Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Trung Quốc: Mănh hổ cũa thợ mă (bằng giấy)?
George Friedman
Kinh tế Trung Quốc không mạnh như
người ta vẫn tưởng. Sự ổn định chính
trị của quốc gia này phụ thuộc phần
lớn vào việc kinh tế tiếp tục tăng
trưởng nhanh, bởi thế c̣n bấp bênh
hơn cả nền kinh tế. - George
Friedman viết.
"Trung Quốc - Mănh hổ bằng giấy"
trong cuốn sách "Một trăm năm tới"
của tác giả George Friedman.
Bất ḱ cuộc thảo luận nào về tương
lai cũng đều bắt đầu từ Trung Quốc.
Có đến 1/4 thế giới đang sinh sống
tại đây, và có nhiều quan điểm nh́n
nhận Trung Quốc như một cường quốc
toàn cầu tương lai.
30 năm qua, kinh tế Trung Quốc đă
tăng trưởng rất đáng kể. Nhưng 30
năm tăng trưởng không có nghĩa là sẽ
tăng trưởng bất tận. Điều này chỉ có
nghĩa rằng có khả năng mức tăng
trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ giảm
dần. Trong trường hợp Trung Quốc,
tăng trưởng chậm hơn cũng đồng nghĩa
với việc gia tăng các vấn đề chính
trị xă hội.
Tôi không đồng t́nh với quan điểm
cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành một
siêu cường thế giới. Tôi c̣n chẳng
tin rằng nước này có thể duy tŕ sự
thống nhất đất nước. Tuy nhiên, đúng
là khi nói về tương lai th́ không
thể không nhắc đến Trung Quốc.
Có vẻ như địa lư lại chính là một
điểm yếu của Trung Quốc. Điểm yếu
này có thể bị lợi dụng khi có xung
đột xảy ra. Kinh tế Trung Quốc không
mạnh như người ta vẫn tưởng. Sự ổn
định chính trị của quốc gia này phụ
thuộc phần lớn vào việc kinh tế tiếp
tục tăng trưởng nhanh, bởi thế c̣n
bấp bênh hơn cả nền kinh tế. Tuy
nhiên, Trung Quốc vẫn quan trọng bởi
có vẻ như nước này sẽ là một thách
thức đối với toàn cầu trong thời
gian sắp tới, ít nhất là trong suy
nghĩ của những nước khác.
Một lần nữa, bằng phương pháp địa
chính trị, chúng ta sẽ bắt đầu bằng
việc đánh giá căn bản trước. Thứ
nhất, Trung Quốc là một ḥn đảo. Dù
không bị nước bao quanh, nhưng quốc
gia này bị cô lập bởi những khu vực
địa h́nh không đi qua được và những
vùng đất đai không sử dụng được.
(xem bản đồ 1)
Chính người châu Âu đă buộc khu vực
ven biển của Trung Quốc tăng cường
các hoạt động thương mại. Nhờ vậy,
những vùng ven biển tham gia thương
mại giàu lên nhanh chóng. Mặt khác
điều này cũng khiến gia tăng khoảng
cách giàu nghèo giữa những vùng ven
biển và vùng nội lục, kéo theo việc
gia tăng bất ổn và hỗn loạn. Các khu
vực ven biển muốn quan hệ chặt chẽ
và thậm chí muốn được đặt dưới sự
kiểm soát của phương Tây.
Thời kỳ từ năm 1949 cho đến khi chủ
tịch Mao qua đời, đất nước Trung
Quốc thống nhất trong nghèo đói và
cô lập.
Canh bạc của Trung Quốc
Khi Đặng Tiểu B́nh lên kế nhiệm Mao
Trạch Đông, ông hiểu rằng Trung Quốc
khó mà an toàn nếu tiếp tục đóng
cửa. Ông quyết định chơi canh bạc
lớn là mở cửa biên giới, tham gia
vào thương mại thế giới mà vẫn không
bị chia cắt nội bộ.
Những vùng ven biển trở lại thịnh
vượng và gắn kết chặt chẽ với những
thế lực ngoại quốc. Hàng hóa giá rẻ
và giao thương đă mang lại của cải
dồi dào cho những thành phố lớn ven
biển, như Thượng Hải, trong khi
những khu vực nội địa vẫn nghèo khó.
Căng thẳng giữa khu vực bờ biển và
khu vực nội địa gia tăng, nhưng
chính quyền Trung Quốc vẫn đang duy
tŕ được thế cân bằng.(...)
Một câu hỏi mở là liệu có thể kiểm
soát nổi những lực lượng nội bộ đang
h́nh thành trong ḷng Trung Quốc?
Đây chính là điểm mà chúng tôi tiến
hành các phân tích về Trung Quốc và
ảnh hưởng của nó đến
hệ thống toàn cầu thế kỷ 21.
Liệu Trung Quốc có tiếp tục là một
phần của hệ thống thương mại toàn
cầu? Và nếu thế th́ liệu nó có bị
chia tách một lần nữa không?
Đầu thế kỷ 21, Trung Quốc đang đặt
cược việc nó có thể duy tŕ được sự
cân bằng vô hạn định. (...) Về cơ
bản đây quả thực là một vấn đề
nghiêm trọng và tiềm tàng nhiều nguy
cơ. Trung Quốc có chế độ tư hữu,
ngân hàng và những công cụ tư bản
khác, song lại không thực sự là một
nước tư bản bởi thị trường không tự
điều phối vốn. Một kế hoạch kinh
doanh tốt không đáng giá bằng những
mối quan hệ bạn có. Kết quả là số nợ
"xấu" của Trung Quốc ước tính được
khoảng từ 600 - 900 triệu USD (trong
khoảng 1/4-1/3 GDP cả nước) - một
con số đáng kinh ngạc.
Những khoản nợ xấu này hiện vẫn được
kiểm soát bởi tỉ lệ tăng trưởng cao
nhờ chi phí xuất khẩu thấp. Thế giới
đang có nhu cầu lớn với hàng xuất
khẩu giá rẻ, và tiền mặt chảy về từ
nguồn xuất khẩu giúp duy tŕ công
việc kinh doanh với những món nợ
nổi. Nhưng Trung Quốc càng bán giá
rẻ th́ lợi nhuận thu về càng thấp.
Các doanh nghiệp bán sản phẩm với
giá bằng hoặc thấp hơn chi phí sản
xuất, tất nhiên sẽ thu lại được một
khoản tiền lớn, nhưng số tiền mất đi
cũng nhanh không kém thu được. Đây
là một vấn đề đang diễn ra ở Đông Á.
Nhật Bản có thể coi là một bài học.
(...) Nhật Bản vào những năm 1980 đă
được xem là siêu cường kinh tế với
tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Theo
quy định của chính phủ, các ngân
hàng buộc phải trả lăi suất cực kỳ
thấp. Điều này buộc người dân gửi
tiền vào bưu điện (mức lăi suất gấp
đôi so với ngân hàng). Chính phủ lại
dùng tiền này cho các ngân hàng lớn
của Nhật vay lại với mức lăi thấp
hơn mức chung của quốc tế. Các ngân
hàng lại cho các doanh nghiệp liên
kết vay tiền. Người Nhật lúc bấy giờ
chỉ có cách lên kế hoạch hưu trí
bằng cách gửi tiết kiệm. Có thể nói,
không có thị trường thực sự tồn tại.
Tiền chảy vào chủ yếu thông qua các
mối quan hệ. Chính điều này đă tạo
ra những khoản nợ xấu.
Kinh tế tăng trưởng, nhưng tiềm ẩn
mầm mống một cuộc khủng hoảng. Khi
cơ cấu nợ tăng lên quá lớn, nó không
thể dựa vào xuất khẩu được nữa. Các
ngân hàng Nhật bắt đầu sụp đổ và
được chính phủ lại giải cứu chúng.
Thay v́ để xảy ra một cuộc suy thoái
lớn để có thể áp đặt trật tự, Nhật
đă sử dụng rất nhiều cách để cứu văn
t́nh thế, đổi lại, t́nh trạng bất ổn
vẫn tiếp tục kéo dài. Tăng trưởng
sụt giảm, thị trường sụt giảm. Thật
thú vị là trong khi khủng hoảng nổ
ra vào đầu những năm 90 th́ cho đến
tận những năm sau đó, nhiều người
phương Tây mới nhận ra rằng nền kinh
tế Nhật Bản đă xuống dốc. Giữa những
năm 90, họ vẫn nói về sự thần ḱ của
kinh tế Nhật Bản.
Điều này liên quan đến Trung Quốc
như thế nào? Cả hai đều là những
nước mà quan hệ xă hội có trọng
lượng hơn những quy luật kinh tế. Cổ
đông - những người cần lợi nhuận -
không quan trọng bằng ngân hàng và
nhà nước, những người có nhu cầu
tiền mặt. Cả hai nền kinh tế này đều
phụ thuộc lớn vào xuất khẩu, cả hai
đều có tốc độ tăng trưởng đáng kinh
ngạc và cả hai đều phải đối mặt với
sự sụp đổ khi tốc độ tăng trưởng bắt
đầu chậm đi. Theo ước tính của tôi,
tỉ lệ nợ xấu của Nhật bản những năm
90 khoảng 25% GDP. Trong khi ước
tính cẩn thận nhất th́ nợ xấu của
Trung Quốc chiếm khoảng 25% GDP -
tôi th́ cho rằng số nợ xấu là gần
40%. Nhưng ngay cả 25% th́ cũng vẫn
là quá cao.
Kinh tế Trung Quốc thoạt nh́n rất
lành mạnh và sôi động, và nếu bạn
chỉ nh́n vào tốc độ tăng trưởng kinh
tế th́ quả là nó rất ngoạn mục.
Nhưng tăng trưởng chỉ là một yếu tố
để đánh giá. Câu hỏi quan trọng hơn
nhiều là liệu tăng trưởng như thế có
mang lại lợi nhuận không. Phần lớn
tăng trưởng ở Trung Quốc là thực
chất, và nó tạo ra số tiền cần thiết
thỏa măn các ngân hàng. Song sự tăng
trưởng này không làm cho nền kinh tế
mạnh lên. Và nếu có vấn đề, ví dụ
như có việc Hoa Kỳ suy thoái, th́
toàn bộ hệ thống sẽ đổ sụp nhanh
chóng.
Đây không phải là một câu chuyện mới
ở Châu Á. Nhật Bản đă từng phát
triển như vũ băo những năm 80. Nhiều
người đánh giá nó sẽ sớm chôn vùi
Mỹ. Nhưng thực tế, nền kinh tế Nhật
phát triển rất nhanh nhưng tỉ lệ
tăng trưởng không bền vững. Khi tốc
độ tăng trưởng giảm mạnh, Nhật Bản
đă gặp phải một cuộc khủng hoảng
ngân hàng khổng lồ mà gần hai mươi
năm sau nước này vẫn chưa hoàn toàn
hồi phục lại. Tương tự như thế, kinh
tế Đông Á bùng nổ năm 1997 khiến rất
nhiều người nhạc nhiên bởi các nền
kinh tế phát triển quá nhanh. Trung
Quốc đă phát triển đột phá trong 30
năm qua. Cho rằng tốc độ tăng trưởng
như vậy có thể duy tŕ vô thời hạn
là vi phạm những nguyên tắc kinh tế
cơ bản. Ở một số điểm, chu kỳ kinh
doanh cần phải triệt tiêu những kẻ
kinh doanh kém. Ở một số điểm khác,
thiếu lao động có tay nghề cũng
khiến tăng trưởng bị tŕ hoăn. Có
những giới hạn cho cơ cấu tăng
trưởng, và Trung Quốc đang tiến dần
đến những giới hạn đó.
Khủng hoảng chính trị Trung Quốc
Nhật Bản giải quyết những vấn đề của
nó bằng một thời ḱ tăng trưởng thấp
và kỷ luật chính trị xă hội để làm
được điều này mà không gặp phải t́nh
trạng bất ổn. Đông Á giải quyết
khủng hoảng bằng hai cách. Một số
nước như Hàn Quốc và Đài Loan áp đặt
những biện pháp đau đớn để thoát
khỏi khủng hoảng c̣n mạnh mẽ hơn
trước đó, nhưng biện pháp này chỉ có
thể dùng khi họ đă là các quốc gia
mạnh. Một số nước như Indonesia, đă
không bao giờ có thể phục hồi được
như trước.
Vấn đề của Trung Quốc thuộc về chính
trị. Trung Quốc gắn kết với nhau
không phải bởi ư thức hệ mà bằng
tiền. Khi kinh tế suy thoái và tiền
ngừng "chảy", không chỉ ngân hàng co
rút, mà toàn bộ xă hội Trung Quốc
cũng bị rùng ḿnh. Ḷng trung thành
ở Trung Quốc có được hoặc bằng tiền
hoặc bởi cưỡng chế. Kinh doanh đ́nh
trệ có thể dẫn đến sự mất ổn định
bởi chúng gây ra phá sản và thất
nghiệp. Trong một đất nước mà nghèo
đói và thất nghiệp tràn lan, nếu
cộng thêm áp lực của suy thoái kinh
tế th́ tất yếu sẽ gây ra bất ổn
chính trị.
Nhớ lại khi Trung Quốc chia cắt
thành vùng ven biển và vùng nội địa
dưới thời thực dân Anh đô hộ và
chiến thắng của Mao Trạch Đông. Các
doanh nghiệp ở vùng ven biển với lợi
nhuận từ ngoại thương cố gắng thoát
khỏi chính quyền trung ương. Họ đă
lôi kéo những đế quốc phương Tây và
Mỹ - những người có lợi ích kinh tế
ở Trung Quốc vào. T́nh trạng hiện
nay cũng có khả năng trở nên giống
như vậy. Một thương nhân Thượng Hải
có cùng lợi ích với Los Angeles, New
York và London.
Thực tế, anh ta kiếm được nhiều từ
những mối quan hệ này hơn là mối
quan hệ với Bắc Kinh. Khi bị Bắc
Kinh cố gắng kiểm soát, anh ta sẽ
không chỉ muốn thoát khỏi sự kiểm
soát, mà c̣n cố gắng lôi kéo những
thế lực ngoại quốc nhằm bảo vệ chính
ḿnh cũng như lợi ích của họ. Trong
khi đó, những người dân nội địa càng
nghèo th́ lại càng cố di cư đến các
thành phố ven biển, hoặc gây áp lực
buộc Bắc Kinh đánh thuế các vùng ven
biển và rót tiền về lại cho vùng nội
địa. Bắc Kinh mắc kẹt ở giữa, suy
yếu và mất kiểm soát hay bị ḱm kẹp
quá chặt khiến nó buộc phải quay lại
chủ nghĩa bao vây cô lập như dưới
thời Mao.
(...) Một tương lai thực sự cho
Trung Quốc vào năm 2020 chính là lặp
lại cơn ác mộng cũ - đất nước bị
chia nhỏ bởi những lănh đạo các khu
vực cạnh tranh lẫn nhau, những thế
lực ngoại quốc lợi dụng cơ hội thiết
lập những khu vực họ có thể áp đặt
những quy định kinh tế có lợi, và
chính quyền trung ương vẫn cố gắng
giữ đất nước thống nhất nhưng bất
lực. Một khả năng thứ hai là một
Trung Quốc theo chủ nghĩa Mao mới,
tập trung vào chi phí phát triển
kinh tế. Như mọi khi, kịch bản có
khả năng xảy ra nhất là tiếp tục kéo
dài t́nh trạng hiện tại vô thời hạn.
Mai Dương lược dịch