Nói Với Các Bạn Trẻ Về Sự Thật Ở Việt Nam
L.S.
Nguyễn Hữu Thống
Sự Thật Xă Hội
Cố Trung Tướng Trần Độ nguyên là
Trưởng Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung
Ương Đảng CS. Ông dành cả cuộc đời
đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc và dân chủ hóa đất nước. V́
bất đồng chính kiến, ông bị Đảng
khai trừ năm 1999. Tháng 6-2001, ông
bị công an tước đoạt cuốn Nhật Kư
Rồng Rắn (Cuối năm Th́n 2000, đầu
năm Tị 2001). Con chim bay đi tiếng
hót thiết tha, con người ra đi nói
lời minh triết. Sau đây là trích dẫn
những nhận định trong cuốn Nhật Kư
của ông về chế độ mệnh danh là Xă
Hội Chủ Nghĩa.
Độc Tài Toàn Trị
Nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn
cả là chuyên chính tư tưởng. Những
điều luật quy các tội có hại cho lợi
ích cách mạng, nói xấu chế độ, nói
xấu lănh đạo v...v... để đàn áp tàn
khốc mọi tiếng nói.
Nền chuyên chính vô sản làm tê liệt
toàn bộ đời sống tinh thần của một
dân tộc, nô dịch con người thành
những con rối chỉ biết nhai như vẹt
các nguyên lư bảo thủ, giáo điều làm
cho giáo dục khô cứng, các hoạt động
văn học nghệ thuật nghèo nàn.
Nền chuyên chính tư tưởng là tổng
hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy
Hoàng và của các chế độ phát xít,
độc tài. Nó tàn phá cả một dân tộc,
hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ.
Nhân dân Việt Nam sau 70 năm đấu
tranh gian khổ và 30 năm chiến tranh
ác liệt đă mang lại cho đất nước một
chế độ xă hội kiểu ǵ?
Câu trả lời ngon lành như sau:
"Ta đang có một chế độ Xă Hội Chủ
Nghĩa tốt đẹp. Ai nói khác đi là
chống lại Chủ Nghĩa Xă Hội, chống
lại Đảng Cộng Sản. Nhưng người dân
thường, nhất là nhiều bậc lăo thành,
nhiều nhà trí thức và thanh niên,
đều thấy chữ Xă Hội Chủ Nghĩa thật
là vô duyên và vô nghĩa".
Sau năm 1975, hàng trăm ngàn người
không công nhận chế độ chính trị đă
bỏ đất nước ra đi. Đảng Cộng Sản
công khai tuyên bố là Đảng lănh đạo
toàn diện và tuyệt đối. Đảng quét
sạch các Đảng Việt Quốc, Việt Cách,
vận động và ép buộc hai đảng đồng
minh trong Mặt Trận Tổ Quốcù là đảng
Dân Chủ và đảng Xă Hội phải tự giải
thể với lư do "đă hoàn thành sứ mệnh".
Nói Một Đường Làm Một Nẻo Đặc điểm
bao trùm của chế độ chính trị xă hội
này là nói một đàng làm một nẻo. Nói
th́ dân chủ v́ dân, mà làm th́
chuyên chính phát xít, nghĩa là nói
dối, nói láo, lừa bịp, "nói vậy mà
không phải vậy". Đặc điểm này tạo ra
một xă hội dối lừa, lănh đạo dối lừa,
Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn
giả dối, bằng cấp giả dối, giáo dục
dối lừa, đến gia đ́nh cũng lừa dối.
Điều dă man và tàn bạo nhất là độc
tài ư thức hệ. Bất cứ một khác biệt
nào đều bị quy là chống đối, là phản
động, là tội phạm. Hệ quả của chế độ
này là trong xă hội không ai dám nói
khác, dám có ư nghĩ khác, dù có nghĩ
một đàng cũng phải nói một nẻo. Như
vậy xă hội bao trùm sự giả dối, lừa
bịp, sợ hăi, tê liệt về tư duy và
t́nh cảm. Đó là một chế độ lưu manh
hóa xă hội, bần cùng hóa nhân dân,
và nô lệ hóa con người. V́ vậy chế
độ không phải là dân chủ Xă Hội Chủ
Nghĩa mà là một chế độ xă hội phản
dân chủ.
Điều rơ nhất là Đảng đưa ra Hiến
Pháp 1992, nhân dân phải chấp nhận
Điều 4 và phải chịu sự lănh đạo duy
nhất của Đảng Cộng Sản.
Tự Do Là Ch́a Khoá Của Phát Triển
Điều quan trọng nhất cho đất nước
hiện nay là t́m ra con đường phát
triển đất nước cho mau chóng thoát
khỏi nghèo khổ, lạc hậu. Năm 1975,
ta thu lại một nửa nước no đủ và đầy
hàng hóa, thế mà đến những năm đầu
của thập kỷ 80, cả nước đói nghèo,
ngắc ngoải. Xem quanh ta Đài Loan,
Đại Hàn, Singapore, Thái lan và
Malaysia, mấy nước này có do chủ
nghĩa Mác Lênin hướng dẫn không? có
một đảng Cộng Sản theo Chủ Nghĩa Xă
Hội không? Thế mà cả 5 nước ấy khi
bắt đầu c̣n nghèo khổ, vậy mà chỉ
sau khoảng 20-30 năm đă trở thành
những nước phát triển, nhân dân có
đời sống khá phong lưu.
Muốn cho đất nước phát triển nhanh
th́ cần phải làm sao cho mọi người
dân đều được tự do làm ăn, nông dân,
thương nhân, nhà doanh nghiệp, công
nhân, nhà khoa học, trí thức văn
nghệ sĩ, tất cả đều phải được tự do.
V́ tự do là ch́a khóa của phát triển.
Bây giờ chỉ c̣n lại có bốn nước theo
chủ nghĩa Mác Lênin và Chủ Nghĩa Xă
Hội. Trong đó nước lớn nhất và quan
trọng nhất th́ miệng nói chủ nghĩa
Mác Lênin, nhưng đă đưa đất nước
tiến lên theo kiểu "có màu sắc Trung
Quốc". Họ phải chơi với Mỹ, xác định
vai tṛ kinh tế tự do và kinh tế tư
nhân. Có người nói cách mạng Xă Hội
Chủ Nghĩa ở Nga thành công và Liên
Xô ra đời là sự kiện quan trọng nhất
của thế kỷ 20. Vậy th́ sự sụp đổ của
cái "quan trọng" ấy lại càng "siêu
quan trọng".
Khi đất nước đă chuyển sang ḥa b́nh
xây dựng th́ cần có một bộ máy quản
lư xă hội phù hợp với cuộc sống đời
thường. Cần có 4 thứ như bốn bánh xe
của một cỗ xe:
1) Một xă hội công dân
2) Một nền kinh tế thị trường hoàn
chỉnh chứ không định hướng ǵ lôi
thôi
3) Một nhà nước pháp quyền
4) Một nền dân chủ đầy đủ Bộ máy
quản lư xă hội ấy là một bộ máy dân
chủ. Khi dân có dân chủ th́ dân phải
"dùng" cái quyền dân chủ đó, dùng
không phải là "lợi dụng".
Đảng Cộng Sản Sẽ Phải Chịu Tội Trước
Lịch Sử
Sự thật của mấy chục năm qua là:
Cuôc cách mạng ở Việt Nam đă xây
dựng nên một xă hội nhiều bất công,
nhiều tệ nạn, một chính quyền phản
dân chủ, chuyên chế của một chế độ
độc đảng toàn trị. Những mỹ từ được
sử dụng chỉ để củng cố sự cầm quyền
của đảng Cộng Sản, biến đảng Cộng
Sản thành một tầng lớp thống trị gồm
một tập đoàn quan chức chỉ muốn bóc
lột, hành hạ, sai khiến nhân dân và
lừa bịp nhân dân, và lại cứ nhân
danh là "đầy tớ của nhân dân".
Sự nỗ lực của đảng Cộng Sản hiện nay
chỉ tập trung vào sự củng cố quyền
lực của Đảng. Bộ máy công tác tư
tưởng đồ sộ ngày đêm ḥ hét ca ngợi
Đảng, một bộ máy "nói lấy được", lừa
bịp, dối trá đến trắng trợn, kiểu
lưu manh. Bên cạnh đó, nảy sinh một
hệ thống an ninh đầy quyền lực và
thủ đoạn, học tập từ các chế độ
phong kiến, phát xít và độc tài cộng
sản. Tất cả nhằm bảo vệ quyền lực
của đảng Cộng Sản. Trong lúc đảng
Cộng Sản ngày càng tỏ ra kém sức lực
trong việc quản lư xă hội b́nh
thường. V́ đảng Cộng Sản chỉ quản lư
được một "xă hội trại lính".
Đảng ra sức củng cố t́nh trạng độc
đảng, chuyên chế về tư tưởng và
chính trị, tạo ra một xă hội đầy
tham nhũng, dối trá và lừa bịp.
Ngoan cố duy tŕ chế độ độc đảng và
toàn trị th́ sớm muộn nhân dân sẽ
chán ghét và do đó dẫn đến đổ vỡ,
tạo ra những tai họa khôn lường cho
đất nước và dân tộc, tai họa ấy c̣n
nặng nề gấp nhiều lần tai họa của
cải cách ruộng đất. Tai họa ấy sẽ
xóa sạch vai tṛ của Đảng trong lịch
sử và Đảng sẽ phải chịu tội trước
lịch sử.
Thực chất là chế độ rất dă man, cho
nên phải dùng nhiều thủ đoạn để lừa
bịp nhân dân như thần thánh hóa Đảng
và các nghị quyết. Điều vô lư là bắt
toàn dân phải học nghị quyết của
Đảng.
Nổi bật lên là một bộ máy độc đoán,
độc tài toàn trị, đàn áp thẳng tay
các ư kiến khác. Có một đội ngũ
"lưỡi gỗ" rất đông đảo, chuyên ngụy
biện, nói lấy được, nói bừa băi,
trắng trợn, bất chấp lẽ phải, đạo lư
và luật pháp và có lúc dùng nhiều
thủ đoạn lưu manh.
Nhân dân bị tước hết mọi quyền tự do
dân chủ. Đảng tự do yêu cầu dân đóng
góp và tự do sử dụng mọi sự đóng góp
của dân. Đảng luôn tạo ra một không
khí khủng bố đối với bất cứ ai có
chính kiến độc lập. Đảng tạo ra một
xă hội đầy tham nhũng, phản dân chủ,
đầy dối trá lừa bịp, nói một đàng
làm một nẻo, đầy thủ đoạn (nịnh
nhau, hất nhau và hại nhau). Trong
hiến pháp có rất nhiều điều về quyền
dân chủ của dân, nhưng trong đó có
ba điều dân chủ cơ bản là tự do ngôn
luận, tự do bầu cử và tự do lập hội,
th́ đều bị chôn vùi bởi những đạo
luật phản động và những thủ đoạn bỉ
ổi.
Như về bầu cử th́ có những thủ đoạn
"Đảng cử, dân bầu", "hiệp thương",
thực chất là không ai được quyền tự
ứng cử. Như về báo chí, xuất bản,
th́ những đạo luật trái ngược với
hiến pháp lại bắt buộc mọi người
phải tuân theo nghiêm ngặt. Như về
tự do lập hội th́ trong thực tế
không ai có quyền ǵ hết, v́ các thủ
tục xin phép đủ làm nản ḷng tất cả
những ai muốn lập hội .
Trong khi tuyên truyền sống theo
pháp luật th́ Đảng lại là người sống
ngoài pháp luật và sống trên pháp
luật trắng trợn nhất. Chế độ độc
đảng, độc quyền toàn trị là thủ phạm
và nguồn gốc của mọi sự lộn xộn tiêu
cực trong xă hội và t́nh trạng phản
dân chủ của đất nước.
Có thật Chủ Nghĩa Xă Hội mang hạnh
phúc cho nhân dân không? Tại sao
Liên Xô xây dựng Chủ Nghĩa Xă Hội
hơn 70 năm rồi mà không tiếp tục
đứng vững được? Các nước Đông Âu
theo Liên Xô cũng thay đổi cả. Nhân
dân ở các nước đó đều thấy bất b́nh
với chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa. Tại sao
Việt Nam có hàng triệu người bất kể
sống chết, hiểm nguy cứ ra đi t́m
đường sống ở các nước khác?
Không nên nói định hướng Xă Hội Chủ
Nghĩa mà chỉ nói dân giàu nước mạnh,
xă hội công bằng, dân chủ và văn
minh. Hết sức quan trọng là ở mấy
chữ xă hội công bằng, dân chủ. V́ đă
dân chủ th́ phải đả phá chuyên
chính, đả phá toàn trị, đả phá độc
quyền. Đường lối th́ chưa giải
quyết, chỉ mới là một sự lập lại vô
duyên các khẩu hiệu quá lỗi thời.
Đảng chỉ chấp nhận và đoàn kết với
những người giống như Đảng và nói
theo ư Đảng, coi tất cả mọi người có
ư kiến khác đều là chống đối, là
phản động. Ngay cả những đảng viên
lâu năm mà có ư kiến khác cũng bị
khai trừ và đối xử như thù địch. Như
vậy là vấn đề đường lối chưa được
giải quyết. Đất nước đang bị tụt hậu
nghiêm trọng.
Xă hội này nhiễu nhương quá thể,
người dân không được tự do. Nơi nơi
tham nhũng, cấp cấp tham nhũng,
ngành ngành tham nhũng. Người dân
đóng góp nhiều thứ, nhiều lần quá,
trong khi lương thực không đủ ăn.
Mất dân chủ mọi lúc mọi nơi, mất tự
do hơn cả khi c̣n chế độ thực dân.
Đạo đức xuống cấp, tệ nạn xă hội
ngày càng tăng, sự quan liêu bất lực
của cơ quan nhà nước đến phát sợ.
Vậy th́ xă hội dân chủ gấp triệu lần
dân chủ tư bản là ở chỗ nào?
Sau những năm 90, mô h́nh Chủ Nghĩa
Xă Hội đă thất bại, Trong khi đó Chủ
Nghĩa Tư Bản đang tự điều chỉnh và
ngày càng tiến đến hậu tư bản chủ
nghĩa. Dân Chủ Hoá Là Vấn Đề Chiến
Lược Các vị lănh đạo nói nhiều điều
tốt đẹp, là nói theo dân mà thôi.
Dân căm ghét tham nhũng th́ lănh đạo
ḥ hét "kiên quyết chống tham
nhũng". Dân yêu cầu dân chủ th́ lănh
đạo thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu
chiến lược. Nhưng nói thêm chữ th́
chưa có ư nghĩa ǵ. V́ ta vốn nói
một đàng, làm một nẻo. Người trí
thức và người dân chỉ thấy những lời
nói tốt đẹp kia là vô nghĩa.
Dân chủ hóa phải là vấn đề đường
lối, vấn đề chiến lược, vấn đề chính
trị xă hội. Yếu tố thiết yếu là một
nền dân chủ thật sự bảo đảm tất cả
mọi quyền công dân đă ghi trong hiến
pháp và các công ước quốc tế. Chủ
yếu nhất là thực hiện ngay (thực
hiện chứ không phải chỉ ban bố)
quyền tự do ngôn luận, tự do ứng cử,
tự do bầu cử, và tự do lập hội.
Phải từ bỏ độc tôn lănh đạo, xóa bỏ
chế độ độc đảng, thực hiện đa
nguyên, đa đảng.
Phải truất bỏ ngay những thủ đoạn
của các cơ quan công an như quản chế
Hà Sỹ Phu, Mai Thái Lĩnh; bắt giam
vô tội vạ Nguyễn Thanh Giang, Vũ Cao
Quận; khám nhà lấy tài liệu của Vũ
Cao Quận, Lê Hồng Hà; xâm phạm quyền
thông tin và thư tín của Hoàng Minh
Chính, Trần Độ v...v... Những hành
vi đó không chỉ mất dân chủ, phi
luật pháp, xâm phạm quyền tự do công
dân, mà c̣n là những hành vi man rợ,
vô văn hóa, bất lịch sự, rất đáng
lên án và phỉ nhổ. Trích Nhật Kư
Trần Độ (Tháng 5, 2001)
Gia Tăng Đàn Áp
Tháng 6/2001 tập Nhật Kư Trần Độ đă
bị công an cưỡng đoạt. Hành động thô
bạo này khiến ông uất ức, cơn bạo
bệnh bộc phát. Ông mất hồi tháng
8/2002. Bất chấp lời cảnh giác của
Trần Độ, sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11
tháng 9-2001, Đảng Cộng Sản lợi dụng
thời cơ leo thang khủng bố. Một
tháng sau, tháng 10/2001, họ kết án
Linh Mục Nguyễn Văn Lư 15 năm tù về
2 tội phá hoại chính sách đoàn kết
quốc gia và vi phạm quyết định quản
chế hành chánh. Năm 2001 khi hay
biết có sự nhượng đất, nhượng biển
cho Trung Cộng, các nhà trí thức trẻ
trong Nhóm Dân Chủ như Lê Chí Quang,
Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn,
Nguyễn Vũ B́nh cũng như các vị lăo
thành cách mạng như Phạm Quế Dương,
Trần Khuê đă đồng thanh tố cáo Đảng
Cộng Sản nhượng đất, bán nước cho
ngoại bang.
Để trả đũa Đảng Cộng Sản đă thẳng
tay đàn áp:
Tháng2/2002, họ bắt giữ và truy tố
Lê Chí Quang về tội tuyên truyền
chống nhà nước sau khi viết bài "Hăy
Cảnh Giác Bắc Triều!" Trong năm 2002
họ c̣n bắt giữ và truy tố thêm 8
người về tội gián điệp: Nguyễn Khắc
Toàn (tháng 1), chỉ v́ đă tổ chức
những vụ khiếu nại khiếu kiện, mít
tinh biểu t́nh tại Hà Nội để đ̣i lại
ruộng đất cho nông dân hai miền Nam
Bắc; Phạm Hồng Sơn (tháng 3), chỉ v́
đă dịch cuốn "Thế Nào Là Dân Chủ?"
từ mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ; Nguyễn Vũ B́nh (tháng
7), chỉ v́ đă gởi bản điều trần đến
Quốc Hội Hoa Kỳ tố cáo những vi phạm
nhân quyền ở Việt Nam cùng đ̣i thực
thi chế độ đa đảng, và đệ đơn thành
lập Đảng Tự Do Dân Chủ đối lập với
đảng cầm quyền; Nguyễn Vũ Việt,
Nguyễn Trực Cường và Nguyễn Thị Hoa
là 3 người cháu của Linh Mục Nguyễn
Văn Lư (tháng 10), chỉ v́ đă tàng
trữ các tài liệu nhân quyền và cung
cấp cho người Việt hải ngoại những
tin tức về vụ các Phật tử chuẩn bị
đón Ḥa Thượng Thích Huyền Quang từ
Quảng Ngăi vào Saigon; Phạm Quế
Dương và Trần Khuê (tháng 12) là hai
phát ngôn viên của Hội Nhân Dân
Chống Tham Nhũng và Nhóm Dân Chủ;
Tháng 1½002 họ kết án Lê Chí Quang 4
năm tù về tội tuyên truyền chống nhà
nước; Và tháng 12/2002 họ kết án
Nguyễn Khắc Toàn 12 năm tù về tội
gián điệp. Trong năm 2003 họ c̣n bắt
giữ và truy tố thêm 2 người về tội
gián điệp: Trần Dũng Tiến (tháng 1)
là người đă đích danh tố cáo Đỗ Mười
và Lê Đức Anh bao che tham nhũng;
Nguyễn Đan Quế (tháng 3), v́ đă tố
cáo Đảng CS giữ độc quyền thông tin;
Trong tháng 3 và tháng 6/2003, họ đă
bắt giữ và truy tố Mục Sư Nguyễn
Hồng Quang và 5 Truyền Đạo Tin Lành
về tội bịa đặt ngăn cản nhân viên
công lực hành sự;
Cũng trong tháng 6/2003 họ đă kết án
Phạm Hồng Sơn 13 năm tù về tội gián
điệp (sau giảm án c̣n 5 năm). Tháng
1½003, họ đă kết án về tội lợi dụng
quyền tự do dân chủ (thay v́ tội
gián điệp) và đă tuyên phạt: Nguyễn
Vũ Việt và Nguyễn Trực Cường 32
tháng tù; Nguyễn Thi Hoa 4 tháng 8
ngày tù; Trần Dũng Tiến 10 tháng tù;
Và tháng 12/2003 họ đă kết án Nguyễn
Vũ B́nh 7 năm tù về tội gián điệp.
Qua tháng 7 năm 2004 họ đă kết án về
tội lợi dụng quyền tự do dân chủ
(thay v́ tội gián điệp), và đă tuyên
phạt: Phạm Quế Dương và Trần Khuê 19
tháng tù; Nguyễn Đan Quế 30 tháng
tù. Và tháng 1½004 họ đă kết án Mục
Sư Nguyễn Hồng Quang 3 năm tù về tội
thường phạm bịa đặt "ngăn cản nhân
viên công lực hành sự" thay v́ tội
lợi dụng quyền tự do tôn giáo hay
tội gián điệp. Trước đó 2 tháng,
ngày 15/9/2004, Chính Phủ Hoa Kỳ đă
liệt kê Việt Nam vào danh sách các
quốc gia cần phải đặc biệt lưu tâm,
v́ đă thường xuyên và thô bạo vi
phạm quyền tự do tôn giáo. Muốn
tránh tiếng đàn áp tôn giáo, Viện
Kiểm Sát đă viện dẫn tội thường phạm
chống lại nhân viên công lực.
Như vậy từ tháng ½002 đến tháng
1½004, Đảng CS Việt Nam đă truy tố
và kết án 12 tù nhân chính trị và tù
nhân tôn giáo bằng những tội danh
bịa đặt, giả tạo và lố bịch.
Sự Thật Lịch Sử
Như Trần Độ đă viết, người Cộng Sản
nói một đàng làm một nẻo. Họ đưa ra
những mục tiêu lư tưởng để giành
chính nghĩa và cướp chính quyền. Từ
thập niên 1940 những khẩu hiệụ tuyên
truyền được phổ biến là: đoàn kết
quốc gia, độc lập thống nhất, tự do
hạnh phúc, công bằng xă hội, người
cày có ruộng, ḥa hợp dân tộc, bảo
vệ tổ quốc v...v... Tuy nhiên thay
v́ thực thi nguyện vọng của người
dân, Đảng CS đă hành động trái
ngược. Sự thật lịch sử đă chứng minh
điều đó.
Đoàn Kết Quốc Gia
Sau Thế Chiến II, Thế Giới Dân Chủ
không chịu trao Đông Dương cho Đảng
Cộng Sản Đông Dương, v́ họ không
muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt từ
Đông Âu qua Đông Á. Ngày 11-11-1945
Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng
Cộng Sản Đông Dương. Để có chính
nghiă đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh
mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng
Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh thuộc
Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng kư Tuyên
Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945. Ngày
6-3-1946, Hồ Chí Minh kư Hiệp Ước
Sainteny cho 15 ngàn quân Pháp trở
lại đồn trú tại Bắc Việt trong thời
hạn 5 năm.
Tháng 5, 1946, sau khi quân đội
Trung Hoa triệt thoái, Đảng CS thẳng
tay thủ tiêu các cán binh Quốc Dân
Đảng và Đồng Minh Hội là những đối
thủ nguy hiểm của Cộng Sản trên
đường cướp chính quyền.
Từ năm 1936, dưới thời Mặt Trận B́nh
Dân, Đảng CS hợp tác với nhóm Tân Tả
Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,
Trần Văn Thạch trong Mặt Trận Dân
Chủ. Sau khi cướp được chính quyền
năm 1945, Đảng CS phản bội giao ước
đoàn kết, và đă thủ tiêu Tạ Thu
Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch
trong nhóm Tân Tả Phái, Phạm Quỳnh,
Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo,
Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà trong các
nhóm Lập Hiến, Trương Tử Anh (Đại
Việt), Lư Đông A (Duy Dân), Khái
Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng),
Đức Huỳnh Phú Sổ (Ḥa Hảo) v...v...
Độc Lập Thống Nhất
4 năm sau Thế Chiến Thứ Hai, năm
1949, 12 nước Á Châu đă giành được
độc lập bằng đấu tranh chính trị và
ngoại giao, không bạo động và không
liên kết với Quốc Tế CS. Trong thời
gian 3 năm, từ 1946 đến 1949, tất cả
các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Anh,
Pháp, Ḥa Lan đă lần lượt tự giải
thể để trả độc lập cho các thuộc địa
Á Châu:
Năm 1946 Hoa Kỳ trả độc lập cho Phi
Luật Tân vào ngày Quốc Khánh 4 tháng
7 (Phi Luật Tân được tự trị từ
1935).
Trong những năm 1947-1948, Chính Phủ
Lao Động Anh Clement Attlee trả độc
lập cho 5 thuộc địa và giám hộ: Ấn
Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan và
Palestine. Năm 1949 Ḥa Lan trả độc
lập cho Nam Dương Năm 1946 Pháp trả
độc lập cho Syria và Lebanon. Và năm
1949 tại Điện Élysée Paris, Tổng
Thống Pháp Vincent Aureol kư 3 hiệp
định với các Quốc Vương Việt Nam, Ai
Lao và Cao Miên để trả độc lập cho
Việt Nam (8 tháng 3-1949), cho Ai
Lao (20 tháng 7-1949), và cho Cao
Miên (8 tháng 11-1949). Ngay từ
1947, Tổng thống Pháp đă yêu cầu
Liên Hiệp Quốc đăng kư 3 nước Việt
Miên Lào là những quốc gia độc lập.
(Coi Everyone's United Nations năm
1986, trang 332).
Tại Saigon, ngày 23-4-1949, Quốc Hội
Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ
Nam Kỳ Tự Trị để sát nhập lănh thổ
Nam Phần vào Quốc Gia Việt Nam độc
lập và thống nhất. (Coi Nguyễn Khắc
Ngữ: Bảo Đại, Các Đảng Phái Quốc Gia
và sự thành lập chính quyền quốc
gia. Có thể tham khảo thêm tại các
thư viện và văn khố tại Paris).
Mặc dầu vậy, Đảng CS đă phủ nhận
Hiệp Định Élysée v́ Hiệp Định này
không cho Đảng CS độc quyền lănh đạo
quốc gia. Và Đảng CS đă vận dụng sự
yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc để
tiếp tục chiến đấu vơ trang trong
suốt 30 năm. Từ 1949 chiến tranh
Việt Nam không c̣n là chiến tranh
giải phóng dân tộc, mà là chiến
tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế Cộng
Sản và Thế Giới Dân Chủ như Chiến
Tranh Triều Tiên (1950-1953). Trên
b́nh diện dân tộc đây là cuộc chiến
tranh vô ích, vô lư và vô nghĩa
khiến cho 3 triệu thanh niên nam nữ
đă phải hy sinh thân sống.
Tự Do Hạnh Phúc
Ngoài ra Đảng CS c̣n phản bội đồng
bào trong các mực tiêu tự do hạnh
phúc. Sau 60 năm cai trị, Đảng CS đă
biến Việt Nam thành một trong số 10
quốc gia phản dân chủ nhất thế giới
kém cả Cao Miên. V́ tại Cao Miên
không thấy có đàn áp tôn giáo, có
các báo chí độc lập và đối lập, có 3
chính đảng của Hun Sen, Ranariddh và
Rainsy, và tương đối có tự do tuyển
cử. Trong khi đó tại Việt Nam, Đảng
Cộng Sản đă tước đoạt của người dân
tất cả những quyền tự do tinh thần
và tự do chính trị như tự do tôn
giáo, tự do ngôn luận và báo chí, tự
do hội họp, lập hội và lập đảng và
tự do tuyển cử.
Về mặt kinh tế xă hội, từ một quốc
gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á trước
Thế Chiến II, Việt Nam đă trở thành
một trong những nước nghèo đói nhất
thế giới, lợi tức b́nh quân mỗi đầu
người tại Việt Nam chỉ bằng 1/3 tại
Phi Luật Tân, 1/6 tại Thái Lan, 1/10
tại Mă Lai, ½5 tại Đại Hàn, ¼0 tại
Đài Loan, 1/85 tại Tân Gia Ba. Và
đặc biệt chỉ bằng Ỏ½ tại Congo (Coi
Encyclopedia Brittannica 2001: Việt
Nam 350 mỹ kim so với Congo 680 mỹ
kim).
Thêm vào đó, những bất công và bất
b́nh đẳng xă hội trầm trọng đă gây
nên sự chênh lệch giàu nghèo quá
đáng, và lợi tức thực sự của người
dân Việt Nam trung b́nh tại nông
thôn chỉ được chừng ½ mỹ kim một
ngày.
Công Bằng Xă Hội Người Cầy Có Ruộng
Trong thập niên 1950, khi chiến
tranh c̣n đang tiếp diễn, thay v́
vận dụng toàn dân đoàn kết, Đảng CS
đă phát động đấu tranh giai cấp
trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng
đất, nói là để thực hiện mục tiêu
người cày có ruộng. Trên thực tế
Đảng CS đă không chia ruộng đất cho
bần cố nông. Năm 1958 họ áp dụng
chính sách tập sản hóa để tập trung
tất cả ruộng đất trong các hợp tác
xă thuộc quyền quản trị của Đảng và
Nhà Nước. Và người nông dân vô sản
vẫn hoàn là vô sản, không có một tấc
đất cho bản thân và gia đ́nh. Kết
quả hơn 200 ngàn trung tiểu nông (có
từ 1 hecta đến 3 hecta ruộng), bị
đôn lên hàng địa chủ, đă bị sát hại,
tù tội và tước đoạt tất cả ruộng
đất, nhà cửa, tài sản. Người cày có
ruộng là một khẩu hiệu tuyên truyền
dối trá, trắng trợn nhất của Đảng
CS.
Hoà Hợp Dân Tộc
Năm 1975, sau khi thôn tính Miền
Nam, Đảng CS đề ra chính sách ḥa
hợp dân tộc, hứa hẹn ḥa giải với
những người quốc gia phục vụ chế độ
Việt Nam Cộng Ḥa. Trên thực tế,
hàng trăm ngàn trí thức văn nghệ sĩ,
quân nhân, công chức, cán bộ đă bị
lao động khổ sai trong các trại tập
trung (hay trại cải tạo), người th́
5, 7 năm, người th́ 15, 17 năm. Mục
đích để đọa đày thân xác và hủy diệt
ư chí của tù cải tạo.
Cũng trong năm 1975, Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam, sau khi hoàn thành
sứ mệnh, đă bị giải thể để sát nhập
vào Mặt Trận Tổ Quốc.
Bảo Vệ Tổ Quốc
Năm 1958 Đảng CS công bố mục tiêu
thôn tính Miền Nam bằng vơ lực. Để
chống lại Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ
và Đồng Minh, Hà Nội cần sự cưu mang
tận t́nh của người thầy phương Bắc.
Muốn được cưu mang phải có lời cam
kết ĩđền ơn trả nghĩa. Ngày 14 Tháng
9, 1958, qua văn thư của Phạm Văn
Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng,
Chủ Tịch Nước, cam kết nhượng cho
Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Có 3 lư do được viện dẫn trong lời
cam kết này:
1) V́ Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc
tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị-
Nam Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt
Nam Cộng Ḥa. Đối với Hà Nội nhượng
Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc
trong thời điểm này chỉ là bán da
gấu.
2) Sau này, nếu do những t́nh cờ
lịch sử, Bắc Việt thôn tính được
Miền Nam th́ mấy ḥn đảo san hô tại
Biển Đông đâu có ăn nhằm ǵ so với
toàn thể lănh thổ Việt Nam?
3) Giả sử cuộc thôn tính Miền Nam
không thành, th́ việc Trung Cộng
chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa thuộc
lănh hải Việt Nam Cộng Ḥa cũng sẽ
có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia
về chiến lược, kinh tế và chính trị.
Trong những năm 1999 và 2000, giữa
lúc trời quang biển lặng, Đảng Cộng
Sản Việt Nam đă kư 3 hiệp ước để
nhượng đất, bán nước và dâng biển
cho Trung Quốc. Đó là Hiệp Ước Biên
Giới Việt Trung, Hiệp Ước Vịnh Bắc
Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá.
Đây là những hiệp ước bất công và
không cần thiết. V́ vấn đề phân ranh
lănh thổ và lănh hải Bắc Việt đă
được giải quyết từ thế kỷ 19. Năm
1885 Việt Nam và Trung Hoa kư Hiệp
Ước Thiên Tân để phân định chủ quyền
lănh thổ, và 2 năm sau, năm 1887,
lại kư Hiệp Ước Bắc Kinh để phân
ranh hải phận Bắc Việt. Hai hiệp ước
quốc tế này đă đem lại an ninh lănh
thổ cho hai quốc gia từ trên một thế
kỷ. Vậy mà ngày nay, mặc dầu không
có chiến tranh vơ trang, không có
xung đột biên giới, không có tranh
chấp hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe
lănh đạo Cộng Sản mật đàm, mật ước
và lén lút thông qua 3 hiệp ước nói
trên để nhượng 800 km2 lănh thổ biên
giới, 12.000 km2 hải phận Bắc Việt
và hiến dââng tôm cá, dầu khí cho
Trung Quốc.
Thay v́ bảo vệ Tổ Quốc, Đảng CS đă
phản bội Tổ Quốc, phản bội bằng cách
vi phạm chủ quyền lănh thổ và lănh
hải quốc gia và xâm phạm quyền của
người dân được hưởng dụng đầy đủ các
tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên
của đất nước.
Như vậy các mục tiêu chiến lược như
độc lập thống nhất, tự do hạnh phúc,
công bằng xă hội, người cày có
ruộng, đoàn kết quốc gia, ḥa hợp
dân tộc, bảo vệ tổ quốc v...v... chỉ
là những khẩu hiệu tuyên truyền dối
trá.
Tuyên truyền dối trá là vũ khí chiến
lược số 1 của CS để cướp chính quyền
và củng cố chính quyền.
Ngày nay trong giai đoạn thoái trào,
để làm lạc hướng dư luận và che dấu
t́nh trạng khủng hoảng toàn diện về
chính trị và xă hội, Đảng CS đề ra
chính sách kiều vận trong Nghị Quyết
36 do Bộ Chính Trị Đảng CS ban hành
tháng 3/2004. Nghị Quyết 36 nhắc lại
4 khẩu hiệu cũ và một khẩu hiệu thời
sự:
1) Xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đề
cao sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước (trước kia là
độc lập quốc gia, thống nhất đất
nước).
2) Đại đoàn kết toàn dân tộc (trước
kia là đoàn kết quốc gia, ḥa hợp
dân tộc).
3) Phát triển kinh tế cho dân giàu
nước mạnh, xă hội công bằng (trước
kia là ấm no hạnh phúc, công bằng xă
hội, người cày có ruộng).
4) Xây dựng dân chủ để hội nhập vào
cộng đồng nhân loại văn minh (trước
kia là xây dựng chế độ dân chủ gấp
triệu lần chế độ dân chủ tư sản tây
phương).
5) Khẩu hiệu thời sự nói là đểụ ổn
định cuộc sống, bảo hộ công dân, bảo
hộ quyền lợi chính đáng của Người
Việt Hải Ngoại, tạo điều kiện cho
Người Việt Hải Ngoại hội nhập vào
cộng đồng các quốc gia sở tại.
Tháng 6-2004, Chính Phủ Hà Nội công
bố Chương Tŕnh Hành Động "nhằm tổ
chức thực hiện thắng lợi Nghị Quyết
nêu trên của Bộ Chính Trị, góp phần
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho
cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài ổn định cuộc sống và phát
triển, giữ ǵn bản sắc dân tộc Việt
Nam, hướng về Tổ Quốc góp phần xây
dựng, bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xă hội công bằng, dân chủ, văn
minh".
Theo Trần Độ, Đảng CS nói dân chủ,
mà làm chuyên chính, người dân mất
tự do hơn cả khi c̣n chế độ thực
dân. Nói dân giàu nước mạnh, xă hội
công bằng, dân chủ, văn minh, nhưng
chỉ xây dựng một xă hội đầy bất
công, tệ nạn, tham nhũng, độc tài và
lạc hậu. Ngày nay Đảng Cộng Sản dùng
tuyên truyền để củng cố quyền lực.
Bộ máy công tác tư tưởng ngày đêm ḥ
hét ca ngợi Đảng, một bộ máy "nói
lấy được", lừa bịp, dối trá.
Phe lănh đạo Cộng Sản nói nhiều điều
tốt đẹp, là nói theo dân mà thôi.
Dân căm ghét tham nhũng th́ lănh đạo
ḥ hét chống tham nhũng. Dân yêu cầu
dân chủ th́ lănh đạo thêm chữ dân
chủ vào khẩu hiệu tuyên truyền.
Nhưng nói thêm chữ th́ chưa có ư
nghĩa ǵ. V́ Cộng Sản nói một đàng,
làm một nẻo. Trong Nghị Quyết 36,
Đảng Cộng Sản nói đổi mới nhưng lại
sợ thay đổi, sợ tiến hóa, sợ diễn
biến ḥa b́nh; nói dân chủ nhưng là
dân chủ tập trung, độc tài độc đảng;
nói b́nh đẳng dân tộc nhưng lại kỳ
thị giai cấp, kỳ thị tôn giáo, kỳ
thị sắc tộc, kỳ thị người quốc gia
theo chủ nghĩa dân tộc; nói giao lưu
văn hóa nhưng là giao lưu văn hóa
một chiều; nói yêu nước bảo vệ tổ
quốc nhưng lại phản bội tổ quốc,
không bảo vệ chủ quyền lănh thổ lănh
hải quốc gia và quyền của người dân
được hưởng dụng đầy đủ các tài
nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của
đất nước.
Chính Phủ Hà Nội hứa hẹn sẽ trích ra
700 triệu mỹ kim trong ngân sách
quốc gia để đài thọ cán bộ trong các
cơ quan, tổ chức ngoại vi và đảng
đoàn phụ trách, như Mặt Trận Tổ
Quốc, Ủy Ban Về Người Việt Nam ở
nước ngoài, Ban Tư Tưởng Văn Hóa,
Ban Dân Vận, Ban Cán Sự Đảng ngoài
nước, Hội Liên Hiệp Thanh Niên, Hội
Sinh Viên Việt Nam, Đoàn Thanh Niên
CS Hồ Chí Minh v...v... Đây là cơ
hội để dĩ công vi tư, biển thủ công
quỹ.
ChươngTŕnh Hành Động của Chính Phủ
Hà Nội gồm 9 mục tiêu công tác trong
3 kế hoạch:
1) Kế hoạch tuyên truyền với 2 công
tác:
a) Công tác thông tin tuyên truyền
đưa ra 5 mục tiêu chiến lược hay 5
khẩu hiệu tuyên truyền
b) Công tác thông tin văn hóa vận
động báo chí, truyền thông để quảng
bá chính sách đổi mới, dân chủ chính
trị, phát triển kinh tế, đối xử b́nh
đẳng, phát huy chủ nghĩa dân tộc, đề
cao tự hào dân tộc, bản sắc dân
tộc,đạo lư, truyền thống, văn hóa
dân tộc, tinh thần yêu nước, gắn bó
với quê hương v...v...
2) Kế hoạch kinh tài gồm 3 công tác:
a) Kêu gọi người Việt hải ngoại về
thăm quê hương để tài trợ thân nhân,
mua nhà sang đất, kết hôn, hồi tịch
v...v...
b) Kêu gọi trí thức, chuyên gia về
nước hợp tác, quản lư các cơ sở và
cơ quan quốc nội và quốc tế.
c) Kêu gọi các nhà tư sản về nước
đầu tư kinh doanh, hùn hợp, buôn bán
v...v...
3) Kế hoạch xâm nhập gồm 4 công tác:
a) Ổn định cuộc sống và hội nhập vào
xă hội sở tại. Bảo hộ công dân, tạo
cơ hội can thiệp, lũng đoạn, xâm
nhập để tiếp xúc, mua chuộc cảm t́nh
và chiêu dụ giới trẻ.
b) Giao lưu sinh hoạt về văn hóa,
giáo dục, thể dục, thể thao, du lịch
về nguồn, hội thảo, trại hè, tŕnh
diễn văn nghệ dân tộc v...v...
c) Truyền bá quốc ngữ cho giới trẻ,
qua sách báo, truyền thanh, truyền
h́nh, internet, lớp học v...v...
d) Thi đua, tuyên dương, khen thưởng
để gây cảm t́nh viên và kết nạp
trong các tổ chức ái hữu thân nhà
nước.
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.