bổ dưỡng, cụ hỏi xem mọi người trong nhà có
được ăn như cụ vậy không. Mặc dầu người nhà thường
trả lời "có" cho cụ an tâm, nhưng cụ vẫn hiểu sự
thật của chữ "có" nên thường cụ để dành lại thức ăn
ngon trên mâm, hầu đem xuống nhà cho con cháu.
Có những lần tôi theo Mai Hương đến thăm ông bà nội
các con Mai Hương, lúc trở về, ra tới cánh cổng, tôi
quay đầu nh́n lên sân thượng thấy cụ Hương, ngồi yên
lặng trên đó. Ḿnh cụ để trần, mái tóc bạc trắng,
đôi mắt nh́n thẳng về phía trước không hề di động...
Tôi thấy cụ Hương ngồi trên sân thượng như vậy nhiều
lần, và những lần như vậy, trên đường đạp xe về nhà,
h́nh ảnh già nua, im lặng và cô độc của cụ cứ lẩn
quẩn măi trong đầu óc tôi.
Một hôm, có lẽ cũng vào dịp gần Tết, Mai Hương đưa
một củ sâm Đài Loan và nói với tôi:
- Bà nội sắp nhỏ biểu chị đem củ sâm nầy đi bán. Đó
là củ sâm người ta tặng cho ông cụ từ lúc ông cụ
sang Đài Loan, c̣n cất giữ măi đến bây giờ. Ông nói
chắc không dùng đến nó, nên sai đem bán lấy tiền
đong gạo cho sắp nhỏ.
Mai Hương mở gói giấy bọc củ sâm ra, củ sâm vỏn vẹn
bằng hai phần ba bàn tay, nằm giữa mấy lớp giấy gói
đăcũ. Nh́n qua, ai cũng biết củ sâm được gói kỹ
lưỡng, và bị lăng quên trong một ngăn tủ nào đó lâu
lắm rồi, nay mới được nhớ lại. Tôi nh́n củ sâm nghẹn
ngào. Một nhà giáo thanh bạch, một người lănh đạo
quốc gia trong sạch như cụ, chỉ lấy đạo đức bản thân
làm tài sản. Cụ đâu có nén vàng nào có thể đem bán
lấy tiền đong gạo cho đàn cháu, hay giúp đỡ người
thân đang tá túc trong nhà, những người đa ?37;t
nhiều liên lụy v́ các hoạt động chính trị của cụ.
Khoảng hơn một tuần sau, ông nội các cháu, tức em rể
cụ Hương, ghé lại nhà Mai Hương và tôi (lúc này Mai
Hương và tôi sống chung với nhau trong một căn nhà
nhỏ ở quận Tân B́nh) kể cho chúng tôi biết là ông
vừa làm theo ư cụ Hương: đem mấy bộ đồ veste c̣n tốt
của cụ ra chợ trời bán. Để an ủi người nhà bớt đau
ḷng, cụ Hương b́nh thản giải thích:
- Từ đây cũng đâu có dịp nào mặc nó nữa, đem bán đi
chớ để làm chi!
Số tiền bán áo trên, chẳng ở trong túi được bao lâu,
v́ ngay sau đó bà Út đi chợ mua đồ ăn cho sắp nhỏ.
Gia đ́nh cụ Hương đă chịu
chung số phận đau khổ và bi đát tột cùng từ tinh
thần đến vật chất khi miền Nam rơi vào tay CS. Có
một sự kiện làm tôi chảy nước mắt mỗi khi nhớ đến,
ḷng thêm kính mến và cảm phục cụ Hương: Trước khi
chính quyền CS cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội
(bịp) đầu tiên, cụ Hương được họ thông báo sẽ có một
buổi lễ để chính phủ trả quyền công dân cho cụ.
Sau đó, để có buổi lễ được quay phim tuyên truyền,
khi một cán bộ thay mặt chính quyền, đọc "chính
sách khoan hồng, rộng lượng" của nhà nước đối với
những "thành phần" như cụ, cụ dơng dạc nói:
- Tôi xin
phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân này.
Dù ǵ tôi cũng là người lănh đạo miền Nam, trong khi
binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ v́ thừa lịnh của
chúng tôi mà giờ đây vẫn c̣n bị giam cầm trong các
trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân trước.
Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân
này, sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đă
được nhận.
Đại diện của chính quyền CS không ngờ sự thể xảy ra
như vậy. Tức giận, họ ra lịnh cúp máy thu thanh, thu
h́nh. Vài ngày sau cụ nhận được lịnh quản thúc tại
gia 3 năm. Cụ Hương nói với người nhà:
- Bọn nó cũng
chẳng cần phải quản thúc tao. Tao già và đau yếu như
vầy, có khi nào bước chân ra khỏi nhà đâu mà cần
phải quản thúc!
Vào năm 80 tuổi, mỗi lần theo Mai Hương ghé vào thăm
ông bà nội của các cháu, tôi ít thấy cụ Hương ra
ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức
khỏe của cụ sa sút nhiều. Một hôm, em rể cụ Hương
bảo tôi:
- Ông cụ dạo nầy yếu quá. Ông lại dứt khoát không
muốn vô nhà thương khám bịnh hay chữa trị ǵ cả.
Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao rồi. Dượng muốn nhờ
Cẩm Anh có quen ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến
nhà khám bịnh giùm cho ông cụ. Nếu không th́ Dượng
chẳng yên tâm.
Nghe ông Dượng nói tôi mới nhớ, cách đó không lâu,
cụ Hương bị mệt xỉu phải đưa vô nhà thương cấp cứu.
Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định đ̣i người nhà phải đưa cụ
về ngay. Cụ
một mực từ chối, không chịu để điều trị trong bịnh
viện đă thuộc về tay chính quyền CS.
Mặc dầu có quen biết vài bác sĩ, nhưng tôi nghĩ ngay
đến nhà tôi, lúc ấy c̣n là một người bạn, v́ trong
hoàn cảnh không biết tương lai ra sao, nên chúng tôi
chưa nghĩ đến việc lập gia đ́nh. Tôi nhận lời Dượng,
hứa t́m một bác sĩ của "chế độ ḿnh" để nhờ khám
bịnh cho cụ. Khi nghe tôi tŕnh bày, nhà tôi chẳng
chút ngần ngại, vui vẻ nhận lời ngay. Lần đầu tiên
nhà tôi đến, cụ bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nh́n
mặt v́ mắt cụ đă mờ;. Cụ Hương
hỏi nhà tôi:
- Con đến đây thăm bịnh cho qua, con có sợ họ làm
khó dễ con không?
Nhà tôi trả lời:
- Thưa cụ, cháu chỉ làm bổn phận và công việc của
người thầy thuốc, cháu không ngạị
Cụ xúc động, ghé người gần lại, đưa tay ôm lấy đầu
nhà tôi. Nhà tôi tiếp:
- Thưa cụ, cháu là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh
nghiệm và kiến thức hăy c̣n ít, chữa bịnh cho cụ,
nếu có điều ǵ không biết, cháu sẽ về đọc sách lại.
Cụ Hương vui vẻ, mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay nhà
tôi như để trấn an.
Từ đó nhà tôi lui, tới với cụ thường xuyên để thăm
bịnh cụ. Dường như việc trị bịnh đối với cụ chẳng có
ǵ quan trọng, cụ không quan tâm lắm, mặc dầu cụ
luôn luôn là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng
những lời dặn của bác sĩ. Điều làm cho cụ vui và
thoải mái hơn có lẽ là có người để cụ nói chuyện. Do
đó, nhà tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau
khi khám bịnh. Cụ nói thuốc men cụ dùng hàng ngày là
do bà Trần Văn Văn và bạn bè ở Pháp gởi về tặng cụ.
Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa cho người
em rể cụ đem ra chợ trời bán, lấy tiền chia đều cho
gia đ́nh con cháu đong gạo. Một hôm cụ kể cho nhà
tôi nghe một câu chuyện rất cảm động như sau:
- Con biết không, chú có thằng em đến thăm (cụ xưng
chú với nhà tôi, khi biết thân phụ nhà tôi lớn hơn
cụ vài tuổi) nó đem đến một hộp sữa ḅ c̣n tặng chú
5 đồng (lúc mới đổi tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1 đồng
tiền mới). Chú thương nó có t́nh, nhưng nghĩ nó phải
đạp xích lô cực khổ để sinh sống, nên chú không nỡ
lấy. Nhưng nếu chú không nhận th́ "sợ nỏ buồn tội
nghiệp", nên chú chỉ nhận có 5 đồng, c̣n hộp sữa th́
bảo nó đem về cho gia đ́nh (lúc ấy sữa rất khó mua).
Người mà cụ kể là "thằng em" một cách thân mật chính
là thuộc hạ cũ của cụ.
Cụ Hương c̣n tâm sự với nhà tôi những chuyện lúc cụ
c̣n trẻ. Có một thời gian cụ cùng với một người con
trai (Trần Văn Doi) theo hoạt động cho Việt Minh
chống Pháp. Nhưng khi nhận ra bộ mặt thật của Việt
Minh, cụ dứt khoát trở về lại trong Nam và mất liên
lạc với người con trai từ lúc ấy. Người con trai nầy
đă ở lại miền Bắc, và phục vụ trong quân đội CS. Sau
khi Sàig̣n bị chiếm, anh có về thăm cụ với vợ là một
bác sĩ VC. Có lẽ sự lui tới của cặp vợ chồng nầy
cũng nhằm mục đích theo dơi cụ.
Cụ Hương cũng có một người con khác đang sinh sống
tại California. Anh có một đứa con bị bịnh
Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa trị trước năm
1975. Đă nhiều lần anh muốn
bảo lănh cụ ra nước ngoài, nhưng cụ nói với nhà tôi:
- Trước kia
đại sứ Martin năn nỉ, yêu cầu chú đi, chú
đă từ chối. Bây giờ đời nào
chú lại xin chính quyền CS để được đi.
Những lần đi thăm bịnh sau của nhà tôi, cụ tâm sự
nhiều hơn về những vụ buồn trong cuộc đời tham chính
của cụ. Cụ luôn nhắc đến tên của những người mà cụ
đặc biệt quư mến như bác sĩ Bạch Đ́nh Minh. Cụ ngậm
ngùi kể:
- Bác sĩ Minh là một người mà chú rất quư trọng. Hồi
trước chú thấy bác sĩ Minh đi khám bịnh mà không có
đồng hồ đeo tay. Chú mua tặng cho bác sĩ Minh một
cái, nhưng đeo được vài tuần, bác sĩ Minh đem trả
lại chú. Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân đội
hết ḷng tận tụy và giàu tinh thần trách nhiệm, chú
đề nghị lên tổng thống Thiệu tưởng thưởng "Bảo quốc
huân chương" cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối
không nhận viện lẽ ông đang làm việc ở chỗ an toàn,
xin dành huy chương ấy cho những người xả thân chiến
đấu, hy sinh xương máu cho đất nước. Một lần khác cụ
hỏi nhà tôi:
- Con có biết bác sĩ Trần Lữ Y không?
Nhà tôi thưa:
- Bác sĩ Trần Lữ Y dạy con môn Nội Khoa ở trường Y
khoa.
Cụ Hương tâm sự:
- Hồi trước bác sĩ Hoa Kỳ sang đây khám bịnh cho chú,
họ đề nghị đưa chú sang Hoa Kỳ chữa bịnh. Thằng Trần
Lữ Y đi theo chú, xin lỗi con, chú gọi bác sĩ Trần
Lữ Y bằng "thằng", v́ chú thương nó như con chú vậy.
Khi máy bay ghé Manille, suốt mấy hôm chú ăn không
nổi đồ ăn của họ, nên bác sĩ Trần Lữ Y phải ra phố
kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú nghe có
người nói bác sĩ Trần Lữ Y qua đời bên Pháp v́ bịnh
ung thư, có đúng như vậy không?
Nói tới đây, cụ im lặng hồi lâu như nén sự xúc động.
Mấy tuần sau, nhà tôi được tin bác sĩ Trần Lữ Y vẫn
c̣n khỏe mạnh ở bên Pháp và có pḥng mạch tư, gần
với pḥng mạch của bác sĩ Phạm Tu Chính. Nhà tôi vội
vàng ghé lại thăm và nói cho cụ Hương biết tin thật
về bác sĩ Trần Lữ Ỵ. Nghe xong,
cụ Hương nắm lấy tay nhà tôi mà chẳng nói ǵ. Hai
gịng nước mắt từ từ lăn trên má cụ.
Mặc dầu sức khỏe cụ Hương lúc đó đă
sa sút nhiều, đi đứng khó khăn, dầu chỉ vài
bước cũng cần cây gậy. Bên cạnh giường ngủ có gắn
một cái chuông điện, trên bàn luôn có một cái chuông
nhỏ để khi cần người nhà, cụ lắc bằng tay. Nhà tôi
thán phục cụ có trí nhớ đặc biệt. Cụ có thể nhớ
nguyên văn câu nói của từng người, ngày tháng, giờ
giấc của sự kiện đă xảy ra. Cụ
không quên từng chi tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ với
nhà tôi rằng:
- Chú nghĩ
người làm chính trị phải có giáo dục và đạo đức. Khi
tham chính tất nhiên chú chấp nhận có phe đối lập,
nhưng dầu khác lập trường, chú vẫn luôn luôn tôn
trọng họ. Có một dân biểu trẻ tên là (xin giấu tên),
trong một buổi họp quốc hội, đă đứng lên đập bàn,
chỉ vào mặt chú nói những lời vô lễ (xin không ghi
lại câu vô lễ nầy)... V́ dân biểu nầy đáng con chú.
Chú buồn và tiếc cho người làm dân biểu mà không
biết đến chữ "lễ", không tỏ ra có tư cách của người
học thức, chớ không buồn về lập trường đối lập của
họ.
Một hôm đến thăm cụ, nhà tôi thố lộ với cụ
rằng "sớm muộn ǵ con cũng phải ra đi". Chuyện ra đi
không biết khi nào mới thành công, nhưng không bao
giờ con bỏ ư định đó. Chẳng phải v́ miếng cơm manh
áo, hay sự cực khổ mà phải bỏ quê hương. Nhưng v́
cuộc sống lúc nào cũng thấy bị đe dọa, thiếu an toàn,
ngủ một đêm thức dậy có thể bị bắt v́ bất cứ một lư
do viển vông nào. Nghe nhà tôi nói, cụ Hương trầm
ngâm một hồi lâu mà không nói ǵ. Măi một lúc sau,
cụ thở dài chép miệng:
- Có lẽ chú làm không đúng khi ra lịnh ngăn người ta
ra khỏi nước trong những ngày hỗn loạn.
Lúc nhà tôi từ giă cụ ra về,
cụ ôm hôn nhà tôi và nói:
- Chú gặp con muộn quá!
Vào tháng 4 - 1981, tôi đạp xe đưa nhà tôi đi vượt
biên lần thứ 13. Trước khi đi, nhà tôi có đến thăm
cụ lần cuối. Biết cụ rất buồn, nhưng cụ giấu kín
t́nh cảm để người đi bớt vướng víu. Một tháng sau đó,
tôi cũng rời Việt Nam đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia
đ́nh do anh chị tôi bảo lănh. Một ngày trước khi đi,
tôi đạp xe trở lại đường Phan Thanh Giản, đứng một
ḿnh bên chiếc cổng sắt. Giữa một niềm vui khi sắp
sửa thoát khỏi cảnh đời vô vọng, tăm tối, và một nỗi
buồn khi biết rằng ḿnh sẽ mất bao nhiêu gắn bó thân
thuộc khi ĺa khỏi nơi đây. Cụ Hương vẫn là h́nh ảnh
làm cho ḷng tôi se thắt, là một cánh sen nổi trên
ḍng nước đang giao động của tâm hồn tôi.
Dưới đây là hai mẩu chuyện được nhắc lại như một
giai thoại. Hồi tháng 4 năm 1954, khi có sự vụ lịnh
của thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm bổ nhiệm cụ Hương làm đô
trưởng Sàig̣n - Chợlớn, th́ cụ đi làm việc hàng ngày
bằng chiếc xe đạp Alcyon. Khi vô ṭa đô chính nhận
việc, người lính gác cổng chận lại và không cho cụ
vô. Cụ phải nói thật "Tôi là Đô Trưởng" họ cũng
không tin. Cụ phải tŕnh sự vụ lịnh mới được bổ
nhiệm, người lính mới hoảng hồn, định chắp tay lạy
cụ, nhưng cụ từ tốn, an ủi mấy câu, rồi dẫn xe đạp
vô làm việc. Khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bịnh
(1964), hàng tháng chính phủ trả phủ cấp thêm 10.000
đồng, nhưng cụ từ chối, gởi trả lại công quỹ, v́ cụ
nói "không có chuyện ǵ cần phải xài."
Nhắc lại về thái độ của cụ Trần Văn Hương trong
những ngày đen tối của đất nước chúng tôi thấy có
hai sự kiện đáng ghi nhớ:
Cuốn hồi kư "Saigon et moi" của cựu đại sứ Pháp tại
Việt Nam, ông Mérillon kể lại: "Măi tới tối 18 - 4 -
1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới cho ông (Mérillon)
hay rằng Hoa Kỳ sẽ buông VN." Đại sứ Martin nói:
- Từ giờ phút này nước Pháp sẽ đảm nhận vai tṛ tái
lập ḥa b́nh cho VN.
Mérillon chuyển lời nói nầy cho Phó Tổng Thống Trần
Văn Hương. Ông Hương nói:
- Ông Đại sứ
à! Tui đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn đánh, tui đánh
tới cùng. Tui không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời
hại nước tui, tui xin thề ở lại và mất theo nước này.
Đến ngày mất nước, đại sứ Martin c̣n đến gặp cụ
Hương và nói:
- Ngài đi với
tôi sang Mỹ Chánh phủ Mỹ sẽ nuôi dưỡng Ngài suốt đời,
tôi nhân danh chánh phủ Hoa Kỳ đến mời Tổng Thống ra
khỏi nước với bất cứ phương tiện nào mà ngài muốn.
Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời
sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho tới ngày
Tổng Thống măn phần.
Cụ Trần Văn Hương mỉm cười, trả lời (tiếng Pháp):
- Thưa ngài
đại sứ, tôi biết t́nh trạng hiện nay rất là nguy
hiểm. Đă đến nỗi như vậy, Mỹ
cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại Sứ
đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Đại sứ.
Nhưng tôi đăsuy nghĩ kỹ và quyết định dứt khoát ở
lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng CS vào được
Saigon, th́ bao nhiêu đau khổ, nhục nhă sẽ trút
xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lănh đạo
đứng hàng đầu của họ, tôi t́nh nguyện ở lại chia xẻ
một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ
của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại Sứ
đă đến thăm tôi.
Tới đây, tôi
lại nhớ đến liêm sỉ và tiết tháo của một người lănh
đạo Cam Bốt, một nước láng giềng mà dân ta thường
hay có thái độ coi thường. Đó là ông hoàng Sirik
Matak, Phó Thủ Tướng Cam Bốt. Cũng tháng 4 định mệnh
ấy (1975) khi quân Khmer đỏ sắp tràn ngập Phnom
Penh, Đại Sứ Mỹ tại đây là John Gunther Dean đến mời
hoàng thân Sirik Matak lưu vong qua Mỹ. ông Sirik
Matak từ chối và trả lời bằng thư sau:
"Thưa Ngài và bạn thân (Excellence et Cher Ami)
Tôi rất thành thật cám ơn Ngài về cái thơ và đề nghị
giúp đỡ của Ngài đưa chúng tôi đến nơi tự do, nhưng
tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế.
Về phần Ngài và quốc gia to lớn của Ngài, tôi không
bao giờ ngờ rằng Ngài sẽ bỏ rơi một dân tộc đăchọn
tự dọ. Quư Ngài đă từ chối bảo vệ chúng tôi, chúng
tôi không làm sao được. Ngài ra đi và tôi chúc cho
Ngài và quốc gia của Ngài t́m được hạnh phúc dưới
bầu trời của quư ngài.
Nếu tôi chết ở đây trong nước tôi mà tôi yêu, th́
thôi mặc, bởi v́ tất cả chúng ta đă
được sanh ra để rồi một ngày nào đó th́ chết.
Tôi chỉ có làm một lỗi lầm là đa ? nơi Ngài và tin
nơi những người Hoa Kỳ
Xin Ngài và bạn thân, nhận nơi đây những cảm t́nh
trung thực và thân ái của tôi.
Sirik Matak,
Theo lời người dịch, thư này sau mấy năm, có lần
được đọc trong một phiên họp Quốc hội Hoa Kỳ, và
được lưu giữ trong văn khố Quốc Hộị (Trích bài biết
của BS Nguyễn Lưu Viên, tập san Y Tế số III, tháng 3
năm 1998).
Hứa Hoành