|
Luật sư Nguyễn Văn Đài
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2011
Thưa Quí vị,
Ls. Nguyễn Văn Đài |
Mỗi năm khi đến ngày
quốc tế nhân quyền,
người ta thường nhắc đến
và tôn vinh những người
đấu tranh cho nhân
quyền, những người tù
lương tâm đang bị giam
giữ trong các nhà tù.
Trong bài viết và cũng
là lá thư này, tôi nhắc
đến vợ, con, bố mẹ của
những người tù lương tâm
ở Việt Nam. Tại sao tôi
gọi họ là những người tù
lương tâm bởi những ǵ
họ nói, họ viết, họ làm
đều xuất phát từ lương
tâm và trách nhiệm của
họ với nhân dân và đất
nước. Họ không có các
mục đích cá nhân hay mục
đích chính trị trong lời
nói, bài viết hay việc
làm của họ. Những ǵ họ
nói, họ viết, họ làm đều
là các quyền con người
về chính trị được ghi
nhận trong Hiến pháp
Việt Nam năm 1992. Được
Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính
trị ghi nhận và bảo vệ.
Được chính phủ Việt Nam
thường xuyên tuyên bố
tôn trọng và bảo đảm
thực thi trong cuộc
sống.
Người đầu tiên tôi muốn
nhắc tới là chị Thu
Trang, vợ của người tù
lương tâm Phạm Văn Trội.
Từ khi chồng bị bắt,
gánh nặng của cả gia
đ́nh đặt lên đôi vai của
chị. Hàng ngày phải đi
làm, vừa đi và về hơn 40
km. Nuôi hai con c̣n
nhỏ, đứa lớn chưa đầy 10
tuổi, đứa nhỏ 4 tuổi,
c̣n người mẹ chồng hơn
80 tuổi, đau ốm thường
xuyên. Hàng tháng chị
vẫn phải thăm nuôi người
chồng bị giam cầm ở nhà
tù Nam Hà. Vài tháng một
lần chị phải chở hai con
nhỏ bằng xe gắn máy vượt
chặng đường hàng chục km
để đưa con đến thăm cha.
Khi tôi gặp chị, sâu
thẳm bên trong là nỗi
buồn của người phụ nữ xa
chồng, nhưng ánh mắt chị
vấn toát lên nghị lực,
niềm tin để tiếp tục
chăm sóc con nhỏ, mẹ già
chờ ngày người chồng yêu
thương trở về. Hai đứa
trẻ tuy thiếu vắng sự
chăm sóc của người cha,
nhưng chúng rất ngoan và
nghe lời mẹ. Chúng không
bị mặc cảm mà trái lại
rất tự hào về người cha
của ḿnh. Chị và cậu con
trai đă từng tham gia
biểu t́nh chống giặc
ngoại xâm, cả hai mẹ con
bị bắt, bị bỏ đói. Nhưng
họ đều không sợ hăi bởi
họ tin vào những ǵ
người chồng, người cha
của họ đă làm là đúng
đắn. Và họ chỉ góp một
phần nhỏ bé của ḿnh vào
điều đó mà thôi. Người
mẹ già hơn 80 tuổi, ngày
đêm mong ngóng con trai
trở về để chăm sóc bà
những ngày tháng cuối
đời. Nước mắt của bà cụ
đă cạn khô, chỉ c̣n lại
tiếng sụt sùi khi nói
chuyện với tôi về người
con trai của cụ.
Người thứ hai tôi muốn
nhắc đến là chị Nguyễn
Thị Lành, vợ của mục sư,
người tù lương tâm
Nguyễn Trung Tôn. Gia
đ́nh mục sư Tôn ở một
vùng quê nghèo của tỉnh
Thanh Hóa. Từ khi ông bị
bắt, việc nuôi dưỡng,
chăm sóc ba con nhỏ và
bố mẹ già tuổi trên 80
đặt trên vai chị Lành.
Chị phải vừa làm việc
ruộng, vừa chạy chợ buôn
bán vất vả để nuôi con,
nuôi bố mẹ chồng, và
hàng tháng phải tới thăm
nuôi chồng bị giam ở
Nghệ An. Những lúc con
cái, bố mẹ chồng ốm đau,
chị phải gồng ḿnh để
vừa chăm sóc người ốm,
vừa chạy chợ kiếm tiền.
Nhưng chị vẫn tin tưởng
và hết ḷng ủng hộ cho
chồng mà không chút oán
trách. Bố của mục sư
Nguyễn Trung Tôn đă gọi
điện cho tôi, cụ nói: “
Thằng Tôn có tội t́nh ǵ
đâu mà người ta giam cầm
nó, ông già yếu quá rồi,
ông mong nó trở về để nó
nh́n thấy ông lần cuối,
và ông cũng thấy nó lần
cuối trước khi ông trở
về với Chúa. Con ơi! Hăy
cầu nguyện Chúa cùng ông
để Chúa sớm đưa nó trở
về.” Tôi đă cầu nguyện
cùng ông với hai hàng
nước mắt.
Người thứ ba tôi muốn
nhắc đến là chị A mi
Hiêm, người phụ nữ dân
tộc Ê Đê. Chị cũng như
trên một trăm người phụ
nữ Ê Đê, Gia Rai, Ba Na
khác. Họ là vợ của những
người tù lương tâm đang
bị giam cầm trong các
nhà tù ở Hà Nam, Thanh
Hóa, Phú Yên, … Trước
khi những người chồng
của họ bị bắt, th́ mọi
công việc trong gia đ́nh
đều do người chồng đảm
trách. Gần mười năm nay,
họ phải thay chồng làm
việc vất vả để nuôi con,
nuôi bản thân và thỉnh
thoảng phải gửi chút quà
để động viên người chồng
đang ở trong tù. Hôm tôi
gọi điện thoại cho chị A
mi Hiêm, chị trả lời
trong tiếng khóc nức nở:
“Em có ba đứa con nhỏ,
đứa lớn đang ở nhà một
ḿnh, em đang ở bệnh
viện chăm sóc hai đứa
nhỏ bị ốm. Tiền học đóng
cho con chưa có, nhà
trường dọa đuổi học,
tiền thuốc thang, viện
phí cũng không. Chồng em
viết thư về xin chút
tiền để bồi dưỡng thêm
v́ tiêu chuẩn ăn của nhà
tù không đủ dinh dưỡng.
Anh ơi hăy cầu nguyện
cho em!...” Tôi chỉ biết
cầu nguyện cho chị trong
nước mắt.
Đây chỉ là ba trong số
hàng trăm người vợ và
hàng trăm người con của
những người tù lương tâm
mà tôi không thể nêu lên
hết.
Ngày quốc tế nhân quyền,
chúng ta nhắc đến quyền
của những người phụ nữ.
Họ cần có người chồng ở
bên cạnh để yêu thương,
che trở, an ủi, động
viên và chia sẻ những
niềm vui cũng như nỗi
buồn. Ngày quốc tế nhân
quyền, chúng ta nhắc đến
quyền của những trẻ em,
chúng cần sự chăm sóc,
nuôi nẫng, bảo vệ và
giáo dục của người cha.
Ngày quốc tế nhân quyền,
chúng ta nhắc đến quyền
của bậc cha mẹ cao tuổi,
họ cần sự chăm sóc, giúp
đỡ của con cái lúc tuổi
già.
Có khoảng hai trăm người
vợ của những người tù
lương tâm, có hàng trăm
đứa trẻ là con của những
người tù lương tâm, có
hàng chục người cha,
người mẹ cao tuổi của
những người tù lương
tâm. Họ là người Kinh,
người Ê Đê, Gia Rai, Ba
Na. Ngày đêm họ mong
ngóng người chồng, người
cha, người con của họ
được trở về. Những người
tù lương tâm cần được
trả tự do để họ có làm
trọn bổn phận của người
chồng với người vợ, làm
tṛn bổn phận của người
cha với con cái, làm
tṛn bổn phận của người
con với cha mẹ. Họ tiếp
tục làm tṛn trách nhiệm
của họ với nhân dân và
Tổ quốc.
Tôi thay mặt cho những
người vợ, người con,
người cha, người mẹ và
nhân danh cá nhân. Tôi
kêu gọi ông Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang.
Ông Bộ trưởng Bộ công
an, ông Chánh án Ṭa án
nhân dân tối cáo, ông
Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao,
bởi truyền thống nhân
đạo của người Việt Nam,
hăy trả tự do cho tất cả
những người tù lương tâm
mà các ông đang giam
giữ.
Tôi kêu gọi cộng đồng
quốc tế, chính phủ các
nước, các tổ chức bảo vệ
nhân quyền quốc tế hăy
lên tiếng vận động chính
phủ Việt Nam trả tự do
cho những người tù lương
tâm mà họ đang giam giữ.
Trân trọng cảm ơn tất cả
Quí vị.
Luật sư Nguyễn Văn Đài.
*
Hanoi, November 25,
2011
Ladies and
gentlemen,
Each year during the
International Human
Rights Day, people
usually mention and
honor those who
fight for human
rights, the
prisoners of
conscience detained
in prisons. In the
article, and also
this letter, I refer
to the wives,
children, parents of
the prisoners of
conscience in
Vietnam. I’m calling
them prisoners of
conscience because
what they say or
write do come from
their conscience and
a sense of
responsibility
toward their fellow
citizens and their
country. They have
no personal motives
or political agendas
when speaking out or
in writing their
speech and in their
action. What they
say and write fall
well within the
preserve of the
political and human
rights enshrined in
the 1992
Constitution of
Vietnam, and
recognized and
protected by the
International
Convention on Civil
and Political
Rights, which the
Vietnam government
often claims to
respect and enforce
in practice.
The first person I
want to mention is
Ms. Thu Trang, the
wife of prisoner of
conscience Pham Van
Troi. Since her
husband’s arrest,
the burden of the
family rests on her
shoulders. Daily she
has to travel over
40 km roundtrip to
and from work.
Raising and taking
care of her two
young children - the
older child is not
even 10 years old,
the younger one,
4-year-old - while
supporting her
mother in-law, who
is over 80, and sick
often. Every month
she visits her
husband who’s in
captivity in Nam Ha
prison. Every few
months she would
carry her two small
children on her
motorbike for a
journey over tens of
miles to visit their
father. When I met
her, I could sense a
sadness deep inside
the woman's soul,
whose husband is
locked up far away,
but her eyes always
shine with an
undying fire of
determination, a
faith that helps her
continue caring for
her children, and an
elderly mother
waiting for the
return of a son and
she, a loving
husband.
The two children,
although lacking the
care of their
father, but are
well-behaved and
mindful of their
mother. They do not
feel stigmatized but
on the contrary is
very proud of their
father. She and her
older son have
participated in
demonstrations
against the Northern
trangressors, both
mother and son got
arrested and
deprived of food.
But neither of them
is afraid because
they believe in a
father and a
husband, and the
just cause he’s
followed. So what
they do is
contributing just a
small share to the
larger effort. The
80 years plus
mother, is waiting
day and night for
her son to return to
look after her for
the remaining days
of her life.
Grandmother's tears
have dried up,
leaving only a sound
of sobbing when
talking to me about
her son.
The second person I
want to mention is
Ms. Nguyen Thi Lanh,
a pastor's wife,
whose husband is the
prisoner of
conscience Nguyen
Trung Ton. The
family of pastor Ton
resides in a poor
rural area of
Thanh Hoa
province. Since his
arrest, the care and
nurture for three
young children and
elderly parent, who
is over 80, rest on
Lanh’s shoulder. She
had to work in the
rice field, plus
running and fending
hard in the market
place to support her
children, raising
the husband’s
parents, and visited
him every month in
Nghe An to bring him
provision and
supply. When those
children and parents
in-law are sick, she
has to stretch
herself thin to care
for the sick, and
struggle in the
market place for
money. But she
stoically believes
and wholeheartedly
supports her husband
without any blame.
The father of pastor
Nguyen Trung Ton
called me, he said:
"He has not commit
any wrongdoing so
why do they imprison
him? I’m too old and
feeble, I wish he
would be released so
I could see him one
last time before I
meet with my Maker.
Son! Please pray to
the Lord God with me
and ask for his
quick return." I
have prayed with him
with tears swelling
in my eyes.
The third person I
want to mention is
Ami Hiem, an Ede
ethnic minority
woman. She as well
as over one hundred
women of Ede, Gia
Rai and Ba Na
minorities are the
wives of prisoners
of conscience
detained in the
prisons of Ha Nam,
Thanh Hoa, and Phu
Yen... Before their
husbands were
arrested, all the
work in the family
are taken care by
their husbands. For
nearly ten years,
they have to replace
their husband and
work hard to support
the children,
raising them
themselves and
sometimes have to
send some gifts to
keep their husband’s
spirit up in prison.
Today I called A Mi
Hiem, she answered
in tearful cry: "I
have three small
kids, the big one is
home alone, I’m in
the hospital taking
care of two sick
kids. With no
tuition to pay for
my children’s
education, the
school threatens
expulsion; neither
do I have money for
medicines and
hospital charges. My
husband writes to
ask for a little
money to supplement
his food because the
standard food ration
in prison is totally
undernourishing.
Please pray for me,
brother!..." So the
only thing I can do
is pray for her in
tears.
These are just three
out of the hundreds
of wives and
children, hundreds
of the prisoners of
conscience whose
names I could not
bring up.
On International
Human Rights Day, we
refer to the rights
of women. They need
to have their
husband by their
side to love,
protect, comfort,
encourage and share
the joys and
sorrows. On
International Human
Rights Day, we talk
about the rights of
children, they need
the care, nurture,
protection and
upbringing from the
father. On
International Human
Rights Day, we refer
to the rights of
elderly parents,
who, in their old
age, need the care
and assistance of
their children.
There are about two
hundred wives of
these prisoners of
conscience, there
are hundreds of
children who are
children of these
prisoners of
conscience, there
are dozens and
dozens of fathers
and elderly mothers
of these prisoners
of conscience, they
are the Kinh, the
Ede, the Gia Rai and
the Ba Na. Night and
day, they are
waiting for their
husbands, fathers,
their sons to
return. These
prisoners of
conscience should be
released so they can
fulfill the duties
of the husband to
their wife, to
fulfill the duties
of a father to their
children, to fulfill
the duty of children
to their parents.
Most of all, they
need to continue to
fulfill their
responsibilities to
their fellow people
and their homeland.
On behalf of their
wives, children,
their parents and on
my own volition, I
urge President
Truong Tan Sang, the
Minister of Police,
Mr. Chief Justice of
The Supreme People's
Court, Mr. Chief
Procurator of the
Supreme People's
Procuracy, that by
the humanitarian
tradition of
Vietnam, to free all
prisoners of
conscience that you
all are holding.
I urge the
international
community,
governments, the
organizations and
institutions who
protect
international human
rights to raise your
voices and pressure
the government of
Vietnam to release
these prisoners of
conscience, who have
been detained by
them.
My respectful and
special thanks to
all of you,
Lawyer Nguyen Van
Dai
<<trở về đầu trang>>