|
Nguyễn Thanh Giang
Tôi xin phép được mời quư vị cùng đọc lại một áng văn thấm đẫm nhân văn sau đây của một nhà toán học:
Nhớ về một người thầy
thanh cao mà b́nh dị
Gs Phan Đ́nh Diệu |
Đầu năm 1953, tôi vào
học phổ thông cấp 3 của
trường Phan Đ́nh Phùng,
tỉnh Hà Tĩnh. Năm học
này, trường đă dời địa
điểm về xă Ngu Lâm ở
phía nam huyên Đức Thọ.
Là một học sinh nhà quê
từ vùng nông thôn Can
Lộc lên học “Trường
tỉnh” ở huyên Đức Thọ
vào thời đó đối với tôi
là một sự kiện lớn, một
niềm vinh dự. Nếu Hà
Tĩnh được xem là một
tỉnh có truyền thống
hiếu học, th́ Đức Thọ (cùng với Hương Sơn) là
vùng văn hóa tập trung
của tỉnh, với biết bao
tấm gương về những con
người tài năng mà suốt
thời tuổi nhỏ tôi vẫn
thường được nghe các bậc
cha anh nhắc đến với
niềm cảm phục, ngưỡng
mộ. Trường Trung học
Phan Đ́nh Phùng là
trường học lớn nhất
tỉnh, nơi có nhiều thầy
giáo đă từng dạy học
trước Cách mạng tháng
Tám, hoặc là các nhà
văn, nhà khoa học, nhà
hoạt động xă hội, do
thời cuộc đưa đẩy đă tụ
hội về trường cùng làm
cái nghề dạy học vốn
được xem là thanh bạch
và cao quư. Bọn học tṛ
nhỏ mới được vào trường
như chúng tôi trong
những buổi đầu nh́n lên
các thầy với một niềm
tôn kính và ngưỡng mộ,
nhưng không khỏi có ít
nhiều mặc cảm của sự
cách biệt.
Thời gian êm ả trôi qua,
và tôi quen dần với cuộc
sống chật vật nghèo nàn
của một học sinh xa nhà
ở trọ và với những buổi
học ban đêm đèn dầu
không đủ ánh sáng nhưng
đầy hấp dẫn bởi những
bài giảng nhiệt t́nh của
các thầy mở ra cho chúng
tôi niềm đam mê đến với
những miền kiến thức mới
mẻ về toán học, văn học,
địa lư, lịch sử. Những
mặc cảm cách biệt qua đi
lúc nào không biết, thầy
tṛ, bè bạn dần trở nên
gắn bó thân thiết như
trong một gia đ́nh.
Tôi nhớ, vào một chiều
mùa thu năm 1953, đang
ngồi học một ḿnh trong
nhà trọ thi chợt nghe
tiếng chó sủa, nh́n ra
cổng thấy một ông khách
cao lớn đội chiếc mũ lá
đi vào. Ngỡ ngàng một
chút rồi nhận ra ông
khách là thầy Trần Quốc
Nghệ, tôi vui mừng và
lúng túng mời thầy vào
nhà như được đón nhận
một vinh dự bất ngờ.
Trong mắt tôi và theo
những ǵ mà tôi được
biết, thầy Nghệ là một
người đa tài, từng trải,
một người am hiểu cả Nho
học và Tây học, một thầy
dạy Văn rất “uyên bác”,
c̣n tôi là học tṛ binh
thường, chưa biểu lộ
được một chút đặc sắc ǵ
về môn học của thầy và
vẫn nghĩ rằng ḿnh chẳng
có ǵ đáng được thầy để
ư. Vậy mà bỗng nhiên
được thầy đến chơi. Nh́n
quanh trong nhà thấy
không có ǵ đáng đem ra
mời thầy, tôi chỉ vào
bếp rót bát nước chè
xanh đưa lên bàn rồi
ngồi nghe thầy nói. Thầy
ân cần hỏi thăm về t́nh
h́nh sinh hoạt, học
hành, khuyến khích phải
chăm học, đừng để uổng
phí tuổi trẻ. Trời bỗng
nhiên nhiều mây, rồi lất
phất mưa bụi. Tôi mừng
v́ lưu giữ được thầy ở
lại lâu hơn, nhưng thật
băn khoăn v́ tiếp thầy
quá ư đạm bạc. Bỗng thầy
nh́n ra ngoài vườn rồi
bảo tôi: “Cậu ra hái quả
khế chua vào đây”. Trời
ơi! Chẳng lẽ tiếp thầy
bằng mấy quả khế chua
sao? Hái khế xong, tôi
đang lúng túng v́ không
t́m ra được thứ ǵ có
thể ăn với khế (chút
đường ngọt cũng không
có), th́ lại nghe thầy
bảo: “T́m trong nhà có
cái b́nh vôi đưa ra
đây”. Tôi t́m được b́nh
vôi (ăn trầu) đưa ra,
thầy điềm nhiên cầm ch́a
vôi quệt một ít vôi
trong b́nh ra đĩa rồi
cắt khế ra từng miếng,
chấm vào vôi và đưa lên
miệng. “Cậu có biết ăn
cách này không?” – Thầy
hỏi. Tôi xúc động nghẹn
ngào “Có ạ”, rồi hai
thầy tṛ cùng ngồi nhấm
nháp bữa tiệc “khế chấm
vôi” và nghe thầy kể bao
nhiêu chuyện thú vị về
văn hóa sinh hoạt ẩm
thực của quê hương. Cho
đến nay đă hơn nửa thế
kỷ trôi qua, nhưng kỷ
niệm về “bữa tiệc”độc
đáo đó vẫn không bao giờ
phai mờ trong kư ức tôi,
với h́nh ảnh thân thiết
b́nh dị của thầy và bữa
tiệc “khế” như của hai
cha con nông dân nghèo
trong mái nhà tranh của
tuổi thơ quê hương.
Giai đoạn 1953 – 1954 là
một giai đoạn nhiều xáo
trộn bi thương trên mảnh
đất quê hương Nghệ Tĩnh
của chúng tôi. Bên cạnh
những niềm vui lớn về
những chiến thắng của
cuộc kháng chiến đang
dần đi đến hồi kết, th́
những màn đấu tố từ các
phong trào “ chống phản
động” rồi “giảm tô”,
“cải cách ruộng đất”
càng ngày càng gay gắt,
đưa cả một vùng quê vào
cảnh xáo trộn. Thầy giáo
và cả các anh chị học
sinh lớn tuổi của trường
tôi không hiểu v́ sao
cũng trở thành đối tượng
của cuộc đấu tố đó.
Tôi thấy thầy Nghệ vắng
mặt ở trường một thời
gian. Cho đến một buổi
sáng trời mưa phùn vảo
khoảng giữa năm 1954,
tôi đang đi bộ một ḿnh
trên đường từ Lạc Thiện
lên thị trấn Đức Thọ th́
bổng gặp thầy trong một
hoàn cảnh thật trở trêu.
Đường xa mỏi mệt, đang
lủi thủi một ḿnh th́
thấy từ xa đi theo hướng
ngược lại một tốp ba
người, người đi giữa
dáng cao lớn, mang một
chiếc tơi lá, hai người
đi kèm sau là hai dân
quân, một người cầm
súng, một người cầm gậy.
Đi gần thêm một chút,
tôi bổng rụng rời nhân
ra người đi giữa là thầy
Nghệ kính yêu của ḿnh.
Tôi không khóc được. Tôi
có cảm tưởng thầy cũng
nh́n thấy tôi v́ thấy
thầy chững lại một bước
chân. Rồi tất cả lại
tiếp tục đi. Tôi hét lên
một tiếng “Thầy ơi!” và
nghe tiếng quát lại của
anh dân quân “Đi đi” và
thế là hết. Tôi nh́n
vuốt theo bóng thầy đi
cao đạo điềm đạm giữa
trời mù sương măi cho
đến khi khuất bóng.
Một năm sau, giữa đường
phố Tràng Tiền của Hà
Nội sau ngày giải phóng,
tôi t́nh cờ lại gặp được
thầy. Tôi đă qua cái
thời thơ bé và thầy đă
có thể nói chuyện với
tôi ít nhiều về thời
cuộc, về thế thái nhân
t́nh. Hai thầy tṛ cùng
đi dạo mát một lát, ôn
lại những câu chuyện học
hành của tôi, c̣n tôi,
vẫn với niềm ngưỡng mộ
đối với thầy như xưa,
tôi không dám hỏi những
chuyện mà tôi e là thầy
cũng không muốn trả lời.
Đó là vào khoảng thời
gian mà báo “Nhân văn”
mới bị đ́nh bản, và vụ
“Nhân văn, Giai phẩm”
đang bắt đầu bị lên án
gắt gao, và theo lời đồn
đại, th́ thầy cũng không
phải hoàn toàn bàng quan
với những xu hướng đó.
Bẵng đi mấy chục năm,
đất nước và quê hương đă
đi qua một cuộc chiến
tranh khốc liệt, những
năm tháng ḥa b́nh nhưng
c̣n đói nghèo vất vả.
Cho đến đầu thập niên
1990, tôi mới được gặp
thầy. Thầy đă già, nhưng
vẫn quắc thước như xưa.
Một lần đến thăm thầy,
trước khi ra về, bỗng
thầy cầm tay tôi và hỏi:
“Nghe nói gần đây cậu có
một số bài viết được
nhiều người quan tâm,
lần sau có đến đưa cho
ḿnh xem nhé!”. Tôi vâng
dạ, nhưng tiếc là chưa
t́m lại được những bài
mà thầy yêu cầu th́ được
biết thầy đă về Hà Tĩnh.
Và với lần về quê đó
thầy đă măi măi không ra
Hà Nội nữa. Theo lời
nhắn của thầy qua bạn
Nguyễn Quang Thân, tôi
có kịp nói chuyện qua
điện thoại với thầy một
lần, chúc thầy mạnh khỏe
để c̣n hy vọng gặp lại
thầy. Nhưng rồi, thầy đă
ra đi. Hôm đến viếng
thầy ở nhà cô Lành (Con
gái thầy) tôi được xem
mấy tấm ảnh về phần mộ
của thầy, nơi yên nghỉ
của thầy đặt ở lưng
chừng núi, nh́n ra một
vùng non xanh nước biếc
của mây trời Hương Sơn,
tôi thầm cầu chúc cho
hương hồn của thầy được
măi thanh thản cùng đất
trời non nước.
Thầy, một con người
thanh cao mà b́nh dị.
Tháng 8 năm 2004
Tác giả áng văn trên là
Phan Đ́nh Diệu.
Ông cùng tuổi Bính Tư
với tôi, sinh năm 1936,
nhưng là một trong những
người con sáng giá của
đất quê Hà Tĩnh địa linh
nhân kiệt: Trần Trọng
Kim, Hoàng Xuân Hăn, Lê
Văn Thiêm, Nguyễn Đổng
Chi, Nguyễn Huệ Chi …,
hậu duệ của Phan Huy Ích,
Phan Huy Chú, Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ …
Giáo sư-tiến sỹ Phan
Đ́nh Diệu là chuyên gia
trong các lĩnh vực:
toán học kiến thiết,
lôgíc toán,
lư thuyết thuật toán,
ôtômat và
ngôn ngữ h́nh thức,
lư thuyết mật mă và
an toàn thông tin và
được ghi nhận là một
trong những người có
công đầu trong kế hoạch
đào tạo và phát triển
ngành
tin học Việt Nam.
Lần đầu tôi đến t́m ông
với mục đích cậy nhờ
chiếc máy tính điện tử
đầu tiên ở Việt Nam đặt
tại cơ quan ông để giải
bài toán xác xuất thống
kê nhằm t́m kiếm quy
luật phân bố cường độ
phóng xạ trong mối tương
quan với một số loại đất
đá trên lănh thổ Miền
Bắc Việt Nam. Chiếc máy
chỉ có tính năng tương
đương với một chiếc
laptop bỏ trong cặp sách
bây giờ, nhưng lúc ấy nó
chiếm cả một căn pḥng.
Nó chạy ầm ầm, tỏa hơi
nóng vă mồ hôi nên ngoài
quạt gió phải có cả một
hệ thống làm lạnh gồm
những ống dẫn nước to
bự. Nó quan trọng đến
mức phải có lính gác.
Bây giờ người ta nhập số
liệu bằng bàn phím, lúc
ấy chúng tôi phải dùng
phiếu đục lỗ. Phiếu đục
lỗ là những mảnh b́a
bằng nửa bàn tay. Tôi đă
phải lưu giữ mấy ḥm
phiếu đục lỗ khá lâu,
nhưng khi biết là không
cần nữa, tôi đă đem đun
bếp thay củi được đến ba
bốn bữa nấu ăn.
Hơn hai chục năm sau,
lần đầu tiên PĐD mới đến
nhà tôi. Đấy là những
ngày tôi đang bị uy hiếp
hết sức ghê gớm: bị đưa
ra Phường đấu tố, bị trẻ
con ném hàng chục kg
gạch đá vào nhà … Hôm ấy
vợ tôi mới đi công tác ở
Ixrael về, c̣n ông, vừa
tham gia Đoàn Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
Không biết do tác động
của chuyện vợ tôi kể về
cảnh khám xét ngặt nghèo
và cảnh lính tráng, cảnh
sát đầy đường ở Ixrael
hay do ông chủ định làm
công tác tư tưởng cho
tôi khi ông nói như trần
t́nh: “Chúng ḿnh nói
th́ cứ nói chứ thật ra
cùng ngồi họp mới thấy
người ta cũng trăn trở
lắm với bất công xă hội,
với xóa đói giảm nghèo
đấy ông ạ”.
Thế là tôi cứ dùng dắng
măi ư định viết đôi ḍng
tôn vinh ông mặc tôi rất
nể phục ông qua giai
thoại kể rằng ông đă dám
công khai trực diện nói
sau đại thắng 30 tháng 4
năm 1975: “Đồng chí Lê
Duẩn thật là vĩ đại,
nhưng sẽ vĩ đại hơn nếu
bây giờ từ chức”. Giai
thoại ấy nếu là sự thật
th́ PĐD đă rất đúng.
Trong 1975 nếu Lê Duẩn
từ chức th́ cách mạng
Việt Nam có thể đă không
tiếp tục những bước sai
lầm c̣n tệ hại hơn từ
những ngày ĐCSVN được
thành lập.
Vậy mà, sau đó PĐD cứ
mặc nhiên rơi thẻ Đại
biểu Quốc hội, rời khỏi
chức vụ Phó Viện trưởng
Viện Khoa học Việt Nam
….
Tuy nhiên, tôi vẫn chưa
đủ nhiệt t́nh đặt bút
viết.
Bài viết này được thôi
thúc chỉ khi tôi t́nh cờ
được đọc áng văn trên.
Hơn một nhà toán học tài
danh, Phan Đ́nh Diệu
đáng được tôn vinh c̣n
là v́ ông đă dám đánh
giá lại lịch sử cận hiện
đại Việt Nam, dám dấn
thân vào công cuộc đấu
tranh cho tự do, dân
chủ, nhân quyền Việt Nam
ở tốp đầu kể từ sau
1975: Dương Thu Hương,
Hà Sỹ Phu, Bùi Minh Quốc
…
Được mời phát biểu trong
chương tŕnh KX.10 về “Tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị trong
thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế”,
trong thư đề ngày
18/8/2004 gửi lănh đạo
ông đă thẳng thắn tŕnh
bày:
“Về phát triển kinh tế,
sự níu kéo giữa hai xu
hướng – xu hướng hoàn
thiện dần cơ chế thị
trường theo thông lệ
quốc tế để hội nhập và
xu hướng bảo vệ cái gọi
là “ định hướng xă hội
chủ nghĩa ” – đang tiếp
tục gây những cản trở và
khó khăn cho việc phát
triển và hoàn thiện nền
kinh tế thị trường, làm
cho nền kinh tế của ta
tuy đă có nhiều nét khởi
sắc, nhưng vốn c̣n non
yếu, sẽ càng dễ bị sụt
giảm về chất lượng tăng
trưởng và năng lực cạnh
tranh, như kết quả của
một cuộc điều tra quốc
tế vừa qua đă chứng tỏ.
Việc nền kinh tế nước ta
chưa được công nhận là
nền kinh tế thị trường
cũng tiếp tục gây trở
ngại cho sự phát triển
và hội nhập.
Về đời sống chính trị -
xă hội, các quyền tự do
dân chủ cơ bản của người
dân vẫn chỉ được “tôn
trọng” trên văn bản giấy
tờ, chứ chưa được tôn
trọng trên thực tế,
quyền tự do ứng cử và
bầu cử được thực hiện
một cách h́nh thức,
những điều này trong xă
hội người dân không phải
là không biết, chỉ có
điều là do sợ mà chưa
dám nói ra đó thôi. Cũng
không phải ngẫu nhiên mà
nước ta được xếp hạng
gần chót bảng trên thế
giới về tự do báo chí
(61/68), và cũng ở loại
kém về minh bạch
(102/146), (tức tham
nhũng nặng), theo kết
quả điều tra của tổ chức
Nhà báo không biên giới
và tổ chức Minh bạch
quốc tế, tôi nghĩ ta
cũng cần chú ư đến những
đánh giá đó để mà suy
ngẫm nghiêm túc về chất
lượng nền dân chủ của
chúng ta. Ai cũng biết
sự yếu kém về dân chủ đó
là hệ quả tất yếu của
chế độ một đảng độc
quyền lănh đạo (toàn
diện và tuyệt đối) với
sự thống trị chính thức
của một ư thức hệ tư
tưởng (chủ nghĩa
Mác-Lênin). Nếu ta tiếp
tục duy tŕ một thể chế
chính trị như vậy th́
vẫn sẽ không có tự do tư
tưởng, tự do bày tỏ ư
kiến và phê phán, do đó
không thể phát huy tiềm
năng trí tuệ của đất
nước trong một giai đoạn
mà ta thường nói trí tuệ
là nguồn lực chủ yếu
nhất của phát triển”.
Trong tiểu luận
“Khoa học hệ thống và
một số vấn đề về quản lư
kinh tế của nước ta hiện
nay” ông cũng đă
viết:
"Xu thế rệu ră trong
quan hệ của hệ thống
càng ngày càng tăng,
thậm chí các mối quan hệ
kinh tế trong hệ thống
Nhà nước bị biến chất,
xu thế này rất nguy
hiểm, nó phá vỡ từ bên
trong cấu trúc hệ thống
của nền kinh tế và xă
hội. Biểu hiện của xu
thế này là các hiện
tượng tiêu cực với quy
mô ngày càng lớn, đặc
biệt là hiện tượng mang
tính chất tập thể, bộ
phận chủ không chỉ là cá
nhân, cá biệt. Một hệ
thống giữ một vẻ ngoài
thống nhất nhưng bị mục
ruỗng và hỗn loạn bên
trong, tạo nên cái dối
trá, cái không thật
trong kinh tế và từ đó
trong các lĩnh vực khác
của xă hội. Sự điều
khiển tập trung không có
hiệu lực và xu thế là
giải thoát bằng mọi mánh
lới ra ngoài sự điều
khiển đó là cơ sở vật
chất của sự dối trá, từ
sự dối trá trong làm ăn
đến sự dối trá trong đời
sống luân lư của xă hội.
Sự sa sút về đạo lư này
đang là sự cản trở hết
sức to lớn cho quá tŕnh
khôi phục trật tự của xă
hội. Mặc dù có những
nguyên nhân từ bên ngoài
nhưng về cơ bản các yếu
tố phá vỡ tính hệ thống
nằm trong bản thân hệ
thống đó. Nên rơ ràng để
khắc phục được tinh h́nh
cần có những biện pháp
mạnh để tự thay đổi tổ
chức của hệ thống và
tiến lên xây dựng được
một kiểu hệ thống mà tự
tổ chức, tự chọn lọc và
loại bỏ những yếu tố cản
trở sự phát triển của
ḿnh”.
Ông từng chua xót kể với
các nhà báo:
“Có lần trên diễn đàn
Quốc hội năm 1978, tôi
đă phát biểu về một thực
tế là liên tục 5, 6 năm
liền kế hoạch nhà nước
không bao giờ thực hiện
được cả, thường chỉ đạt
50 - 60%, nhưng có ngành
nào, tỉnh nào mà không
báo cáo thành tích là
vượt mức kế hoạch đâu.
Thế nên tôi nói, nước ta
có một thứ toán học kỳ
lạ: tổng các số dương
bằng một số âm. Nhưng
thực ra điều lạ đó tôi
cũng có được chứng kiến
ở Liên Xô từ đầu những
năm 1960 khi tôi học ở
đó. Lúc đầu đọc báo Sự
thật và nghe đài, tôi
ngạc nhiên và thán phục
lắm, năm nào ngành nào
cũng báo cáo đạt 102 -
103% kế hoạch, không có
ngành nào là không đạt
kế hoạch. Tôi có hỏi một
ông Giáo sư Viện sĩ Viện
Hàn lâm về kinh tế: Một
nước rộng lớn như Liên
Xô, nhiều ngành nghề,
nhiều lĩnh vực kinh tế,
làm thế nào để lập kế
hoạch sản xuất chi tiết
cho từng nhà máy, từng
công trường một cách sát
với thực tế đến thế? Ông
ấy cười bảo: Anh có biết
cách làm của chúng tôi
như thế nào không? Chúng
tôi thống kê ngược. Tức
là muốn đạt được 100%
hay 105% th́ tôi lấy chỉ
tiêu đạt kế hoạch ấy rồi
tính ngược lại và biết
được từng nhà máy "phải"
làm bao nhiêu để đạt
được chỉ tiêu chung đó.
Những năm 1970 - 1980,
tôi tham gia thực hiện
việc đưa khoa học vào
quản lư xí nghiệp. Có
lần cùng một đoàn anh em
đi thực tế. Kế toán
trưởng trong xí nghiệp
đó làm việc với bọn tôi
một ngày rồi trốn. Tôi
t́m và gặng hỏi anh ta.
Anh ta bảo: Em làm kế
toán nhưng có bao giờ
làm từ thực tế đâu mà là
do người ta chỉ thị cho
em. Cách làm của em là
tính ngược. Muốn cho xí
nghiệp hoàn thành vượt
mức kế hoạch 5% hay 10%
th́ cứ lấy số đó tính
ngược lên sẽ biết bộ
phận này "cần" làm bao
nhiêu, bộ phận kia "cần"
làm bao nhiêu. Mà cái
cách đó th́ không thể
báo cáo cho các anh
được.
…… Khi đi vào phân tích
t́nh h́nh kinh tế của
Việt Nam theo quan điểm
hệ thống, kết quả phân
tích cũng làm chính tôi
ngạc nhiên. Tôi phát
hiện ra rằng, đó không
chỉ là sự dối trá trong
các báo cáo, mà tệ hại
hơn, sự dối trá đă trở
thành một thứ "đạo lư”
trong xă hội ta, mọi
người phải dối trá với
nhau, với chính ḿnh mà
sống, mà thăng tiến...
Đó chính là cái khó khăn
và cản trở lớn nhất cho
sự phát triển thật sự
của nước ta. Một xă hội
không được thể hiện
thật, không được nhận
thức thật, th́ khó mà
điều khiển thật để phát
triển thật được. Mà
khuyết điểm đó không chỉ
của riêng ta, cả ở các
nước "anh em" cũng vậy,
tức là của cả hệ thống
"xă hội chủ nghĩa"!”.
“Đến nay, các tệ nạn
trong xă hội càng trầm
trọng thêm. Có lần trả
lời phỏng vấn của một
phóng viên Thụy Điển,
tôi có nói: Tham nhũng
là hiện tượng ở đâu cũng
có, chỗ nào có quyền lực
là có tham nhũng. Bởi
thực chất tham nhũng là
bán chác quyền lực Nếu
không có quyền th́ lấy
ǵ mà tham nhũng. Nếu có
một xă hội cộng sản chủ
nghĩa thật sự, th́ với
nền chuyên chính theo
đúng lư thuyết về chủ
nghĩa cộng sản sẽ khó có
tham nhũng. Lúc đó,
quyền lực có, thậm chí
rất cao, nhưng thị
trường th́ không. Không
có chỗ bán, ở xă hội tư
bản chủ nghĩa th́ có thị
trướng, có hàng hóa,
nhưng thị trướng có tính
minh bạch nhất định và
có cơ chế hạn chế việc
buôn bán quyền lực bằng
các quyền tự do dân chủ
như tự do ngôn luận, tự
do báo chí... Đó là thị
trướng có luật lệ. C̣n
trong xă hội vừa có
quyền lực, và có những
người độc quyền thứ hàng
hóa quyền lực đó, lại
vừa có thị trướng mà
không có luật lệ ǵ th́
tha hồ buôn bán... Tham
nhũng là một sự bán chác
quyền lực, vừa có hàng
độc quyền lại vừa có chợ
th́ tha hồ mà bán chác
thứ hàng độc quyền đó”.
“Nếu đó xem là lỗi của
hệ thống th́ cũng cần
t́m giải pháp từ việc
sửa đổi hệ thống. Có hai
loại việc cần làm: một
là, cần kiểm soát nghiêm
ngặt việc sử dụng quyền
lực, bao gồm việc xử
phạt thật nghiêm việc
lạm dụng quyền lực, bất
kể kẻ lạm dụng là ai và
hai là, tăng cường luật
lệ cho thị trường,
nghiêm cấm mọi h́nh thức
mua bán quyền lực, từ
những quyền nhỏ như để
đi xe trái luật hay cho
điểm cao, cho đến những
quyền lớn như cho lên
chức lên quan... Đồng
thời tăng cường sự minh
bạch trong xă hội về
việc thực hiện hai loại
việc đó bằng cách phát
huy các quyền dân chủ
của nhân dân”.
Với niềm ưu tư quốc sự,
ông tư duy xă hội qua
khoa học tính toán:
“Từ nửa sau của thế kỷ
20 đến nay, chúng ta
đang được chứng kiến một
cuộc cách mạng mới trong
khoa học, đưa đến cho
loài người một cách nh́n
mới, một cách hiểu mới
về nhiều vấn đề của tự
nhiên, của sự sống, cũng
như của sự phát triển
kinh tế xă hội. Đối
tượng nhận thức của
chúng ta là những hệ
thống vô cùng phức tạp,
trước đây ta chỉ có thể
t́m hiểu qua những mô
h́nh đơn giản với một số
ít quan hệ đă được quy
giản cho thích hợp với
tư duy cơ giới, nên chỉ
mới hiểu được chúng một
cách sơ lược. Ngày nay,
với tư duy hệ thống và
với nhiều phương pháp,
công cụ của khoa học
hiện đại, ta đă có thể
nghiên cứu các đối tượng
đó với những mô h́nh gần
với thực tế hơn ; một
trong những mô h́nh như
vậy là các hệ thống
thích nghi phức tạp, đó
là những hệ thống gồm
nhiều tác tử tương tác
với nhau qua các quan hệ
thường là phi tuyến,
h́nh thành nên nhiều
ṿng phản hồi bên trong
hệ thống cũng như với
môi trường, có cả phản
hồi âm và phản hồi
dương, có tác động duy
tŕ hoặc phá vỡ trật tự
hiện có. Sự phát triển
của hệ thống, tức là
việc tăng tŕnh độ tổ
chức và trật tự của hệ
thống, h́nh thành bởi
một tiến tŕnh tiến hoá
tạo nên những thuộc tính
hợp trội (emergent) được
thực hiện bằng các cơ
chế thích nghi qua các
tương tác của hệ thống.
Tiến hoá qua cơ chế
thích nghi không chỉ
biểu hiện bằng cạnh
tranh sinh tồn và chọn
lọc tự nhiên, mà c̣n
bằng hiệp tác và cùng
phát triển. Chính cái đa
dạng của tiến hoá này
tạo nên sự phong phú và
giàu có của cuộc sống.
Các hệ thống kinh tế và
xă hội là những hệ thích
nghi phức tạp, trong các
hệ thống đó, các yếu tố
được coi là đối lập
không chỉ có kiểu đấu
tranh “ ai thắng ai ”,
mà thông qua những tương
tác có tính hợp trội c̣n
có thể t́m được khả năng
hiệp tác để đạt tới
trạng thái “ thắng
-thắng ”, tức là cả hai
đều thắng”.
Trên cơ sở đó, ông kết
luận:
“Đến nay, sự nghiệp đổi
mới đ̣i hỏi những nội
dung mới và chất lượng
mới, để tiếp tục giữ vai
tṛ lănh đạo của ḿnh
th́ bản thân Đảng phải
có những đổi mới cơ bản,
rơ ràng lư luận về chủ
nghĩa cộng sản và về chủ
nghĩa xă hội theo học
thuyết Mác-Lênin không
c̣n thích hợp với đ̣i
hỏi mới của cuộc sống
nữa. …Nếu không được như
vậy, tức là Đảng vẫn
kiên tŕ giữ nguyên như
hiện nay, th́ v́ quyền
lợi của dân tộc, Đảng
phải tôn trọng quyền dân
chủ, kể cả quyền lập
đảng, của xă hội, và ta
sẽ có một chế độ đa đảng
hoạt động trong phạm vi
luật pháp”.
Và khẳng định:
“Trước sau ǵ th́ một
nền dân chủ cũng phải là
đa nguyên thôi, v́ đa
nguyên luôn luôn là điều
kiện cần của dân chủ, đó
là điều mà cả về lư luận
lẫn thực tiễn ta không
có cách ǵ có thể bác bỏ
được”.
***
Người ta thường lư giải
động cơ của những người
quyết liệt phê phán Đảng
và dấn thân mạnh mẽ cho
công cuộc đấu tranh dân
chủ hóa là xuất phát từ
bất măn cá nhân. Năm
1957, sau khi tốt
nghiệp đại học, dù không
có thành tích cách mạng,
kháng chiến nổi rơ, PĐD
vẫn được cử đi làm
nghiên cứu sinh ở Liên
Xô và sau đó rất sớm
được đưa vào Quốc hội,
được đề bạt Phó Viện
trường Viện Khoa học
Việt Nam (tương đương
thứ trưởng).
Phan Đ́nh Diệu không có
lư do ǵ để bất măn với
ĐCSVN cả. Song, ông đă
bất măn cho thầy học của
ông, cho quê hương ông,
cho dân tộc ông. Nỗi bất
măn thật thánh thiện,
thật đáng tôn vinh.
Tôi viết bài này để nêu
gương cho mấy ông dù ít
được học hay dù được
Đảng sơn phết cho cái
danh xưng giáo sư-tiến
sỹ nọ kia cũng không nên
v́ quá ân sủng mà lú lẫn
không c̣n biết bất măn
trước những hy sinh quá
tàn khốc song kết quả
đem lại vẫn là sự tụt
hậu, sự tủi hổ khổ đau
của dân tộc ḿnh.
Mỗi trí thức Việt Nam
hăy biết nuôi trong ḷng
nỗi bất măn thánh thiện.
Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY
LẤP LÁNH”
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa
Vật lư Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà
Nội Điện thoại: 35 534
370
<<trở về đầu trang>>