Những thay đổi đáng chú ư trong giới trí thức khuynh tả
Nguyễn Hưng Quốc
Trong bài “Nguyễn
Minh Triết bị mang lên đoạn đầu đài
YouTube” (15/12/2009), tôi
có kể lại nhận xét của một người bạn
của tôi, vốn du học ở ngoại quốc từ
trước 1975 và một thời gian dài mang
tư tưởng khuynh tả, về Nguyễn Minh
Triết cũng như giới lănh đạo Việt
Nam hiện nay nói chung: “Chẳng
hiểu tại sao bây giờ họ lại ăn nói
ngu xuẩn quá vậy?”
Nhận xét ấy ám ảnh tôi khá lâu. Ám
ảnh về hai chuyện: Thứ nhất, chữ
“ngu xuẩn”, và thứ hai, về bạn tôi.
Những người chống cộng, nhất là
những người chống cộng xuất phát từ
những thù hận hay đố kỵ cá nhân chứ
không dựa trên quan điểm hay lập
trường nào nhất định, vẫn thường hay
chửi tất cả kẻ thù của họ là ngu
xuẩn. Chửi tất. Không cần chứng cứ
ǵ cả. Cứ chửi cho sướng miệng và
cho bơ ghét. Chửi, do đó, hầu hết là
chửi đổng.
Những lời chửi bới ấy có thể phản
ánh một nét tâm lư đáng kể trong xă
hội. Nhưng chúng lại có rất ít sức
thuyết phục.
Cũng không thuyết phục mấy những
tiếng chửi ít nhiều hả hê của đông
đảo dân chúng miền Nam khi chứng
kiến và chịu đựng những chính sách
kinh tế dở hơi của chính quyền Việt
Nam sau năm 1975. Cái tôi gọi là
“tiếng chửi ít nhiều hả hê” ấy thể
hiện rơ nhất qua các truyện tiếu lâm
được lưu truyền rất rộng răi ở Việt
Nam những năm đầu tiên sau "thống
nhất".
Một trong những câu chuyện tiêu biểu
nhất là:
Một hôm, có một người đàn ông đến
cổng dinh thự Lê Duẩn, tự giới thiệu
là bạn học cũ của Lê Duẩn và xin gặp
Lê Duẩn. Lính canh vào báo với Lê
Duẩn. Lê Duẩn quát lên ngay:
“Bắt thằng đó nhốt đi!” Một cán
bộ cao cấp ngồi cạnh đó, can:
“Sao vậy, đồng chí? Có ǵ th́ cứ mời
người ta vào xem sao đă?” Lê
Duẩn quát: “Nó là gián điệp đó!”.
Viên cán bộ ngạc nhiên: “Chưa
gặp người ta, sao đồng chí biết họ
là gián điệp?”. Lê Duẩn giải
thích: “Không phải gián điệp th́
là ǵ nữa? Cả đời tôi có đi học bao
giờ đâu mà có bạn học?”
Những chuyện tiếu lâm như thế, một
mặt, có thể xuất phát từ mặc cảm của
người thua trận; mặt khác, có thể
phản ánh nhận định chung trước những
chính sách không thể được xem là
khôn ngoan của chính quyền sau năm
1975.
Những chính sách ấy, một mặt, đánh
sập nền kinh tế vốn èo uột và què
quặt trong cả nước sau một cuộc
chiến tranh dài đằng đẵng; mặt khác,
làm mất hẳn niềm tin của dân chúng,
nhất là dân chúng ở phía Nam đối với
chính quyền mới, từ đó, dẫn đến
phong trào vượt biên ồ ạt của cả
hàng triệu người, trong đó, có vô số
người bị chết giữa biển cả hay bị
hải tặc cướp bóc và hăm hiếp một
cách dă man.
Người ta có thể giải thích những
chính sách thiếu khôn ngoan ấy bằng
nhiều cách khác nhau. Bằng mặc cảm
tự tôn của những người chiến thắng.
Bằng sự cuồng tín đối với lư thuyết
xă hội chủ nghĩa. Bằng việc thiếu
kinh nghiệm quản lư kinh tế, v.v…Chứ
công bằng mà nói, bất kể các chuyện
tiếu lâm phổ biến từ Nam ra Bắc, ít
người thành thực nghĩ giới lănh đạo
Việt Nam thời ấy là ngu xuẩn.
Không những không xem họ ngu xuẩn,
nhiều người, trong đó có không ít
giới trí thức, c̣n phục họ nữa là
khác. Phục kiến thức của họ: Không
thể hoài nghi được, thế hệ lănh đạo
đầu tiên của đảng Cộng sản, từ Hồ
Chí Minh đến Vơ Nguyên Giáp, Phạm
Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, v.v…
vốn là những trí thức uyên bác trên
nhiều mặt. Phục chiến lược và chiến
thuật của họ trong việc thâu tóm
quyền hành và duy tŕ quyền hành từ
năm 1945 về sau. Phục cách thức
tuyên truyền của họ, suốt mấy chục
năm, lừa gạt được gần như cả thế
giới để mọi người tin tưởng vào
chính nghĩa họ đang theo đuổi và vào
sự hiện hữu độc lập của cái gọi là
Mặt trận Giải phóng miền Nam. Phục
những kế hoạch phục binh của họ sau
Hiệp định Genève và những tṛ gián
điệp họ cài vào hệ thống quyền lực ở
miền Nam. Ngay chiến thắng gịn giă
của họ trong hai trận chiến chống
lại Pol Pot và Trung Quốc trong năm
1978 và 1979 cũng khiến nhiều người
khâm phục.
Không đồng ư, vẫn khâm phục. Không
thích, vẫn khâm phục. Phục, hơn nữa, sợ, nên nhiều trí
thức nhận cái phần ngu về cho ḿnh.
Khoảng cuối thập niên 1970 và đầu
thập niên 1980, trước phong trào
vượt biên ào ạt, nhiều trí thức ở
lại Việt Nam tự nhận họ là những tín
đồ của chủ nghĩa 3N: Ngu, Nghèo và
Nhát. Nhát v́ sợ những nguy hiểm
trên con đường vượt biên. Nghèo v́
không đủ tiền, đủ vàng để vượt biên.
Nhưng c̣n Ngu? Ngu v́ bị lừa. Nhiều
người bày tỏ cảm giác bị lừa của
ḿnh qua câu thơ:
Ở xa, anh tưởng Thuư Kiều
Đến gần lại hóa người yêu Chí Phèo.
Nói một cách tóm tắt, trí thức, nhất
là giới trí thức ít nhiều có thiện
chí hợp tác với chính quyền để làm
một cái ǵ đó có lợi cho đất nước
sau chiến tranh, có thể bất đồng với
giới lănh đạo Việt Nam về nhiều
chuyện liên quan đến chính sách
nhưng thường không lên tiếng phê
phán họ là ngu xuẩn.
Trong đám trí thức ấy, chắc chắn có
bạn tôi.
Là một trong những thanh niên thuộc
loại may mắn nhất ở miền Nam trước
năm 1975, anh đi du học sớm. Ra nước
ngoài, về chính trị, t́nh cảm của
anh nghiêng hẳn về miền Bắc. Biến cố
tháng Tư 1975 bị gia đ́nh anh ở Sài
G̣n xem như một tai hoạ, với anh lại
là một niềm vui. Bất chấp những phản
đối từ gia đ́nh, anh hết ḷng ủng hộ
chính quyền mới ở Việt Nam với tất
cả nhiệt t́nh và ngưỡng mộ.
Ai nói về chuyện vượt biển, anh cũng
đều gạt đi. Ai than thở về sự vất vả
trong đời sống sau 75, anh cũng đều
gạt đi. Lúc nào anh cũng chầm chập
bênh vực chính quyền. Anh nêu nhiều
lư do để biện hộ cho những khó khăn
và lạc hậu của Việt Nam. Anh tin
tưởng một ngày nào đó những khó khăn
và lạc hậu ấy sẽ được khắc phục và
vượt qua. Anh quan niệm vai tṛ
chính của trí thức, nhất là trí thức
hải ngoại, không phải là lên án hay
phê phán chế độ trong nước, mà là
giúp đỡ Việt Nam phát triển qua các
dự án nghiên cứu có tầm quốc tế mà
họ làm trung gian.
Tôi phải thành thật ghi nhận điều
này nữa: Có một thời gian, những trí
thức như anh không phải ít. Trong
đó, tôi biết, có cả những người từng
bị cải tạo và từng đi vượt biên.
Thế nhưng, gần đây, theo tôi, có sự
thay đổi khá lớn ở những người ấy, ở
những trí thức rất nhiều nhiệt t́nh
và thiện chí ấy.
Trên blog hay trên các bài viết của
họ, đây đó, càng ngày càng xuất hiện
nhiều những ư kiến phản đối nhà cầm
quyền, càng ngày càng nhiều những
chữ như “hèn” và “ngu” khi nhắc đến
nhà cầm quyền.
Trong những lúc tán gẫu, gần đây,
mỗi lần nhắc đến chính quyền Việt
Nam, cái câu tôi thường nghe nhiều
nhất từ họ là: “Không hiểu tại sao
bây giờ họ lại ngu đến vậy?”
Tôi hiểu tại sao họ nghĩ và nói như
vậy.
Không gọi là ngu th́ gọi là ǵ cái
việc Bộ Công Thương giao hẳn trang
mạng của Bộ ḿnh cho Trung Quốc để
họ mặc sức tuyên truyền chống phá
lại Việt Nam?
Không gọi ngu th́ gọi là ǵ cái việc
báo điện tử của đảng Cộng sản loan
tin và ca ngợi việc hải quân Trung
Quốc diễn tập ở biển Đông vốn đang
là vùng tranh chấp giữa hai nước?
Không gọi ngu th́ gọi là ǵ cái việc
giao cho Trung Quốc quyền tự tung tự
tác trong việc khai thác bauxite ở
Tây nguyên, nơi được giới quân sự
xem như một vị trí chiến lược của
Việt Nam, “ai chiếm được Tây nguyên
th́ coi như làm chủ cả Việt Nam và
Đông Dương”?
Không gọi ngu th́ gọi là ǵ cái việc
không những im thin thít trước những
sự gây hấn trắng trợn của Trung Quốc
mà c̣n ra tay trấn áp những thanh
niên trí thức yêu nước đ̣i xuống
đường lên án thái độ bá quyền của
Trung Quốc?
Ở đây, cũng cần nói ngay, chả ai
muốn có chiến tranh với Trung Quốc.
Nhưng có vô số cách để tránh chiến
tranh. Có nhiều cách vừa tránh được
chiến tranh vừa bảo vệ được quyền
lợi chính đáng và nhất là thể diện
của dân tộc. Cách tránh chiến tranh
tồi tệ và ngu xuẩn nhất là đầu hàng
ngay từ đầu để giặc muốn làm ǵ th́
làm. Tồi tệ và ngu xuẩn hơn nữa là
để cho dân chúng thấy là ḿnh hèn và
chẳng quan tâm ǵ đến chủ quyền của
đất nước cả.
Tuy nhiên, theo tôi, chuyện đáng nói
không phải là chuyện chính quyền ngu
hay khôn. Chuyện đáng nói nhất là ở
chỗ này: giới lănh đạo không giữ
được sự tin tưởng và ngưỡng mộ từ
ngay những người từng tin tưởng và
ngưỡng mộ họ.
Bất cứ thứ quyền lực chính trị hiện
đại nào cũng được xây dựng trên cơ
sở của hai huyền thoại chính: huyền
thoại về ḷng yêu nước và huyền
thoại về tài năng của những người
lănh đạo.
Quan sát thái độ của đông đảo trí
thức khuynh tả ở hải ngoại, tôi có
cảm tưởng cả hai huyền thoại ấy đều
sụp đổ.
Sau sự sụp đổ ấy là ǵ?
Thú thực, tôi không biết. Bạn đọc
thử nghĩ xem.