Những Lời Nói, Thái Độ và Hành Vi Can Đảm Để Đời
	
											
											
											
											TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
											
											
											
											Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh 
											hùng. Lịch sử  4000 năm dựng nước và 
											giữ nước đă ghi lại nhiều tấm gương 
											lẫm liệt, những lời nói can trường, 
											những thái độ hào hùng của những anh 
											hùng hào kiệt, những anh thư cao quư 
											làm rạng danh người Việt Nam. Nếu 
											không có những tấm gương can đảm, hy 
											sinh, đất nước Việt Nam không có hy 
											vọng đứng vững mà đă bị ngoại bang 
											và các thế lực đen tối vùi dập, đô 
											hộ. Những tấm gương bất khuất có thể 
											là một lời nói uy dũng, một thái độ 
											uy nghi, hào sảng, một hành vi vô uư 
											không biết sợ. Tất cả đă làm nên cá 
											tính  và bản chất bất khuất, hào 
											hùng cuả con người Việt Nam mà những 
											giống dân khác trên địa cầu không dễ 
											ǵ có được. Sông núi Việt Nam sẽ bền 
											vững, con người Việt Nam sẽ trường 
											tồn măi măi với thời gian bởi cách 
											ứng xử khôn ngoan, quả cảm, anh hùng 
											của người Việt Nam. Chúng ta có bổn 
											phận ôn lại những chuyện cao đẹp, 
											bất khuất này để cho con cháu noi 
											theo và làm rạng rỡ hơn nưă giống 
											ṇi cao quư Việt Nam.
											
											
											Sách “Việt Nam sử lược“ của Sử gia 
											Trần trọng Kim kể rằng:
											
	
“Năm Giáp Ngọ (34) là năm Kiến Vơ 
											thứ 10, vua Quang Vũ sai Tô Định 
											sang làm thái thú quận Giao chỉ.
											
											
											Tô Định là người bạo ngược, chính 
											trị tàn ác, người Giao Chỉ đă có 
											ḷng oán hận lắm. Năm Canh Tư (40) người ấy lại giết Thi Sách, ngựi ở 
											quận Châu Diên, (phủ Vĩnh Tường, 
											trước thuộc về Sơn Tây, nay thuộc 
											tỉnh Vĩnh Yên)
											
											
											Vợ Thi Sách là Trưng Trắc, con gái 
											quan lạc tướng ở huyện Mê Linh (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lăng, tỉnh 
											Phúc yên) cùng với em gái là Trưng 
											Nhị, nổi lên đem quân về đánh Tô 
											Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về 
											quận Nam Hải.
											
											
											Lúc bấy giờ những quận Cửu Chân, 
											Nhật Nam và Hợp Phố cũng nổi lên 
											theo về với hai bà Trưng – thị.. Chẳng bao lâu quân hai bà hạ được 65 
											thành tŕ. Hai bà bèn tự xưng làm 
											vua, đóng đô ở Mê Linh là chỗ quê 
											nhà.
											
											
											Năm Tân Sửu (41) vua Quang Vũ sai 
											Mă Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu 
											Long làm phó tướng cùng với quan lâu 
											thuyền tướng quân là Đoàn Chi sang 
											đánh Trưng vương.
											
											
											Mă Viện là một danh tướng nhà Đông 
											Hán, lúc bấy giờ đă ngoài 70 tuổi 
											nhưng vẫn c̣n mạnh, đem quân đi men 
											bờ bể phá rừng đào núi làm đường 
											sang đến Lăng bạc gặp quân Trưng 
											vương. Hai bên đánh nhau mấy trận. 
											Quân của Trưng Vương là quân ô hợp, 
											không đương nổi quân của Mă Viện, đă 
											từng đánh giặc nhiều phen. Hai bà 
											rút quân về đóng ở Cẩm khê (phủ 
											Vĩnh tường, tinh Vĩnh Yên). Mă Viện 
											tiến quân lên đánh, quân hai bà vỡ 
											tan cả. Hai bà chạy về đến xă Hát 
											môn, thuộc huyện Phúc lộc, nay là 
											huyện Phúc thọ, tỉnh Sơn tây), thế 
											bức quá, bèn gieo ḿnh xuống sông 
											Hát giang (chỗ sông Đáy tiếp vào 
											sông Hồng Hà mà tự tận. Bấy giờ là 
											ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Măo (43).
											
											
											…Hai bà họ Trưng làm vua được 3 năm, 
											nhưng lấy cái tài trí người đàn bà 
											mà dấy được nghiă lớn như thế, khiến 
											cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy 
											cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn 
											đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập 
											đền thờ hai bà để ghi tạc cái danh 
											tiếng hai người nữ anh hùng nước 
											Việt Nam ta“
(Trich "Việt Nam sử lược" tập 1 cuả Trần trọng Kim trang 39, 40)
	
											
											
											
											Chuyện Hai bà Trưng tuẫn tiết trên 
											ḍng sông Hát giang sau khi thua 
											quân Tàu Mă Viện như đoạn văn trích 
											dẫn trên của Sử gia Trần trọng Kim  
											là một chuyện mà người Việt Nam ai 
											cũng biết. Có một số người Việt Nam 
											vọng ngoại lúc nào cũng ca tụng nhân 
											quyền của Tây phương, ngưỡng mộ 
											chuyện nữ quyền được pháp luật Tây 
											phương đề cao, và từ đó tỏ vẻ dẻ 
											biũ về thành kiến trọng nam khinh nữ 
											cuả người Việt Nam nói riêng và Á 
											châu nói chung. Có bao giờ họ nh́n 
											thấy chuyện Hai bà Trưng đă lên làm 
											vua ngay từ thời kỳ đầu của nước 
											Việt Nam, trong khi ở những nước Tây 
											Phương giờ naỳ c̣n lẹt đẹt tranh đấu 
											cho nữ quyền được b́nh đẳng với nam 
											giới!
											Lịch sử là một chuyện thường được 
											lập lại. Gần 2000 năm sau, một người 
											Việt Nam yêu nước khác cũng dùng 
											ḍng nuớc sông để tuẫn tiết đền nợ 
											nước. Người đó chính là liệt sĩ Phạm 
											hồng Thái. Chuyện kể rằng người 
											tráng sĩ Phạm hồng Thái một ḿnh ôm 
											bom vào tận trong bàn tiệc của khách 
											sạn Victoria, thành phố Sa điện 
											thuộc tô giới Pháp. Ông quyết giết 
											tên thực dân Pháp Martial Merlin là 
											toàn quyền Đông Dương thời bấy giờ, 
											lúc đó hắn đang trên đường từ Nhật 
											Bản ghé Hồng Kông trước khi về Hà 
											nội. Phạm hồng Thái phải ra tay trừ 
											gian diệt bạo giải cứu quê hương 
											Việt Nam đang đau khổ khốn cùng 
											trong bàn tay cai trị khắc nghiệt 
											của thực dân Pháp.
											
											
											Hôm đó là ngày 19- 6 – 1925. Phạm 
											hồng Thái đă ném trái bom vào trong 
											bàn tiệc cuả tên Merlin nhưng tiếc 
											thay không giết được tên thực dân 
											Pháp gian ác này. Sau đó, ông bị 
											truy đuổi và cuối cùng đă nhảy xuống 
											ḍng sông Châu giang tự vẫn.Sông 
											Châu giang là con sông ngăn cách 
											giưă Hồng Kông và thành phố Quảng 
											Châu. Ông hành xử như thế để quyết 
											không dể xác thân lọt vào tay giặc.
											
											
											Hai con sông Hát giang và Châu giang 
											là nơi tuẫn tiết cuả hai nữ lưu 
											Trưng Trắc và Trưng Nhị và chàng 
											tráng sĩ dũng cảm Phạm hồng Thái. Đă 
											là người Việt Nam nếu có dịp đi trên 
											hai con sông này th́ cũng nên nhớ 
											dến tấm gương trung liệt khí phách 
											của ngướ xưa.
											
	
Lịch sử Việt Nam oanh liệt nhất ở 
											thời nhà Trần với 3 lần đánh thắng 
											quân Nguyên xâm lược. Không phải 
											ngẫu nhiên mà quân dân ta hồi ấy 
											hùng mạnh như thế. Trong những yếu 
											tố thành công đuổi giặc, có yếu tố 
											những vua quan chỉ huy hồi ấy là 
											những người dũng cảm, anh hùng.
											
											
											Khi đất nước đang bị nguy biến v́ 
											xâm lăng. Vua Thái Tông đến hỏi ư 
											kiến Thái sư Trần thủ Độ. Thủ Độ nói 
											rằng, “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, 
											th́ xin bệ hạ đừng lo!“
											
											
											Rồi đến danh tướng Trần hưng Đạo th́ 
											sách Việt Nam sử lược cuả Trần trọng 
											Kim kể lại rằng:
											
											
											“Vua Nhân Tông nghe Hưng – đạo- 
											vương thua chạy về Vạn kiếp, liền 
											ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải 
											đông (tức là Hải dương) rồi cho 
											vời Hưng – đạo- vương đến bàn tiệc, 
											nhân thấy quân ḿnh thua, trong bụng 
											lo sợ, mới bảo Hưng- đạo – vương 
											rằng, “Thế giặc to như vậy, mà 
											chống với nó th́ dân sự tàn hại, hay 
											là trẫm hăy chịu đầu hàng đi để cứu 
											muôn dân”
											
											
											Hưng – đạo –vương tâu rằng, “Bệ hạ 
											nói câu ấy th́ thật là lời nhân đức, 
											nhưng mà Tôn miếu, Xă tắc th́ sao? 
											Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hăy 
											chém đầu tôi đi đă, rồi sau sẽ hàng!” Vua nghe lời nói trung liệt như 
											vậy, trong bụng mới yên.
(Trích “Việt Nam sử lược“ tập 1 cuả Trần trọng Kim trang 139)
	
											
											
											
											Người cầm đầu là Hưng – đạo – vương 
											can đảm khí khái như vậy mà những 
											tướng dưới tay cũng không kém anh 
											hùng. Trần quốc Toản, Phạm ngũ Lăo, 
											Yết Kiêu, Dă Tượng đều là những dũng 
											tướng tài ba cả. Riêng tướng Trần 
											b́nh Trọng th́ đă lưu lại trong sử 
											sách một tấm gương trung liệt bất 
											khuất c̣n lưu đến ngàn năm sau.
											
											
											Sách “Việt Nam sử lược“ cuả Trần 
											trọng Kim kể:
											
											
											“Ở Thiên trường, Trần b́nh Trọng 
											thâư quân nhà Nguyên đă đến băi Đà 
											mạc (ở khúc sông Thiên mạc, huyện 
											Đông an, Hưng yên) liền đem binh ra 
											đánh, nhưng chẳng may bị vây, phải 
											bắt. Quân Nguyên đưa B́nh Trọng về 
											nộp cho Thoát Hoan, Thoát Hoan biết 
											B́nh Trọng là tướng khỏe mạnh, muốn 
											khuyên dỗ về hàng, thết đăi cho ăn 
											uống, nhưng B́nh Trọng không ăn, dỗ 
											dành hỏi ḍ việc nước, B́nh Trọng 
											cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi 
											rằng, “Có muốn làm vương đất Bắc 
											không?“ B́nh Trọng quát lên rằng, 
											“Ta thà rằng làm quỉ nước Nam chứ 
											không thèm làm vương đất Bắc. Ta đă 
											bị bắt th́ chỉ có một chết mà thôi, 
											can ǵ phải hỏi lôi thôi!“ Thoát 
											Hoan thấy dỗ không được, sai quân 
											đem chém."
(Trích “Việt Nam sử lược“ tập 1 cuả Trần trọng Kim trang 144)
	
											
											
											
											Lời quát khí tiết bất khuất của Trần 
											b́nh Trọng c̣n vang vọng măi đến 
											ngàn sau mà mỗi người Việt Nam mỗi 
											khi nhớ đến không ai lại không cảm 
											phục, kính trọng. Nhà Trần hồi ấy có 
											những tướng tài giỏi dũng cảm như Trần thủ Độ, Trần hưng Đạo, Trần 
											b́nh Trọng nên đă huy động được sức 
											lực cuả toàn dân Đại Việt và đă đánh 
											bại quân Nguyên xâm lược không phải 
											chỉ có một lần mà cả thảy 3 lần. 
											Chính nhà Trần đă tổ chức ra Hội 
											Nghị Diên Hồng tập hợp sức mạnh toàn 
											dân cùng đánh giặc và hào khí Diên 
											Hồng măi măi là một bài học mà dân 
											tộc Việt Nam cần phải học hỏi để đối 
											phó với nạn ngoại xâm sau nầy.
											
											
											Sau 1000 năm đô hộ giặc Tàu rồi đến 
											100 năm đô hộ giặc Tây. Dân Việt một 
											lần nữa xả thân tranh đấu cho nền 
											độc lập nưóc nhà và những tấm gương 
											đấu tranh dũng liệt lại được phơi 
											bày ra ánh sáng. Một trong những tấm 
											gương dũng liệt là gương tuẫn tiết 
											cuả quan Nguyễn tri Phương.
											
											
											Sách “Việt Nam sử lược“ của Trần 
											trọng Kim kể rằng:
											
											
											“Đến sáng hôm rằm tháng 10 năm Quí 
											dậu (1873) th́ quân Pháp phát súng 
											bắn vào thành Hà nội. Ông Nguyễn tri 
											Phương cùng với con là Pḥ mă Nguyễn 
											Lâm hoảng hốt lên thành giữ cửa Đông 
											và cửa Nam. Được non một giờ th́ 
											thành vỡ, Pḥ mă Lâm trúng đạn chết, 
											ông Nguyễn tri Phương th́ bị thương 
											nặng. Quân Pháp vào thành bắt được 
											ông Nguyễn tri Phương và quan khâm 
											phái Phan đ́nh B́nh đem xuống tàu.
											
											
											Ông Nguyễn tri Phương nghĩ ḿnh là 
											một bậc lăo thần thờ vua đă trải ba 
											triều, đánh nam dẹp bắc đă qua mấy 
											phen, nay chẳng nay v́ việc nước mà 
											bị thương, đến nỗi phải bắt, ông 
											quyết chí không chịu buộc thuốc và 
											nhịn ăn mà chết.
											
											
											Ông Nguyễn tri Phương là người ở 
											Thừa Thiên. do lại điển xuất thân, 
											làm quan từ đời vua Thánh tổ, trải 
											qua ba triều mà nhà vẫn thanh bạch, 
											chỉ đem trí lự mà lo việc nước, chứ 
											không thiết của cải. Nhưng chẳng may 
											phải khi quốc bộ gian nan, ông phải 
											đem thân hiến cho nước, thành ra cả 
											nhà cha con, anh em đều mất v́ việc 
											nước. Thật là một nhà trung liệt xưa 
											nay ít có vậy
(Trích sách “Việt Nam sử lược“ tập 2 của Trần trọng Kim trang 282, 283)
	
											
											
											
	Phải có những người đấu tranh và 
											chấp nhận hy sinh như quan Nguyễn 
											tri Phương th́ đất nước Việt Nam mới 
											có thể trường tồn với thời gian dù 
											trải qua bao lần xâm lăng của ngoại 
											bang.
											
											
											Ở đây cũng xin nhắc câu nói để đời 
											của người anh hùng chống Pháp Nguyễn 
											trung Trực trước khi bị hành h́nh 
											bằng máy chém của Pháp, “Bao giờ 
											nưóc Nam hết cỏ mọc th́ lúc đó mới 
											hết người Nam chống Tây“. Một câu 
											nói đă lột tả hết tinh thần bất 
											khuất muôn đời chống ngoại xâm của 
											dân tộc Việt Nam.
											
											
											Đến đầu thế kỷ 20 th́ cuộc đấu 
											tranh chống quân Pháp xâm lược vẫn 
											tiếp diễn với thêm nhiều gương đấu 
											tranh sáng ngời khác. Một trong 
											những người trẻ đă để lại dấu ấn 
											trong ḍng lịch sử đấu tranh cuả dân 
											tộc Việt là Nguyễn thái Học. Ông 
											đúng là loại người tài không đợi 
											tuổi. Ông sinh ngày 1 tháng 12 năm 
											1902. Ông thành lập tổ chức Việt Nam 
											Quốc Dân Đảng năm 1927 và lănh đạo 
											cuộc khởi nghiă Yên Bái năm 1930. 
											Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, ông và 
											12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng 
											bị Pháp giải từ ngục thất Hoả Ḷ lên 
											Yên Bái sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 
											1930 để rồi tất cả 13 người thanh 
											niên yêu nước này bị xử tử bằng máy 
											chém. Trước khi bị hành h́nh, tất cả 
											13 người đều hô to “Việt  Nam muôn 
											năm“. Nguyễn thái Học c̣n để lại 
											câu phương châm bất hủ khi ông dấn 
											thân vào đường đấu tranh: “Không 
											thành công th́ thành nhân.”
											
											
											Nếu trong hàng ngàn năm chống ngoại 
											xâm có hàng trăm gương đấu tranh anh 
											dũng th́ trong thời gian đất nước bị 
											nội xâm tức thời gian bị Cộng sản 
											lănh đạo cầm quyền, lại xuất hiện 
											những gương đấu tranh kiên cường bất 
											khuất không kém thời kỳ chống ngoại 
											xâm.
											
											
											Một trong những khuôn mặt rắn rỏi, 
											cương nghị đă mạnh dạn phê phán 
											những sai trái của Công sản lúc 
											chúng mới manh nha điều động toàn 
											dân chống Pháp là nhà văn Phan Khôi. 
											Cụ sinh năm 1887 tại làng Bảo An, 
											huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông 
											thân sinh ra cụ là Phan Trân, trước 
											làm tri phủ phủ Điện Khánh, sau từ 
											quan về làm nghề dạy học. Bà mẹ cụ 
											Phan Khôi là con gái quan Hoàng 
											Diệu, nguyên Tổng đốc Hà nội, có lần 
											đă đi sứ sang Tây ban nha và Anh cát 
											lợi. Cụ Hoàng Diệu tuẫn tiết khi 
											thành Hà nội bị lọt vào tay Henri 
											Riviere năm 1882.
											
											
											Cụ theo Việt Minh kháng Pháp nhưng 
											Phan Khôi chỉ tán thành cuộc kháng 
											chiến chống Pháp nhưng cụ rất ghét 
											Việt Minh. Hồi 1951, cụ làm bài thơ 
											ví cuộc kháng chiến như hoa hồng và 
											ví Việt Minh như gai. Đại ư cụ nói 
											cụ v́ yêu kháng chiến mà phải phục 
											ṭng Việt Minh. Bài thơ như sau:
	
											
											
											
											HỒNG  GAI
											
											
											Hồng nào hồng chẳng có gai
											
											
											
											
	Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa
											
											
											Là hồng th́ phải có hoa
											
											
											Không hoa chỉ có gai mà ai chơi ?
											
											
											Ta yêu hồng lắm hồng ơi !
											
											
											Có gai mà cũng có mùi hương thơm
											
											
											                                     (16- 3- 1951)
	
											
											
											
											Muà thu 1956 cụ viết bài “ Phê b́nh 
											lănh đạo văn nghệ Đảng “ trong Giai 
											phẩm muà thu. Bài này gây nên sự 
											tranh căi gay gắt giữa trí thức miền 
											Bắc với Đảng. Để nới rộng cuộc đấu 
											tranh sang lĩnh vực chính trị, cụ 
											Phan Khôi  nhận đứng ra làm chủ 
											nhiệm kiêm chủ bút báo Nhân Văn sau 
											khi được những người trong ban biên 
											tập báo như Lê Đạt, Hoàng Cầm,Trần 
											Dần,  Trần Duy, Nguyễn hữu Đang đề 
											nghị. Để tỏ ư chí đấu tranh đến 
											cùng, cụ làm bốn câu thơ
	
											Nắng chiều tuy có đẹp
											
											
											Tiếc tài gần chạng vạng
											
											
											Mặc dù gần chạng vạng
											
											
											Nắng được th́ cứ nắng
											                              
	
											
											(1956)
	
											
											
											
											Báo Nhân Văn ra được vài số, gây 
											được tiếng vang rất lớn trong công 
											luận th́ Đảng ra tay trừng trị những 
											nguó chủ trương ra báo này và ngay 
											cả những người có đăng bài trong 
											baó. Một số bị vào tù, một số bị trù 
											dập bao vây kinh tế khốn đốn đủ mọi 
											bề.
											
											
											Say này, có nhà văn Phạm thị Hoài 
											thu thập những ghi chép lẻ tẻ của 
											nhà thơ Trần Dần và xuất bản thành 
											cuốn sách mang tên “Ghi“  phát 
											hành ở hải ngoại. Trong cuốn sách 
											Trần Dần kể lại chi tiết những năm 
											tháng bị hoạn nạn, khủng hoảng khi 
											bị Đảng quyết tâm tiêu diệt tờ báo 
											Nhân Văn bằng cách khủng bố những 
											người liên hệ đến tờ báo “phản động“ này. Trong đó, Trần Dần có kể lại 
											chuyện khi trong t́nh trạng rối rắm 
											v́ bị Đảng truy bức hành hạ đủ điều 
											để đàn áp tinh thần những người làm 
											báo Nhân Văn, cụ Phan Khôi có cho vợ 
											cụ đến nhà nhà văn Phùng Cung (một 
											người có bài văn nổi  tiếng “Con ngựa già của chuá Trịnh“ đăng trên 
											báo Nhân văn) và nói với Phùng Cung 
											như sau: “Tôi già rồi. Có chuyện ǵ 
											các anh cứ đổ cho tôi“. Xem chuyện 
											đó mới thấy cái tiết tháo anh hùng 
											của cụ Phan Khôi. Cụ khẳng khái nhận 
											lấy trách nhiệm thay cho anh em khi 
											buá ŕu hành hạ cuả Đảng sắp sưả ra 
											tay trừng trị nhóm anh em Nhân văn.
											
											
											Trần Dần ghi lại rơ ràng chuyện này 
											như sau:
											
											
											“29 – 4
											
											
											Phùng Cung
											
											
											Nhục lắm. Mẹ nó. Ḿnh xin về nhà có 
											được không nhỉ? Mẹ nó. Có những 
											thằng nó không bằng một thằng đồ gàn 
											phong kiến nữa! Phan Khôi chẳng 
											hạn. Hắn cho vợ hắn gặp tôi, nhắn 
											rằng, “Tôi đă nói ǵ với anh, anh 
											cứ tố ra hết đi. V́ tôi th́ già rồi, 
											mà anh th́ c̣n trẻ!“ Mẹ nó, nhục 
											quá. Anh bảo nên thế nào? Có nên 
											xin ra biên chế không?
											
											
											Tôi nh́n Phùng Cung, ái ngại cho anh 
											quá. Đâu như trong khi học tập, anh 
											ta “hỗn“ quá, bị đuổi khỏi lớp 
											làm sao ấy.. Tôi khuyên anh, rằng 
											nên đầu hàng đi; rằng chỉ có một con 
											đường, “họ” là chân lư, ḿnh đầu 
											hàng là phải; rằng không nên xin ra 
											biên chế, lúc này làm việc ấy là một 
											sự tiến công của tư tưởng thù địch; 
											rằng không nên coi là nhục, oan ức 
											ǵ nữa, mà cứ nghĩ lại xem tổng cộng 
											cái bồ chữ ḿnh đă chửi vào lănh đạo 
											nó to như thế nào, c̣n oan và nhục 
											ǵ nữa?
											
											
											Phùng Cung xem ư không thông ǵ lắm. 
											tôi thấy khổ! Một con người có cái 
											gan “tử v́ đạo“ là Phùng Cung, 
											than ôi, cái đạo mà anh chưa tỉnh 
											ngộ ra hử anh?
(Trích trong sách “Ghi“ của Trần Dần trang 253, nhà xuất bản Văn Nghệ , Hoa kỳ)
	
											
											
											
											Phải nh́n thấy hành động can đảm của 
											Phan Khôi đứng ra nhận tội thay cho 
											Phùng Cung trong nhóm Nhân văn là 
											một hành động rất anh hùng. Ông nh́n 
											thấy cơn băo truy bức hành hạ của 
											Đảng sắp đổ tới nhưng ông không trốn 
											chạy như loâi người phàm phu tục tử 
											yếu hèn khác mà vẫn đứng uỡn ngực 
											ra nhận tội thay cho anh em. Một con 
											người như thế xứng đáng gọi là một 
											nguời quân tử, anh hùng. Phan Khôi 
											xứng đáng là cháu ngoaị cuả vị quan 
											anh hùng tử tiết Hoàng Diệu đă tuẫn 
											tiết năm xưa khi không giữ được 
											thành. Gịng máu anh hùng của Hoàng 
											Diệu  rơ ràng vẫn chảy luân lưu 
											trong huyết quản của Phan Khôi nên 
											ông mới có cách hành xử cao đẹp và 
											can đảm như thế. Ông quả là một con 
											người đáng kính và đáng ngưỡng mộ.
											
											
											Phải nói hung thần đàn áp trong vụ 
											Nhân văn giai phẩm không ai khác hơn 
											là nhà thơ Tố  Hữu. Đây là một vụ 
											án văn học biến thành một vụ án 
											chính trị. Chấm dứt vụ án là hàng 
											loạt những vụ bắt bớ, tù đày, trù 
											dập, bao vây kinh tế, quản thúc 
											những văn nghệ sĩ dính dáng đến báo 
											Nhân văn. Sau đó là sự cấm đoán 
											chuyện sáng tác kéo dài hàng mấy 
											mươi năm. Đến khi chuỵện trù dập 
											được nới tay hơn th́ những người bị 
											đàn áp đă già nua, bệnh hoạn, qua 
											đời.
											
											
											Nhá văn Hoàng Tiến phát hiện thêm 
											nguyên nhân sâu xa cuả vụ đàn áp 
											Nhân văn giai phẩm là sự đố kỵ tài 
											năng, được che đậy bằng những cuộc 
											đấu tranh tư tưởng, đấu tranh giai 
											cấp. Tố Hữu ghen tức tài thơ của 
											những thi sĩ trong báo Nhân Văn như 
											Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn, 
											Cao, Lê Đạt, Phùng Quán v.v Thơ Tố 
											Hữu khó được tôn vinh là thi ca hàng 
											đầu nếu những nhà thơ kia có cơ hội 
											sáng tác và xuất bản những bái thơ 
											tuyệt tác của họ. Thơ Tố Hữu sẽ mờ 
											dần trong bóng tối nếu đọ sức với 
											những tài thơ lừng lẫy trong báo 
											Nhân Văn, V́ vậy những tài thơ này 
											bị bắt bớ tù đầy, thơ văn bị cấm 
											xuất bản là chuyện dễ hiểu  thường 
											t́nh mà thôi.
											
											
											Trong bài viết “Nh́n lại vụ án Nhân 
											văn, giai phẩm cách đây 40 năm “viết vào tháng 9 năm 1997.. nhà văn 
											Hoàng Tiến đă thẳng thắn phân tích 
											cụ thể cái yếu kém của thơ Tố Hữu 
											đứng trên phương diện thi pháp và 
											thẩm mỹ, cách diễn đạt.
											
											
											Hoàng Tiến viết:
											
											
											“… Chân dung Tố Hữu được nhà thơ 
											Xuân Sách khắc họa bằng mấy câu  
											thần t́nh:
	
											‘Từ ấy “ trong tim ngừng tiếng hát
											
											
											Trông về “ Việt Bắc “ tít mù mây
											
											
											Nhà càng “ lộng gió “ thơ càng nhạt
											
											
											Máu ở chiến trường hoa ở đây“
											
											
											                          
											Vân vân  …và … vân  vân
	
											
											
											
											Nhà thơ Hữu Loan về quê làm ruộng, 
											thồ miá, thồ đá nung vôi, sau 30 năm 
											mới trở ra Hà nội đă thành một ông 
											già râu tóc bạc trắng. Hỏi ông đánh 
											giá về thơ Tố Hữu như thế nào? Ông 
											suy nghĩ một lát, rồi trả lời “Một 
											nhà thơ trung b́nh“.
											
											
											Tôi cho đánh giá cuả nhà thơ Hữu 
											Loan là đúng mực.
											
											
											V́ đă là một thần tượng thi ca, th́ 
											ngoài nội dung tư tưởng, c̣n phải có 
											đóng góp về phương thức biểu cảm. 
											Thơ Tố Hữu được phần nội dung tư 
											tưởng cách mạng, nhưng phần h́nh 
											thức biểu hiện không có đóng góp 
											mới. Ông sử dụng những h́nh thức 
											biểu hiện sẵn có như thể lục bát, 
											hoặc thất ngôn trường thiên hay ngũ 
											ngôn trường thiên cuả thể cổ phong. 
											Mà lục bát th́ ông không thể hơn 
											được Nguyễn Du, cũng chưa hơn được 
											Nguyễn Bính. Các cách thức biểu hiện 
											khác (gọi là thể tự do), th́ đă có 
											cả trong phong trào thơ mới giai 
											đoạn 1930-1945. Họ (những nhà thơ 
											lăng mạn) là những người đóng góp, 
											chứ ông Tố Hữu là người lập lại câu 
											thơ cuả Phạm huy Thông
	
											
											
											
											Sở bá vương ngồi yên trên ḿnh ngựa
											
											
											Đưa mắt buồn lặng ngắm chân trời xa
											
											
											Trong sương thu nhẹ đượm ánh dương 
											tà
											
											
											Quân Lưu Bang đang tưng bừng hạ trại
											
											
											                                
											(Tiếng địch sông Lô – 1935)
	
											
	
											Âm cuối câu thứ nhất Phạm huy Thông 
											gieo vần trắc, gợi h́nh một vơ tướng 
											gắn chặt với chiến mă, c̣n chiến mă 
											bám chắc xuống mặt đất, giống như 
											một khối tượng.
											
											
											Âm cuối câu hai và câu ba gieo vần 
											bằng, làm câu thơ thoát ra, ngân 
											dài, như không gian bát ngát bao la 
											trước mặt Hạng Vơ.
											
											
											Âm cuối câu thứ tư hai vần trắc liền 
											nhau (hạ trại), nghe như thấy tiếng 
											đóng cọc dựng lều của quân sĩ Lưu 
											Bang đang bao vây Hạng Vơ ở vùng Cai 
											Hạ, dẫn đến tiêu diệt đối thủ dũng 
											mănh này.
											
											
											Câu thơ của Tố Hữu
	
											Mă Chiêm Sơn buông cương và ngẫm 
											nghĩ
											
											
											Ngựa rung đầu hư mạnh giữa tàn quân
											
											
											Đồi non xa thấp thoáng đỉnh non gần
											
											
											Đă khuất phục dưới lá cờ binh Nhật
											
											
											                       (Mă Chiêm Sơn – In trong tập “Từ 
											Ấy“ xuất bản năm 1946)
	
											Âm cuối câu 1 và câu 4, Tố Hữu cũng 
											gieo vần trắc; âm cuối câu 2  câu 3 
											cũng gieo vần bằng, y hệt Phạm huy 
											Thông. Nhưng câu thơ của Phạm huy 
											Thông ăn nhập chặt chẽ giữa nội dung 
											và h́nh thức biết bao! Một thành 
											công trong nghệ thuật biểu cảm của 
											lối thơ 8 âm tiết được sáng tạo  
											trong phong trào thơ mới. C̣n h́nh 
											tượng Mă Chiêm Sơn của Tố Hữu chỉ 
											là một phiên bản vụng về. Ngay câu 
											đầu, hai từ “buông cương“ và “ngẫm nghĩ“ làm cấu trúc câu thơ 
											lỏng lẻo hẳn đi, ră rời h́nh ảnh một 
											chiến tướng, đâu c̣n có thể “đánh 
											tan xương quân Nhật một sư đoàn“. 
											Bạn hăy đọc to lên, ngâm lên nữa 
											càng hay, sẽ nhận ra rất rơ sự hơn 
											kém về tứ, về âm của cả khổ thơ, của 
											từng câu thơ, của từng lời thơ.
											
											
											Các nhà phê b́nh thường lớn tiếng 
											khen ngợi cái nhạc điệu vui vẻ, lách 
											chách của chú bé liên lạc Lượm như 
											một sáng tạo nhạc điệu trong thơ Tố 
											Hữu:
	
											Chú bé loắt choắt
											
											
											Cái xắc xinh xinh
											
											
											Cái chân thoăn thoắt
											
											
											Cái đầu nghênh nghênh
											
											
											Ca – lô đội lệch
											
											
											Mồm huưt sáo vang
											
											
											Như con chim chích
											
											
											Nhảy trên đựng vàng
	
											
											
											
											Cũng nên biết trước đó, thơ mới đă 
											miêu tả đối tượng bằng nhạc điệu, 
											như bài “Sương rơi” của Nguyễn Vỹ 
											có trước bài “Lượm“ gần 15 năm.
	
											
											
											
											Rơi sương
											
											
											Cành dương
											
											
											Liễu ngả
											
											
											Gió mưa
											
											
											Tơi tả
											
											
											Từng giọt
											
											
											Thánh thót
											
											
											Từng giọt
											
											
											Tơi bời
											
											
											Mưa rơi
											
											
											Gió rơi
											
											
											Lá rơi
											
											
											Em ơi..
											
											
											            
											(Sương rơi – 1935)
	
											
											
											
											Hơn nữa thơ Tố Hữu có khá nhiều hạt 
											sạn. Lấy như bài “Hoan hô chiến sĩ 
											Điện Biên“ (1954), ông viết:
	
											Chúng bay chỉ một đường ra
											
											
											Một là tử điạ hai là tù binh
											
											
											Có lời b́nh rằng
											
											
											Đă một mà lại hoá hai
											
											
											Một hai, hai một, khổ tai bực ḿnh
	
											
											
											
											Trong bài “Ta đi tới“ (1954), ông 
											cũng viết:
Đường ta rộng thêng thang tám thước
	
											
											
											
											Nghe buồn cười. Thênh thang mà lại 
											có 8 thước. Vả lại thơ không nên bám 
											sát lấy con số thực tế quá. Thơ cần 
											khái quát bản chất để có thể bốc 
											lên, bay lên. V́ câu thơ trên nên 
											thành một giai thoại văn học. Giai 
											thoại kể rằng nhà thơ Trần đăng Khoa 
											hồi c̣n là một chú thiếu nhi dă xin 
											phép bác Tố Hữu cho cháu được chữa:
	
											
											
											
											
	Đường ta rộng thênh thang ta bước
											
											
											Như thế câu thơ mới thơ hơn
	
											
											
											
											Thơ Tố Hữu có nhiều câu sáo ngữ. Khi 
											nghe Xít–ta- lin mất, Tố Hữu viết:
	
											Thương cha thương mẹ thương chồng
											
											
											Thương ḿnh thương một thương ông 
											thương mười
											
											
											                                            
											(Đời đời nhớ ông – 1953)
	
											
											
											
											Lại nữa:
	
											
											
											
											Yêu biết mấy, nghe con tập nói
											
											
											Tiếng đầu ḷng, con gọi Xít – ta – 
											lin
											
											
											                              
											(Đời đời nhớ ông – 1953)
	
											
											
											
											Hỡi ôi! con ḿnh dứt ruột đẻ ra, 
											tiếng đầu ḷng phải là gọi mẹ, gọi 
											bố, gọi bà, vưà dễ phát âm vưà biết 
											bao t́nh cảm thiêng liêng huyết 
											thống. Đằng này nó lại gọi tên một 
											con ngướ xa lạ nước ngoài, vả lại 
											rất khó phát âm với con trẻ Việt 
											Nam. Câu thơ chỉ có thể là giả dối, 
											nếu không tác giả là người đă để mất 
											linh hồn dân tộc.
											
											
											
											Lại câu:
Chân dép lốp mà bay vào vũ trụ
	
											
											
											
											Mới nghe tưởng rất tự hào. Suy nghĩ 
											một chút th́ thấy lố. Xét nghĩa đen, 
											vào vũ trụ không đi dép lốp được, 
											phải có một loại giày đặc biệt. Xét 
											nghĩa bóng, nó giống chuyện một anh 
											ngố, đi nhờ xe người ta lại nghĩ 
											ḿnh cũng oai như ngướ ta.
											
											
											Thố lộ t́nh yêu cũng nguyên tắc, máy 
											móc; lại có phần trịch thượng ban ơn
	
											
											
											
											Mà nói vậy: trái tim anh đó
											
											
											Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ
											
											
											Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
											
											
											Phần cho thơ, và phần để em yêu
											
											
											Em xấu hổ ; “ thế cũng nhiều anh nhỉ 
											“
											
											
											Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng 
											chí
											
											
											                             
											(Bài ca mùa xuân 61)
	
											
											
											
											Nhà thơ Nadim Hichmet, người Thổ nhĩ 
											kỳ, cũng là nhà thơ Cộng sản, ông 
											nói khác, “Cộng sản có thể chung 
											nhau nhiều thứ. Riêng má người yêu 
											th́ không chung được“
											
											
											Cô bạn giáo viên dạy văn phổ thông 
											trung học b́nh phẩm về hai câu thơ 
											cuối đoạn như sau, “Em th́ chẳng 
											việc ǵ phải xấu hổ. Em sẽ nói, “Xin lỗi. Tôi không thể yêu ông”. Đến 
											hôn nhau mà cũng c̣n phân biệt “đồng chí“ với “quần chúng“ th́ 
											không sao hiểu nổi. Có lẽ môi những 
											người đồng chí được cấu tạo bằng 
											thép, khi chạm nhau chúng kêu coong 
											coong“
											
											
											Làm duyên đấy thôi cô ạ! Khối các 
											ông Cộng sản hai ba vợ, ngoài ra c̣n 
											bồ bịch hàng đống.
											
											
											Thơ Tố Hữu được in nhiều trong sách 
											giáo khoa. Các nhà trường đều học. 
											Coi như thơ kinh điển. Bài thơ “Bài 
											ca tháng mười“ của ông, mở đầu bằng 
											khổ thơ:
	
											
											
											
											Thuở anh chưa ra đời
											
											
											Trái đất c̣n nức nở
											
											
											Nhân loại chửa thành người
											
											
											Đêm ngàn năm man rợ
											
											
											                   
											(Bài ca tháng mười – 1950)
	
											
											
											
											Từ “Anh“ ở đây viết hoa, để chỉ 
											Liên xô, người anh cả phe xă hội chủ 
											nghĩa, nơi có cuộc cách mạng tháng 
											10. Tôi không lấy cái chuyện Liên xô 
											bây giờ tan ră để bắt bẻ tác giả. 
											Tôi cứ cho cách mạng tháng 10 là một 
											sự kiện đáng ca ngợi. Nhưng ca ngợi 
											làm sao cho người ta nghe được, 
											không cho ḿnh là quá lời,là tâng 
											bốc. Lại không được miệt thị dân tộc 
											ḿnh và miệt thị các dân tộc khác. 
											Giữ được tinh thần b́nh đẳng tỉnh 
											táo của người cầm bút. Xin hỏi tác 
											giả bài thơ: Vậy trước cách mạng 
											tháng 10, những giá trị nhân bản của 
											nước Nga như Puchkine, Tolstoi, 
											Tchekhov..là chửa thành người ư? và 
											man rợ cả ư? Lại c̣n những 
											Shakespeare, Byron của Anh, 
											Voltaire, Rousseau của Pháp, Goethe 
											của Đức, Tagore của Ấn độ, Lư Bạch, 
											Đỗ Phủ của Trung quốc.. đều chửa 
											thành ngướ cả ư? Rồi những giá trị 
											nhân văn của chúng ta như Nguyễn 
											Trăi, Nguyễn bỉnh Khiêm, Nguyễn 
											Du..cũng chửa thành người ư? Tụng ca 
											như vậy là lối bốc đồng của một thứ 
											kiến thức loại học sinh phổ thông, 
											nếu không muốn nói là sai lầm về 
											phương pháp tư tưởng của cán bộ cách 
											mạng.
											
											
											Người như vậy mà ở cương vị lănh 
											đạo tối cao về văn nghệ sẽ không 
											tránh khỏi khi cực tả, khi cực hữu, 
											có hại cho phong trào hơn là sự đắp 
											bồi cho phong trào phát triển…”
											
											
											Điểm đáng nói ở đây là Hoàng Tiến 
											phê b́nh Tố Hữu trong khi Hoàng 
											Tiến ở trong nước và trong lúc Tố 
											Hưũ c̣n sống. Hoàng Tiến không chờ 
											khi Tố Hữu qua đời mới viết bài phê 
											phán Tố Hữu. Đó là điểm son can đảm 
											đáng quư của Hoàng Tiến, dám đối 
											diện với người ḿnh phê phán chứ 
											trong sợ hăi tránh né.
											
											
											Trong bức thư gửi cho Trần văn Thư 
											viết ngày 20 tháng 8 năm 2001, Hoàng 
											Tiến nói rơ tại sao ông viết bài phê 
											b́nh thơ Tố Hữu lúc Tố Hữu c̣n sống:
											
											
											“Hồi ấy, các bạn thân bảo tôi rằng, 
											ông Tố Hữu tuy thôi chức rồi, nhưng 
											thế lực vẫn c̣n mạnh lắm, ông ấy vẫn 
											có thể bóp chết ông. Tôi đă trả 
											lời;, “Đấy chính là lư do tôi phải 
											viết khi ông ấy c̣n sống. Nếu để khi 
											ông ấy chết rồi mới viết, th́ người 
											sau sẽ hỏi, sao ông ấy c̣n sống, 
											không ai viết?“ Ông ấy c̣n sống 
											nghĩa là ông ấy có thể trả lời, có 
											thể phản bác, và những người ca tụng 
											thơ Tố Hữu có thể tranh luận. Đây là 
											vấn đề học thuật, nếu lư họ phải th́ 
											tôi thua. C̣n họ không phản bác được 
											những điều tôi nêu ra trong bài 
											nghiên cứu, th́ họ phải nghe theo 
											tôi. Văn chương có định luật 
											Archimede của nó, có cái công bằng 
											của nó. C̣n nếu họ dùng hành chính 
											bạo lực th́ khỏi phải nói, họ có thể 
											đày đọa tôi, nhưng họ đâu có thắng. 
											Về điều này th́ bên công an cũng đă 
											tra hỏi tôi. Họ đă cự tôi, căn cứ 
											vào đâu tôi bảo là vụ án văn học, 
											c̣n theo họ đây là vụ án chính trị 
											phản động….”
	
											
											
											
											Hoàng Tiến đă chứng tỏ ông là một 
											người cầm bút có danh dự, tự trọng 
											và can đảm khi viết bài phê phán Tố 
											Hữu lúc Tố Hữu c̣n sống chứ không 
											đợi sau khi Tố Hữu qua đời mới viết. 
											Lối hành xử quân tử đẹp đẽ đó của 
											Hoàng Tiến là một điểm son đáng được 
											bất cứ người cầm bút nào cũng nên 
											noi theo.
											
											
											Nếu Hoàng Tiến được công nhận là can 
											đảm khi phê phán Tố Hữu khi Tố Hữu 
											c̣n sống th́ có một người t́m cách 
											trích dẫn sai trái lời nói của một 
											người khi người đó qua đời. Người đó 
											là nhà trí thức thân cộng Nguyễn 
											ngọc Giao ở Pháp. Ông cố t́nh phịa 
											ra lời nói cuả điệp viên chiến lược 
											Phạm xuân Ẩn phủ nhận chuyện ông Hồ 
											chí Minh có tặng cành đào cho ông 
											Ngô đ́nh Diệm trong dịp tết 1963. 
											Điều không được lương thiện là 
											Nguyễn ngoc Giao kể lại lời của ông 
											Ẩn sau khi ông Ẩn qua đời. Chuyện 
											ông Hồ tặng cành đào cho ông Diệm là 
											chuyện có thật với nhiều nhân chứng 
											c̣n sống để làm chứng điều đó. Tất 
											cả sách báo Hà Nội đều làm lơ về 
											chuyện này, họ không dám xác nhận 
											hay phủ nhận  chuyện này v́  có thể 
											họ không biết sự thật ra sao. Vả 
											lại, họ lại không thích chuyện Chủ 
											tịch Hồ chí Minh của họ có cử chỉ 
											thân thiện đi tặng cành đào cho Tổng 
											thống miền Nam Ngô đ́nh Diệm năm 
											1963 nên tránh né vấn đề này là hơn. 
											Dĩ nhiên thứ thân cộng như Nguyễn 
											ngọc Giao cũng t́m cách phủ nhận 
											chuyện ông Hồ tặng cành đào cho ông 
											Diệm bằng cách gian xảo phịa ra lời 
											cuả Phạm xuân Ẩn bác bỏ chuyện tặng 
											cành đào. Cái gian xảo của Nguyễn 
											ngọc Giao là chỉ dám phịa lớ của Ẩn 
											sau khi Ẩn qua đời v́ Ẩn không thể 
											đội mồ sống lại mà cải chính. Cộng 
											sản tượng trưng cho sự gian dối, thứ 
											thân cộng như Nguyễn ngọc Giao cũng 
											học thói gian manh của Cộng sản, 
											viết lách dối trá chỉ nhằm bênh vực 
											cho Đảng một cách trơ tráo và vô 
											liêm sỉ.
											
											
											Trong di chúc ngày 14 
	– 8 – 1969 Hồ 
											chí Minh có nói đến chuyện ông có 
											nhờ mấy nhân viên Ủy Hội Kiểm Soát 
											Quốc Tế Đ́nh Chiến chuyển vào Nam 
											hai cành đào lớn để tặng cụ Ngô đ́nh 
											Diệm. (Xin vào www.nsvietnam.com 
											rồi bấm vào tên Trần viết Đại Hưng 
											và sau đó bấm vào bài số 114) Một 
											cách lư giải về chuyện Hồ chí Minh 
											bị mất quyền lực trong những năm 
											cuối đời… dể đọc và hiểu rơ thêm 
											chuyện này.) Những nhân chứng c̣n 
											sống như cụ Cao xuân Vỹ, thủ lĩnh 
											Thanh Niên Cộng Hoà mới đây vào cuối 
											năm 2009 đă lên đài truyền h́nh SET 
											(57.4) để xác nhận chuyện ông Hồ 
											tặng cành đào cho ông Diệm là chuyện 
											có thật. Một nhân chứng thứ hai là 
											ông cựu Thượng nghị sĩ Lê châu Lộc. 
											Năm 1963 ông Lê châu Lộc là sĩ quan 
											tùy viên của Tổng thống Diệm. Ông 
											Lộc có lê tiếng sau khi ra hải ngoại 
											cho biết ông đă tận mắt nh́n thấy 
											cành đào này. Ông Lê châu Lộc và ông 
											Cao xuân Vỹ hiện nay sống ở quận Cam 
											và có lời khuyên nhà trí thức thân 
											cộng Nguyễn ngọc Giao nên liên lạc 
											với hai ông Lộc, Vỹ để kiểm chứng về 
											chuyện cành đào xem có thật hay 
											không?
											
											
											Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ai 
											cũng biết Phạm xuân Ẩn là một điệp 
											viên t́nh báo chiến lược. Không như 
											những điệp viên khác như Vũ ngọc Nhạ 
											và Huỳnh văn Trọng bị bắt trong khi 
											làm chuyện điệp báo, Phạm xuân Ẩn 
											thành công che dấu tông tích của 
											ḿnh  trong nhiệm vụ điệp báo cho 
											đến khi Cộng sản chiếm miền Nam. Ông 
											được phong hàm thiếu tướng Quân đội 
											nhân dân Việt Nam và đă qua đời ngày 
											20 tháng 9 năm 2006 tại Sài g̣n. 
											(Xin vào www.nsvietnam.com rồi bấm 
											váo tên Trần viết Đại Hưng và sau đó 
											bấm vào bài số 91) Người gián điệp 
											vốn yêu chúng ta để đọc và hiểu thêm 
											về Phạm xuân Ẩn).. Có điều cần phải 
											nói ở đây là có một chuyện mà Phạm 
											xuân Ẩn và gia đ́nh chưa đưa ra lời 
											giải thích thoả đáng. Đó là trong 
											biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Phạm 
											xuân Ẩn quyết định ở lại Việt Nam 
											trong khi lại đưa vợ con di tản ra 
											nước ngoài. Sau đó vợ con Ẩn lại 
											quay về Việt Nam đoàn tụ với Ẩn. 
											Phóng viên Nguyễn thị Ngọc Hải đă bỏ 
											ra nhiều giờ để phỏng vấn Phạm xuân 
											Ẩn và viết một cuốn sách về cuộc đời 
											làm gián điệp của Ẩn.
											
											
											Sau khi Phạm xuân Ẩn qua đời, Nguyễn 
											ngoc Giao có viết một bài nhan đề “Gặp ông Phạm xuân Ẩn lần cuối“ đăng 
											trên mạng Diễn Đàn, trong đó có nói 
											đến chuyện ông Ẩn hoàn toàn bác bỏ 
											chuyện cành đào. Xin trích dẫn bài 
											viết:
											
											
											“Phải mấy phút sau, ông mới t́m 
											lại hơi thở b́nh thuờng. Nh́n con 
											người mảnh mai gần như trong suốt, 
											dường như một cơn gió mạnh có thể 
											cuốn đi, chỉ có đôi mất là tràn đầy 
											sinh lực như sẵn sàng “hô phong 
											hoán vũ“, tôi tự nhủ là chỉ nên hỏi 
											ông mươi, mười lăm phút và xin đặt 
											một câu hỏi ngắn thôi: Năm 1963, anh 
											em ông Diệm và ông Nhu bắn tiếng 
											thương lượng với miền Bắc là để “hù“ Mỹ chút chơi, hay họ làm thật, và 
											nếu thật, th́ sự liên lạc đă đi tới 
											đâu? Người ta đồn tết năm ấy, ở 
											dinh Độc Lập có cành đào của cụ Hồ 
											gửi tặng, ông có thể xác nhận điều 
											ấy không? Qua các tài liệu thư khố 
											cuả CIA, Bộ Ngoại giao Mỹ, cũng như 
											hồi kư của Đại sứ Ba lan Maneli, tôi 
											biết phải đến ngày 2- 9 – 1963 mới 
											có cuộc nói chuyện đầu tiên và duy 
											nhất giữa Ngô đ́nh Nhu và Maneli (ngay buổi chiều, ông Nhu lại đi khoe 
											ngay với sếp cuả “CIA  station”). Quá muộn rồi. Một tuần trước đó bức 
											điện tối mật mang số 243 đề ngày 24- 
											8- 1963 gửi Đại sứ Lodge (“eye 
											only“, Cabot Lodge đọc xong phải 
											tiêu hủy, không được quyền lưu trữ, 
											người thứ nh́ và cuối cùng được đọc 
											là Đô đốc Felt), mang chữ kư cuả 
											Harriman, Hilsman (vụ Viễn Đông), 
											Forrestal (Nhà trắng), Ball (thứ 
											trưởng ngoại giao), đă kết liễu số 
											phận hai anh em Diệm Nhu. Hồ sơ lưu 
											trữ ở Hà nội th́ không biết ngày nào 
											mới mở, trước mắt tôi chỉ c̣n hy 
											vọng ở ông v́ nếu có một người nắm 
											được bí mật của cả hai bên( đúng hơn 
											là ba bên, v́ trong vụ này, Diệm và 
											Mỹ “tuy một mà hai“, th́ đó là 
											Phạm xuân Ẩn. Biết đâu giữa Hà Nội 
											và Sài g̣n đă có những tiếp xúc thực 
											chất mà Mỹ không hay?
											
											
											Ông Ẩn trả lời không một giây do dự: 
											không có cành đào, không có ǵ hết, 
											ông Nhu “hù“ Mỹ vậy thôi.
											
											
											…Bây giờ ông mất rồi, tôi tiếc đă 
											không xin phép ghi âm cuộc nói 
											chuyện. Tiếc là tiếc vậy thôi. Tôi 
											hiểu đạo lư nghề nghiệp của ông, nên 
											không đặt ra vấn đề phỏng vấn, càng 
											không đặt ra chuyện ghi âm. Đành coi 
											“bài giảng“ ngẫu hứng của “giáo 
											sư đảo chính học“ là một bài giảng 
											về ngữ pháp, giúp tôi tự học để hiều 
											hơn“ngôn ngữ“ của cuộc chiến 
											tranh 30 năm”
											
											
											
											Để chứng minh không có chuyện cành 
											đào ông Hồ tặng ông Diệm xuân 1963, 
											ngựi anh em thân cộng Nguyễn ngọc 
											Giao trích dẫn lời của điệp viên đă 
											chết Phạm xuân Ẩn.. rồi giả vờ hối 
											tiếc là đă không thâu âm buổi phỏng 
											vấn! Chuyện cành đào là chuyện có 
											thật với hai nhân chứng sống Cao 
											xuân Vỹ và Lê châu Lộc c̣n sống ở 
											quận Cam, Hoa Kỳ, Nguyễn ngoc Giao 
											nên liên lạc ngay để  phỏng vấn hầu 
											trả lại sự thật cho lịch sửø. Nguyễn 
											ngoc Giao đă gian dối trích dẫn lời 
											của điệp viên đă chết Phạm xuân Ẩn 
											để bác bỏ chuyện không có vụ cành 
											đào ông Hồ tặng ông Diệm là một 
											chuyện làm vô liêm sỉ và gian dối. 
											V́ chế độ Cộng sản Việt Nam không 
											thích quần chúng trong và ngoài nước 
											biết chuyện này v́ sẽ làm mất uy tín 
											Hồ chí Minh nên người anh em thân 
											công Nguyễn ngọc Giao dùng cái tṛ 
											trích dẫn lời người đă chết Phạm 
											xuân Ẩn để bênh vực cho lụân điểm 
											cũa chế độ Hà Nội. Cái kiểu trích 
											dẫn lời ngướ chết một cách gian dối 
											để minh chứng cho lập luận của ḿnh 
											không phải Nguyễn ngọc Giao là người 
											đầu tiên chơi tṛ này. Trong quá khứ 
											có nhiều nhà văn, nhà báo mất tư 
											cách cũng sử dụng tiểu xảo gian trá 
											này để bảo vệ quan điểm  sai trái 
											của ḿnh. Chơi tṛ trích dẫn người 
											chết không sợ bị đối chất v́ người 
											được trích dẫn đă nằm sâu dưới mộ, 
											không thể sống dậy để căi lại.
											
											
											Nói đến chuyện chống độc tài và bất 
											công, có lẽ không thể không nhắc đến 
											nhà văn Nhất Linh Nguyễn tường Tam. 
											Ông là thủ lănh của Tự Lực văn đoàn, 
											chủ trương dùng văn chương đề nâng 
											cao dân trí, khai hoá xă hội, đánh 
											đổ những thói hư tật xấu, đồi phong 
											bại tục trong xă hội Việt Nam. Nhất 
											Linh được coi là một nhà tiểu 
											thuyết sâu sắc cảm hoá được nhiều 
											người nhất, bất kể ở giai tầng xă 
											hội nào. Ông say mê văn chương nhưng 
											không g̣ bó trong những trang giấy 
											sách. Ông đă từng thành lập dự án “Hội ánh sáng“ với ước mong xây 
											dựng một loại nhà thoáng mát, bền 
											chắc cho dân nghèo. Ông luôn quan 
											niệm là muốn cho người ta có ḷng 
											thiện th́ phải làm thế nào cho người 
											ta khỏi nghèo khổ, mà một xă hội 
											nghèo khổ th́ bao giờ cũng dễ thành 
											một xă hội xấu xa.. Đó là câu nói 
											của một nhân vật trong truyện ngắn “Đầu đường xó chợ“ của ông, nói lên 
											sự suy nghĩ của Nhất Linh trong vấn 
											đề cải tạo xă hội. Về vấn đề đạo 
											đức, ông không bị vướng mắc trong 
											những quan niệm luân lư đạo đức xưa 
											vốn ràng buộc con người bởi những 
											nguyên tắc tam cương, ngũ thường của 
											đạo Khỗng, Nho. Ông trở nên hoài 
											nghi về những giá trị cũ khi quan 
											sát sinh hoạt của xă hội, nh́n thẳng 
											vào thực tế xă hội để đề ra một 
											nguyên tắc luân lư, cư xử mới. Luân 
											lư cũ làm cho con người không được 
											sống tự do, bị ràng buộc bởi mọi 
											quan niệm cũ. Theo ông phải cải tạo 
											lại gia đ́nh và xă hội,, làm sao để 
											con người sống mà không bị chèn ép, 
											bức bách, coi như con vật. Ông mạnh 
											dạn đả phá thứ luân lư hẹp ḥi, coi 
											rẻ hạnh phúc cá nhân.
											
											
											Về chính trị, ông đă từng la bộ 
											trưởng ngoại giao trong chính phủ 
											liên hiệp mà Hồ chí Minh là chủ 
											tịch. Sáu 1954, ông di cư vào miền 
											Nam và đó là lúc ông Ngô Đ́nh Diệm 
											trở về nước, thay thế nội các Bửu 
											Lộc. Đất nưóc bị cắt làm hai, một 
											nửa miền Bắc nằm dươí sự cai trị 
											khắt khe của Việt Cộng và nửa miền 
											Nam dưới sự lănh đạo của một chính 
											thể Cộng hoà nhưng cũng thiếu không 
											khí tự do cho người dân hít thở.
											
											
											Nhà văn Trương bảo Sơn ghi lại cái 
											không khí ngột ngạt đàn áp tự do báo 
											chí của chế độ Ngô đ́nh Diệm như 
											sau;
											
											
											“Sau nữa, ngoài chế độ kiểm duyệt, 
											phản quyền tự do ngôn luận này ra, 
											chế độ Ngô đ́nh Diệm c̣n có một thủ 
											đoạn hiểm độc nữa là nhà nước giữ 
											độc quyền phát hành báo chí, kể cả 
											giai phẩm. Ngô đ́nh Diệm đă có sáng 
											kiến đặt ra Nhà phát hành Thống 
											Nhất, bắt tất cả mọi báo chí phải 
											đưa cho công sở này phân phối. Tập 
											Văn Hoá Ngày Nay bán chạy như tôm 
											tươi mấy số đầu, đă bị ế dần đi. Nhà 
											phát hành độc quyền của chính phủ đă 
											thi hành độc kế không gửi đủ số báo 
											cho các tiệm sách đă đặt mua. Chúng 
											tôi khi buộc báo thành từng bó đă cố 
											ư đánh dấu riêng, khi nhận báo từ 
											nhà phát hành về, thấy những dấu ấn 
											vẫn c̣n y nguyên, tức là nhà phát 
											hành đă không làm đúng nhiệm vụ, đă 
											giữ báo của chúng tôi trong kho, 
											không phân phối đi. Có những tiệm 
											sách đến điều đ́nh mua thẳng báo với 
											chúng tôi để có đủ báo bán, nhưng 
											chúng tôi phải từ chối, sợ bị chính 
											quyền gài bẫy. Đă nghèo lại bị thua 
											lỗ, chúng tôi đành đ́nh bản tờ Văn 
											Hoá Ngày Nay."
											
											
											(Trícb bài viết “ Những kỷ niệm 
											riêng với Nhất Linh Nguyễn tường Tam 
											“ của Trương bảo Sơn trong sách “ 
											Nhất Linh, người nghệ sĩ, chiến sĩ “ 
											do tạp chí Thế Kỷ, Hoa kỳ xuất bản, 
											trang 78).
											
											
											
											Cái chế độ kiểm duyệt khốn nạn của 
											chế độ Ngô đ́nh Diệm đă khiến cho 
											Nhất Linh không c̣n đất dụng vơ. Ông 
											không thể phát hành sách báo như ông 
											đă làm trong thời thực dân Pháp c̣n 
											cai trị Việt Nam. Sự bất măn chế độ 
											này chắc chắn đă nhem nhúm trong con 
											người Nhất Linh để rồi sau này ông 
											có tham gia vào cuộc đảo chánh năm 
											1960.
											
											
											Ngựi Pháp đi rồi, mỗi giáo phái 
											chiếm cứ một nơi, xă hội bị phân 
											hoá, rối loạn. Ông Ngô đ́nh Diệm lơ 
											là trách nhiệm nặng nề của ḿnh mà 
											dân chúng tin cậy giao phó cho để 
											củng cố uy quyển riêng tư, lo quyển 
											thế cho anh em trong gia đ́nh nên bị 
											dư luận gọi là chế độ “gia đ́nh trị“. Vụ đảo chính hụt ngày 11- 
											11-1960 do Đại tá Nguyễn chánh Thi 
											cầm đầu, thất bại nên  lưu vong qua 
											Cao Miên. Sau đó 33 chính trị gia bị 
											đày đi Côn đảo v́ có tham gia cuộc 
											đảo chánh bất thành. Nhất Linh có 
											tên trong số những người có lính líu 
											đến cuộc đảo chánh nên bị đem ra xử.
											
											
											Ngày 8- 7 – 1963 toà án quân sự được 
											thành lập để xử vụ đảo chính hụt 
	11- 11-1960 và Nhất Linh nhận được trát 
											toà đ̣i phải ra hầu ṭa. Nhưng ông 
											không hầu toà,ông quyết định dùng 
											độc dược kết liễu đời ḿnh và để lại 
											di chúc thống thiết như sau;
											
	
“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không 
											chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử 
											tội tất cả các phần tử đối lập quốc 
											gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước 
											mất về tay Cộng sản.
											
											
											Tôi chống đối sự đó và tự hủy ḿnh, 
											cũng như Hoà thượng Thich Quảng Đức 
											tự thiêu, để cảnh cáo những người 
											chà đạp lên mọi thứ tự do."
Nhất Linh Nguyễn tường Tam 7 – 7—1963.
	
											
	
											Nhất Linh không muốn ai xử ông cả 
											ngoài lịch sử. Cho đến nay, lịch sử 
											đánh giá ông là một con người yêu 
											nước thương dân, một văn hào lẫy 
											lừng trong văn chương có công xây 
											dựng nền văn hoá nưóc nhà từ thời kỳ 
											phôi thai của Việt ngữ, một nhà 
											tranh đấu xă hội tận tụy hết ḷng 
											cho công việc cải tiến dân sinh, trừ 
											tiệt cỗi rễ những sự khốn khó ở đời.
											
											
											Riêng cái chết lẫm liệt của ông th́ 
											có những lời ai điếu chính xác ca 
											ngợi như sau:
											
											
											Luật sư Dương Kiền nhận định:
Con người mang tên hai chữ Nhất Linh trong suốt cuộc đời đă không làm điều ǵ vô ích,kể cả điều mà thông thường con người không có quyền làm, là sự chết.
(Trích sách "Chân dung Nhất linh" của Nhật Thịnh trang 199)
	
											
	
											Nhất linh dùng cái chết của ông để 
											phản đối chế độ, nhà văn Trương bảo 
											Sơn, một người bạn thân thiết của 
											Nhất Linh đă phân tích cái chết đó 
											là:
											
											
											Anh đă biết thoái. Anh đă sửa soạn 
											bước thoái của anh kịp thớ đúng 
											lúc. Chết để dội thêm trái bom vào 
											cái chế độ độc tài tàn bạo của anh 
											em Ngô đ́nh Diệm, chết để thức tỉnh 
											biết bao nhiêu người nhất là giới 
											thanh niên, sinh viên và học sinh- 
											để thúc đẩy cho cuộc cách mạng toàn 
											dân sớm bùng nổ và hoàn thành. Cái 
											chết của anh cũng tuyệt hảo, cũng 
											cao cả, đẹp như sự nghiệp văn chương 
											và cách mạng của anh
(Trích sách “Chân dung Nhất Linh“ của Nhật Thịnh trang 14)
	
											
											
											
											Nhà tranh đấu nhân quyền Trần thanh 
											Hiệp đă đưa ra lời ai điếu chân 
											thành và chính xác về cái chết của 
											Nhất Linh như sau trong bài viết “Để trả Nhất Linh Nguyễn tường Tam về 
											cho lịch sử”:
											
											
											“..Để lại di ngôn“Đời tôi để lịch 
											sử xử“ ông kư tên Nhất Linh Nguyễn 
											tường Tam, một tên gọi kết hợp ông 
											chỉ mới dùng những năm cuối đời. Kết 
											hợp con người làm văn học nghệ thuật 
											và con người làm cách mạng chính 
											trị. Cái chết rất đặc biệt của ông 
											là cái chết của cả hai con người ấy, 
											hay nói đúng hơn, cả hai con người 
											này đă làm ra cái chết ngày 7- 7- 
											1963 của Nhất Linh Nguyễn tường Tam
											
											
											… Miền Nam Việt Nam đă mất vào tay 
											Cộng sản, điều Nhất Linh Nguyễn 
											tường Tam lo ngại. Tất nhiên không 
											hẳn hoàn toàn do những hành động ông 
											lên án. Nhưng lịch sử đă bắt đầu 
											việc phán xét và sẽ c̣n tiếp tục 
											phán xét. Nhất Linh Nguyễn tường Tam 
											không có ư định để lại cho đời sau 
											một thông điệp với một nội dung nhất 
											định nào. Vào cái tuổi 57 chưa hẳn 
											quá về chiều của cuộc đời,ông đă lấy 
											cái chết của ḿnh dể cảnh cáo những 
											người cầm quyền bạo ngược, ngang 
											nhiên chà đạp lên mọi thứ tự do là 
											nhân phẩm, thứ giá trị khiến cho con 
											người khác biệt được với các sinh 
											vật khác. Không phải ai cũng lấy 
											được một quyết định như vậy. Phong 
											thái lẫm liệt aư kiếm thấy trong 
											lịch sử Việt Nam hiện đại.
											
											
											Người Việt Nam có thể tự hào có một 
											nhân vật Nhất Linh Nguyễn tường Tam 
											trong lịch sử
(Trích “Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ” trang 132)
	
											
											
											
											Nh́n lại cả cuộc đời đóng góp cho 
											văn chương và xă hội  và cái chết 
											cuối đời như một hành động cảnh cáo 
											bạo quyền Ngô đ́nh Diệm  của Nhất 
											Linh, ông xứng đáng được ca tụng và 
											ngưỡng mộ như một vĩ nhân của dân 
											tộc Việt Nam.
											
											
											Sau khi những nhà văn, nhà thơ trong 
											nhóm Nhân Văn giai phẩm bị Cộng sản 
											đàn áp thô bạo bằng những biện pháp 
											tù đày, trù dập, bao vây kinh tế, 
											trong một khoảng thời gian dài trên 
											20 năm, người ta không thấy một sự 
											chống đối chế độ Cộng sản nào nữa 
											bằng ng̣i bút. Ai nấy đều nghĩ rằng 
											mọi sự phản kháng đều tàn lụi trước 
											chính sách cai trị độc ác, tàn bạo 
											của Cộng sản. Nhưng rồi khi tập thơ 
											“Hoa địa ngục“ được xuất bản ở hải 
											ngoại năm 1981 mà tác giả là một nhà 
											thơ ở miền Bắc, ai nấy đều sửng sốt, bàng hoàng về sự phản kháng 
											mạnh mẽ, dứt khoát của tập thơ. Ở 
											trong ḷng miền Bắc, tác giả tập 
											thơ dám gọi Hồ chí Minh là “con chó nhỏ” (Nó gọi Tàu Nga là cha anh 
											nó. Và t́nh nguyện làm con chó nhỏ (Bài “Không có ǵ quư hơn độc lập tự 
											do“)). Bốn ngàn câu thơ trong tập 
											thơ là bản cáo trạng đanh thép tố 
											cáo những tội ác hung hiểm của chế 
											độ Cộng sản một cách thẳng thừng 
											không xỏ xiên tránh né. Tác giả nói 
											thẳng con đường quyết liệt ông phải 
											đi
	
											
											
											
											
	Vợ con có thể bỏ
											
											
											Cha mẹ có thể từ
											
											
											Cộng sản th́ sinh tử
											
											
											Mới thoát và tự do
	
											
											
											
											Dần dần tên tuổi ông được đưa ra ánh 
											sáng. Ông tên là Nguyễn chí Thiện, 
											sinh năm 1939, ở tù tổng cộng ba lần 
											cả thảy là 27 năm. Tập thơ được ông 
											đưa vào Toà đại sứ Anh ở Hà Nội ngày 
	16 tháng 7 năm 1979 để rồi 
											sau đó được chuyển về Anh và cuối 
											cùng đưa qua Hoa Kỳ xuất bản. Tập 
											thơ đă gây chấn động khắp bốn phương 
											v́ nội dung chống cộng mănh liệt của 
											nó cũng như làm xúc động bao trái 
											tim v́ những cảnh khổ nhục, đày đọa 
											mà tác giả phải gánh chịu cùng 
											chung với những đồng bào bất hạnh 
											của ông trong những tháng năm lao tù 
											Cộng sản.
											
											
											Ngoài giá trị nghệ thuật cao, tập 
											thơ c̣n được coi là một loại sấm kư 
											của thời đại khi tác giả tiên đoán 
											sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản 
											trên toàn thế giới.
	
											
											
											
											Tôi tin chắc một điều
											
											
											Một điều tất yếu
											
											
											Là ngày mai mặt trời sẽ chiếu
											
											
											Tôi lại nghĩ một điều
											
											
											Một điều sâu thẳm
											
											
											Là đêm tàn Cộng sản tối tăm
											
											
											Có thể kéo dài hàng mấy mươi năm
											
											
											Và như thế sẽ buồn lắm lắm
											
											
											Cho kiếp người sống chẳng bao lăm!
											
	
											                                Bài “Tôi tin chắc“ ( 1969)
	
											
											
											
											Đến khi Liên xô và khối Cộng sản 
											Đông Âu sụp đổ năm 1991 th́ người ta 
											mới thấy tập thơ Hoa địa ngục có 
											tính tiên tri chính xác của thời 
											đại.
											
											
											Kèm theo tập thơ là một lá thư viết 
											bằng tiếng Pháp có đoạn như sau:
											
											
											“… Tôi nghĩ rằng không phải ai 
											khác,mà chính chúng tôi, những nạn 
											nhân có sứ mạng phải phơi bày cho 
											thế giới thấy những khổ nhục không 
											thể tưởng tượng nổi của dân tộc tôi 
											hiện c̣n đang bị áp bức và hành hạ 
											thẳng tay. Cuộc đời tan nát của tôi 
											chỉ c̣n một hy vọng là được thấy thế 
											giới ư thức rằng Cộng sản là một 
											bệnh dịch khủng khiếp của nhân loại.
											
											
											Xin ông nhận nơi đây ḷng biết ơn 
											sâu xa của tôi cũng như của những 
											đồng bào bất hạnh của tôi“
											
											
											
											Nguyễn chí Thiện ra tù lần sau cùng 
											năm 1991. Cuối năm 1992. kư giả 
											Lewis M. Simons có dến tận nhà ông ở 
											Hà Nội để phỏng vấn ông. Khi được 
											hỏi là ông nghĩ chế độ Cộng sản có 
											thể tồn tại trong bao lâu nữa? Nhà 
											thơ Nguyễn chí Thiện trả lớ là  
	
											
											“Tự do và dân chủ sẽ thắng. Đó là một 
											điều chắc chắn. Đảng Cộng sản Việt 
											Nam sẽ vỡ từ bên trong. Những người 
											lănh đạo trong đảng sẽ đánh nhau. Đó 
											là tiến tŕnh sẽ xảy ra cho tương 
											lai. Đây là một chế độ công an trị. 
											Người ta không thể nói đến tự do tôn 
											giáo hay dân chủ ở Việt Nam ngày hôm 
											nay. Nhân quyền vẫn ở mức tối thiểu. 
											Chỉ có kinh tế là tương đối bắt đầu 
											được cho tự do  c̣n những thứ tự do 
											khác chỉ được nới lỏng chút xíu mà 
											thôi. Tôi sẽ sống lâu hơn Đảng Cộng 
											sản Việt Nam.“
											
											
											
											Bài báo này được báo San Jose 
											Mercury News đăng tải ngày 2 tháng 5 
											năm 1993 có nhan đề là “Dissident 
											poet calls human rights elusive in 
											Viet Nam“ (Nhà thơ chống đối chế 
											độ nói nhân quyền bị bỏ quên ở Việt 
											Nam).
											
											
											Bài phỏng vấn trên cho thấy không 
											phải đợi đến lúc ra nước ngoài th́ 
											nhà thơ Nguyễn chí Thiện mới dám nói 
											mạnh mà ngay từ khi c̣n ở trong nước 
											ông đă dám nói thẳng,  nói thật một 
											cách không e ngại hay sợ sệt về 
											những điều ông suy nghĩ đối với nhà 
											cầm quyền Cộng sản Việt Nam, bất 
											chấp chuyện phát biểu này có thể gây 
											rắc rối cho ông và có thể đưa ông 
											trở lại nhà tù. Ông được nhiều người 
											Việt hải ngoại coi là một 
											Solzhenitsyn của Việt Nam. Ông đúng 
											là một lọai người “uy vũ bất năng 
											khuất“ đáng kính.
											
											
											Tác giả Nguyễn chí Thiện qua Mỹ định 
											cư năm 1995 và tiếp tục con đường 
											đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân 
											quyền cho đất nước Việt Nam. Ông 
											xứng đáng được đồng bào Việt Nam 
											ngưỡng mộ v́ sự can đảm sắt đá, ḷng 
											yêu nưóc nồng nàn và trí tuệ thông 
											minh xuất chúng. Ông vẫn tiếp tục 
											dùng sự sống cuối đời nỗ lực không 
											ngừng nghỉ tranh đấu cho một nước 
											Việt Nam tự do, nhân bản, nhân 
											quyền.
											
											
											Trong những thập niên vừa qua, cuộc 
											chiến tranh Quốc- Cộng đă cho thấy 
											người quốc gioa luôn bị Cộng sản lưà 
											v́ ngây thơ nhẹ dạ, tin người. Nhưng 
											có một trường hợp người quốc gia lưà 
											Cộng sản một cú ngoạn mục cho thấy 
											nếu khôn ngoan tỉnh táo, can đảm, 
											người quốc gia vẫn có thể đấu trí và 
											thắng Công sản chứ không phải lúc 
											nào cũng bị lưà
											
											
											Đó là cuộc họp báo ngày 13 tháng 7 
											năm 1982 trong đó Cộng sản đưa chiến 
											sĩ Vơ đại Tôn ra để nhận tội sau khi 
											chúng bắt được Vơ đại Tôn tại Lào 
											khi ông Tôn từ hải ngoại t́m cách 
											xâm nhập vào trong nước để tiến hành 
											cuộc kháng chiến lật đổ bạo quyền 
											Cộng sản. Chắc chắn ông Tôn được dụ 
											dỗ sẽ được khoan hồng này nọ nếu ông 
											ra buổi họp báo thú nhận lỗi lầm 
											chống phá nhà nước Cộng sản.
											
											
											Bất ngờ trước ông kính cuả kư giả 
											trong và ngoài nưóc, Vơ đại Tôn “ 
											phản phé” một cách ngọan mục và nói 
											những lời cứng cỏi để đời như sau;
											
											
											“Tôi tiếp tục duy tŕ lập trường 
											chính trị của tôi (để tranh đấu) 
											cho tự do và giải phóng dân tộc. Tôi 
											sẵn sàng nhận bất cứ một bản án nào 
											mà chế độ Cộng sản dành cho tôi”
											
											
											
											Khi quyết định nói những lời nảy lửa 
											ngược lại với sự mong muốn của Cộng 
											sản, chắc chắn Vơ đại Tôn cũng lường 
											trước sự trả thù nặng nề mà Cộng sản 
											dành cho ông. Bản án nặng nhất mà 
											ông có thể lănh là tử h́nh. Cộng sản 
											đă xử tử Trần văn Bá, th́ chúng cũng 
											có thể xử tử Vơ đại Tôn là loại 
											người từ hải ngoại về nước hoạt động 
											lật đổ chúng. Nhưng số Vơ đại Tôn 
											không chết nên sau đó được thả về Úc 
											sum họp với vợ con và đồng hương.
											
											
											Trong truyện Kiều khi người anh hùng 
											Từ Hải mắc mưu Hồ tôn Hiến để phải 
											chết một cái chết tủi nhục. Cụ 
											Nguyễn Du tả t́nh cảnh Từ Hải lúc sa 
											cơ thất thế là “Hùm thiêng khi đă 
											sa cơ cũng hèn“. Nhưng với người  
											tù Vơ đại Tôn, dù ở trong ngục tù 
											Công sản, vẫn mưu trí đánh Cộng sản 
											bằng một đ̣n “phản phé” tuyệt đẹp 
											qua cuôc họp báo. Vơ đại Tôn đă 
											chứng tỏ ḿnh là “Hùm thiêng khi đă 
											sa cơ .. vẫn  hùng“
											
											
											Hai ngày sau, báo Los Angeles Times 
											đă tường thuật nguyên văn lớ tuyên 
											bố bất hủ của ông Vơ đại Tôn. Được 
											sự can thiệp mạnh mẽ của quốc tế, Vơ đại Tôn được thả về Úc châu ngày 
											11 tháng 12 năm 1991 và được đồng 
											hương Việt Nam đón tiếp như một 
											người anh hùng. Ông Tôn hiện nay vẫn 
											tiếp tục công cuộc tranh đấu cho một 
											nước Việt Nam độc lập, tự do và nhân 
											quyền.
											
											
											Sau bao nhiêu năm đổ xương máu chống 
											ngoại xâm, ngày nay những người Việt 
											Nam yêu nước lại phải vướng ṿng tù 
											tội v́ phải đứng lên chống chính phủ 
											nội xâm Cộng sản. Chúng đang bán 
											nước cho Trung Cộng và cai trị theo 
											kiểu công an trị, tước đoạt hết 
											quyền làm người của dân tộc Việt 
											Nam.
											
											
											Thế hệ lớn tuổi đă không ngại ngần 
											xă thân tranh đấu chống lại bạo 
											quyền Việt Cộng như Nguyễn chí 
											Thiện, Nguyễn đan Quế, Vơ đại Tôn 
											v.v.. . Thế hệ trẻ sau này cũng noi 
											bước các bậc lăo thành đứng lên dấn 
											thân tranh đấu. Điển h́nh cho lớp 
											người trẻ nảy là Lê thị Công Nhân, 
											Nguyễn văn Đài, Lê công Định, Nguyễn 
											tiến Trung.
											
											
											Lê thị Công Nhân sinh năm 1979, tốt 
											nghiệp luật sư. Cô dấn thân tranh 
											đấu và làm phát ngôn viên cho Đảng 
											Thăng Tiến. Cô và Luật sư Nguyễn văn 
											Đài bị đưa ra toà năm 2007 và Công 
											Nhân bị kêu án 4 năm tù kèm 3 năm 
											quản chế.
												
												
	
											Trước khi đi tù, Lê thị Công Nhân 
											dơng dạc tuyên bố:
											
											
											“Tôi sẽ chiến đấu tới cùng dù chỉ 
											c̣n một ḿnh tôi, trước hết là giành 
											lấy nhân quyền cho chính ḿnh, và 
											giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự 
											do cho người Việt Nam. Cộng sản Việt 
											Nam đừng có mong chờ bất kỳ một điều 
											ǵ dù chỉ là thỏa hiệp, chứ đừng nói 
											là đầu hàng từ phía tôi.
											
											
											Tôi không thách thức nhưng Cộng sản 
											Việt Nam nếu đă hạ quyết tâm thực 
											hiện những hành vi tội ác bằng cách 
											chà đạp lên nhân quyền của người dân 
											Việt Nam và muốn tiếp tục d́m đất 
											nước Việt Nam trong một sự tăm tối 
											về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt 
											kinh tế, lạc hậu về mặt văn hoá, kéo 
											dài cho tới tận đời con cháu của 
											chúng ta cũng như của chính người 
											Cộng sản th́ tùy họ có quyền hành xử 
											với những cái ǵ mà họ có.Gia đ́nh 
											tôi đă chuẩn bị cho trường hợp xấu 
											nhất có thể xảy ra, đó là tôi sẽ bị 
											khởi tố và có thể bị đi tù. Nhưng 
											tôi xin khẳng định một lần nữa: đó 
											vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất có 
											thể xảy ra.“
	
											
											
											
											Người ta không ngờ cô gái bé bỏng Lê 
											thị Công Nhân lại kiên cường như thế. 
											Rồi cô váo tù như cô đă tiên đoán số 
											phận của ḿnh. Cộng sản Việt Nam bắn 
											tiếng nếu cô muốn đi Mỹ định cư th́ 
											chúng sẽ cho cô đi. Cô khước từ và 
											nói cô sẽ đi ngoaị quốc thăm viếng 
											hay du học rồi trở về chứ không đi 
											ngoại quốc như một h́nh thức trốn 
											chạy lao tù. Cô theo gương sáng của 
											Bác sĩ Nguyễn đan Quế trước đây, từ 
											chối đi định cư ở nước ngoài khi ra 
											khỏi tù với câu nói để đời, “Tự do 
											không phải là lưu đày“
											
											
											Cho đến giờ phút naỳ, Lê thị Công 
											Nhân đă bị tù hơn 800 ngày. Bà mẹ 
											Trần thị Lệ, một người lúc nào cũng 
											động viên và là nguồn hỗ trợ tinh 
											thần đáng quư cho Công Nhân, cho 
											biết Công Nhân bị bệnh ở mắt và lên 
											tiếng yêu cầu nhà nước Cộng sản thả 
											con bà ra nhưng bọn Cộng sản vẫn làm 
											lơ để keó dài sự giam giữ cô gái 
											kiên cường này. Linh mục Nguyễn văn 
											Lư sau hơn 3 năm tù tội giờ đây đă 
											có những bệnh hoạn trầm trọng như 
											tai biến mạch máu năo, liệt tay, 
											liệt chân. Chúng ta đau xót nh́n hai 
											người tù Nguyễn văn Lư và Lê thị 
											Công Nhân đau đớn quằn quại trong 
											lao tù khắc nghiệt tàn bạo cuả Cộng 
											sản mà không biết làm ǵ hơn là cầu 
											nguyện cho hai người con yêu của 
											nước Việt Nam sớm thoát cảnh tù tội  
											đau khổ.
											
											
											Nhà văn Nguyễn xuân Nghĩa, một người 
											đấu tranh bất khuất ở Hải Pḥng đă 
											có bài viết nhận xét về người tù 
											đáng kính Công Nhân như sau:
											
											
											“Tôi không có can đảm để nói với Lê 
											thị Công Nhân rằng tôi ước có một 
											người con gái như cô: bởi ngoài tư 
											chất là một người con gái dịu dàng, 
											xinh đẹp, thông thái, có học vấn, Lê 
											thị Công Nhân c̣n mang tư chất của 
											một nhân vật của cộng đồng đau khổ 
											và đang biết phản kháng, một thủ 
											lĩnh tinh thần cho ngay cả lớp đă có 
											tuổi như tôi nữa.
											
											
											.. C̣n tôi ví Lê thị Công Nhân như 
											một viên kim cương quư hiếm đă được 
											mài giũa rực sáng lên, cả trong đời 
											thường và trong một môi trường chính 
											trị.
											
											
											.. Nhưng có lẽ nào chúng ta chỉ có 
											thể làm được đến thế!? Thế giới văn 
											minh phát triển về nhân văn, nhân 
											quyền, văn hoá và kinh tế, không lẽ 
											chúng ta chỉ làm được như vậy đối 
											với công cuộc đấu tranh giành nhân 
											quyền, dân chủ và tự do của người 
											Việt chúng ta? Tôi xin nhắc lại đoạn 
											kêu gọi này cuả nữ Luật sư Lê thị 
											Công Nhân từ Hà nội gửi qua cuộc 
											biểu t́nh cuả Cộng đồng người Việt 
											tại Nam California trước khi cô bị 
											bắt, và xin gửi thêm vào đó tiếng 
											nói của tôi với toàn thể anh chị em 
											hoạt động dân chủ trong nước, cộng 
											đồng người Việt Nam yêu quư của tổ 
											quốc đang sinh sống ở nước ngoài, 
											các cá nhân, tổ chức quốc tế đồng 
											cảm với sự đau khổ của đại đa số 
											nhân dân Việt Nam và chính phủ, quốc 
											hội các nước quan tâm đến Việt Nam 
											rằng “Hăy làm một cái ǵ đó để 
											không ân hận?""
Hải pḥng đêm 9 tháng 3 năm 2007
	
											
											
											
											Nhà văn Nguyễn xuân Nghĩa giờ đây 
											cũng đang bị tù tội v́ đấu tranh cho 
											dân chủ nhân quyền. Cộng sản Việt 
	Nam chỉ có một đ̣n phép duy nhất là 
											tù tội để trấn áp và đe doạ những 
											người đấu tranh nhưng đối với những 
											con người đấu tranh bất khuất như Lê 
											thị Công Nhân và Nguyễn xuân Nghĩa 
											th́ biện pháp tù đày xem ra không có 
											kết quả mà trái lại càng hun đúc  
											tinh thần đấu tranh thêm vững chắc 
											và kiên định.
											
											
											Một người trẻ khác không kém quả cảm 
											dấn thân tranh đấu là Luật sư Lê 
											công Định. Lê công Định tốt nghiệp 
											luật sư ở Việt Nam, có tu nghiệp về 
											luật ở Mỹ một thời gian, có vợ là 
											hoa hâụ, có nhà ở khu Phú Mỹ Hưng 
											sang trọng ở Sài g̣n. Nói chung Định 
											có một đời sống sung túc, giàu sang, 
											nhưng Định không thề bịt mắt, che 
											tai trước sự khốn khổ, lầm than, mất 
											nhân quyền của đồng bào thấp cổ bé 
											miệng của anh. Nếu làm lơ trước cảnh 
											nhân dân sống đời thiếu thốn, khổ 
											cực, đất nước ngày càng lệ thuộc vào 
											bọn ngoại xâm Trung Cộng, Lê công 
											Định có thể tiếp tục sống đời giàu 
											sang, phú quư bên vợ đẹp con khôn mà 
											không ai có quyền phiền trách  anh 
											cả. Nhưng rơ ràng anh không chịu nổi 
											trước những bất công sai trái xảy ra 
											hàng ngày trước mắt anh. Lương tâm 
											anh thúc dục anh phải lên tiếng dù 
											anh biết anh sẽ phải trả giá rất đắt 
											v́ những hoạt động chính trị của 
											ḿnh.
											
											
											Anh bắt đầu viết những bài viết nói 
											ra những sự trăn trở, bức xúc trước 
											t́nh trạng suy thoái về kinh tế, lạc 
											hậu về văn hoá của xă hội Việt Nam 
											hiện nay. Một số bài viết của anh 
											đăng trên mạng của Đài BBC có tiếng 
											vang rất lớn khắp nơi. Nhân dân Việt 
											Nam đă nh́n thấy cái tâm, cái ḷng 
											trong sáng như trăng rằm của anh. 
											Anh đau cái đau của dân,  dấn thân 
											tranh đấu để mang lại quyền lợi 
											thiết thực cho nước cho dân.
											
											
											Trong bài viết “Trả lại hào khí 
											Diên Hồng“ anh khẩn thiết nói lên 
											tâm huyết của một người con dân Việt 
											Nam yêu nước, bày tỏ ḷng chân thành 
											tha thiết muốn tức khắc hành động để 
											cưú nước, cứư dân:
											
											
											
	“… V́ nhu nhược, chúng ta không dám 
											phản kháng thói hạch sách, nhũng 
											nhiễu của lớp quan lại mới, chấp 
											nhận dùng tiền vượt qua trở ngại. 
											Đến khi nh́n lại, quốc nạn tham 
											nhũng và quan liêu đă lan tràn bất 
											trị
											
											
											V́ nhu nhược, chúng ta che tai không 
											dám nghe lời nói ngay thẳng, mặc 
											nhiên dung túng sự dối trá và xu 
											nịnh. Đến khi bừng dậy, đạo đức đă 
											suy đồi, khó sưả
											
											
											V́ nhu nhược, chúng ta hài ḷng với 
											những ǵ đang có, cố tin vào sự ổn 
											định giả tạo, đắm ḿnh vào những lễ 
											hội vô nghĩa, liên miên, Đến khi 
											nh́n lại, xung quanh đă đầy dẫy ung 
											nhọt, không c̣n thuốc chữa.
											
											
											V́ nhu nhược chúng ta bịt mắt trước 
											những bước đi vũ băo của các dân tộc 
											láng giềng. Đến khi tỉnh ngộ, sự tụt 
											hậu quá rơ ràng, không c̣n cơ may 
											rút ngắn khoảng cách.
											
											
											Để che giấu mặc cảm do nhu nhược, 
											khắp nơi người ta kể nhau nghe những 
											bài vè châm biếm hoặc lớn tiếng dè 
											bĩu chuyện cung đ́nh tồi tệ, nhưng 
											lại trong… quán nhậu! Chí khí kiểu 
											“sĩ phu Bắc Hà“ ấy liệu sẽ giúp 
											ích được ǵ cho công cuộc chấn hưng 
											đất nước đang lúc cần hào khí Diên 
											Hồng năm xưa?
											
											
											Muốn chấn hưng đất nước trong vận 
											hội ngàn năm có một này cần phải rũ 
											bỏ sự nhu nhược đó. Muôn người xin 
											hăy nắm tay lại, chế ngự sự sợ hăi, 
											cùng tiến về phía trước,may ra khát 
											vọng Đại Việt mới có cơ may biến 
											thành hiện thực. Xin đừng dể sự nhu 
											nhược của những cá nhân trở thành sự 
											bạc nhược của cả một dân tộc".
(Tháng 3 năm 2006)
	
											
											
											
											Lê công Định như một người thầy 
											thuốc tài giỏi chẩn mạch và định 
											bệnh rất chính xác căn bệnh lạc hâụ 
											trầm kha của xă hội Việt Nam hiện 
											tại. Anh chỉ rơ v́  đa số dân chúng  
											nhu nhược mà đất nước tiếp tục đi 
											xuống về mọi mặt  một cách tồi tệ 
											không lối thoát. Nhưng anh không 
											nói chỉ dể nói, Từ nhận thức anh đi 
											đến hành động là phá vỡ sự nhu nhược 
											trong người và dũng cảm dấn thân 
											tranh đấu để dẹp bỏ bất công, phục 
											hồi quyền  làm người cho đồng bào 
											anh vốn bị tước đoạt thô bạo bởi bọn 
											nội xâm cai trị hiện nay. Cái đáng 
											quư và đáng kính của Lê công Định là 
											ở chỗ đó. Cái giá anh phải trả là tù 
											ngục giam cầm. Bản án kết tội anh là 
											kết tội người yêu nước của bọn cầm 
											quyền bán nước cho ngoại bang hiện 
											nay.
											
											
											Nhà thơ Hoàng Hưng cực kỳ xúc động 
											trước bài viết trên của Lê công Định 
											nên viết bài “Các bạn ơi, tôi yêu 
											các bạn!“ để chia xẻ sự đồng t́nh 
											và bày tỏ ḷng thương mến, sự cảm 
											phục thiết tha, chân thành đến ḷng 
											yêu nước, thương dân của Lê công 
											Định. Hoàng Hưng viết:
											
											
											“… Anh và những người bạn cùng chí 
											hướng thuộc thế hệ hậu chiến như 
											Nguyễn văn Đài, Lê thị Công Nhân, 
											Nguyễn tiến Trung, Lê trần Luật..đă 
											cải chính trước nhân dân và cộng 
											đồng quốc tế rằng: người trí thức 
											Việt Nam không ngu, không “ ngủ”, 
											không bất lực, sau gần nửa thế kỷ 
											mấy thế hệ chúng tôi đă liên tục 
											ngu, “ ngủ”, hèn, bất lực ( hay cả 4 
											thứ ấy ), để đến khi sức sắp tàn, 
											lực sắp kiệt, thậm chí có những 
											người đă nhắm mắt xuôi tay, mới vượt 
											qua được cái ngu cái hèn mà nói lên 
											một lời ai điếu cho cuộc đời lầm lỗi 
											của ḿnh, một lời trối trăng cho con 
											cháu.
											
											
											Anh và các bạn khiến tôi tin tưởng 
											mănh liệt vào tương lai một nuớc 
											Việt Nam ngẩng đầu sánh với bè bạn 
											năm châu mà không tủi hổ như hôm nay 
											trong thân phận một quốc gia bị xếp 
											cuối bảng về thành tích kinh tế và 
											nhân quyền
											
											
											Chính v́ thế, hôm nay, một người đă 
											chảy nước mắt v́ cảm phục khi xem 
											đoạn băng trên truyền h́nh chiếu 
											cảnh cô gái bé nhỏ Lê thị Công Nhân 
											trả lời công an, “Tôi sẽ chiến đấu 
											dù chỉ c̣n một người chiến đấu cho 
											dân chủ“, nhưng chưa đủ mạnh để 
											viết một ḍng về chị. Hôm nay tôi 
											xin nói to lên với mọi người rằng: 
											“Các bạn ơi, tôi yêu các bạn“
(Paris 18/ 6 / 2009)
	
											
											
											
											Người Việt trong và ngoài nước đều 
											có cảm giác xót thương như nhà thơ 
											Hoàng Hưng về người anh thư bé bỏng 
											nhưng can trường Lê thị Công Nhân, 
											một minh chống đỡ bầy lang sói độc 
											ác, tàn nhẫn đang đày đọa chị. Bọn 
											nội xâm cầm quyền bây giờ hành xử 
											như ông vua bán nước cầu vinh Lê 
											chiêu Thống ngày xưa. Chúng sẵn sàng 
											bán nước cho Trung Cộng để đổi lại 
											được Trung Cộng bảo kê cho quyền 
											hành cai trị của chúng. Hoàng Sa, 
											Trường Sa mất rồi, Ải Nam Quan cũng 
											vào tay Trung Cộng một cách không 
											kèn không trống. Những người biểu 
											t́nh hô hào chủ quyền  Việt Nam trên 
											Hoàng Sa, Trừơng Sa cũng bị nhốt vào 
											tù như nhà báo Điếu Cày. Không ai có 
											thể tưởng tượng ở Việt Nam ngày nay 
											nếu ai kêu gọi chủ quyền hai quần 
											đảo Hoàng Sa và Trường sa là của 
											Việt Nam th́ người đó sẽ bị lôi thôi 
											với công an ngay. Thật là quái đản 
											không thể tưởng tượng khi một người 
											Việt Nam lại không thể kêu gọi chủ 
											quyền cho lănh thổ quê hương ḿnh. 
											Nhà nước Việt Nam hèn đến độ khi có 
											sự cố tàu Trung Cộng tấn công tàu 
											đánh cá Việt Nam th́ các cơ quan 
											truyền thông của Việt Cộng không dám 
											nêu đích danh tàu Trung Cộng mà chỉ 
											nói là “ tàu lạ”. Hèn hạ, khiếp 
											nhược đến thế là cùng! Rồi đến 
											chuyện khai thác bô-xít ở Tây 
											Nguyên. Nhiều nhà khoa học Việt Nam 
											đă lên tiếng can gián chuyện Trung 
											Cộng khai thác ở Tây nguyên v́ làm 
											như thế là ô nhiễm môi trường sống 
											và c̣n ảnh hưởng đến vấn đề sinh 
											thái, văn hoá cho toàn vùng cao 
											nguyên. Nhưng những lớ khuyên can 
											chân thành, thống thiết  cũng như 
											nước đổ đầu vịt, Cộng sản Việt Nam 
											vẫn để cho Trung Cộng khai thác 
											bô-xít ở Tây nguyên và chắc chắn sẽ 
											để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng 
											cho đất nước và con người Việt Nam. 
											Cộng sản Việt Nam giờ đây trởø thành 
											tay sai ngoan ngoăn  và đắc lực cho 
											Trung Cộng rồi và sẵn sàng thi hành 
											lệnh của quan thầy Trung Cộng một 
											cách vô điều kiện, không nghĩ ǵ đến 
											quyền lợi của đất nước ǵ nữa cả. Ba 
											nhà trí thức Nguyễn huệ Chi, Phạm 
											Toàn, Nguyễn thế Hùng thành lập 
											trang mạng bô-xit để mong gióng 
											tiếng chuông cảnh tỉnh cho nhà cầm 
											quyền ngu dốt Cộng sản Việt Nam th́ 
											trang mạng này bị đánh sập nhiều lần 
											ḥng bịt miệng những ai chống lại 
											chuyện khai thác Bô-xit.  (Có thể 
											vào www.boxitvn.net hay 
											http://bauxitevietnam.free.fr để đọc 
											những bài viết về bô-xít).Cộng sản 
											Việt Nam ngu xuẩn và tồi bại đến thế 
											là cùng! Người ta không hiểu chính 
											quyền hiện nay là do người Việt cầm 
											quyền hay người Tàu cầm quyền nữa?
											
											
											Loại anh hùng Điện Biên Phủ như ông 
											Đại tướng Vơ nguyên Giáp năm nay gần 
											100 tuổi trở thành một thứ Ông b́nh 
											vôi hèn nhát khiếp nhược bịt tai, 
											ngậm miệng không dám đưa ra một lời 
											phản đối về chuyện Cộng sản Việt Nam 
											bán nước cho Trung Cộng. Nếu không 
											có những người yêu nước đứng lên 
											tranh đấu th́ không biết đất nước sẽ 
											đi về đâu nữa.?
											
											
											Nguyễn Trăi có câu nói khá hay “Dẫu cường nhược có lúc khác nhau. 
											Song hào kiệt thời nào cũng có“. 
											Những nhà tranh đấu trẻ như Lê thị 
											Công Nhân, Lê công Định, Nguyễn tiến 
											Trung, Nguyễn văn Đài, Phạm thanh 
											Nghiên, Ngô Quỳnh, Lê thăng long, 
											Trần huỳnh Duy Thức. v.v... xứng 
											đáng là những hào kiệt của thời đại 
											hôm nay. Họ có nhiệt huyết và sự can 
											đảm khác thường và chắc chắn sẽ làm 
											nên lịch sử. Bổn phận của người Việt 
											hải ngoại là phải tiếp tay bằng vật 
											chất và tinh thần cho  những người 
											trẻ anh hùng này cũng như những nhà 
											tranh đấu khác. Khi có người đấu 
											tranh bị tù tội là hải ngoại lập tức 
											giúp đỡ vật chất cho gia đ́nh người 
											tù có phương tiện đi thăm nuôi người 
											tranh đấu đang ở tù. Nếu có thể xin 
											tiếp tục giúp đỡ cho sinh kế gia 
											đ́nh người tù. Làm như vậy là giúp 
											người tù giữ tinh thần trong lao tù 
											Cộng sản v́ họ biết rằng gia đ́nh họ 
											bên ngoài đă được hải ngoại lo lắng, 
											Chuyện này dă được một số người có 
											ḷng ở Úc đă làm khi nghe tin nhà 
											văn Trần khải Thanh Thủy bị tù tội. 
											Mong sao chuyện làm tốt lành và ư 
											nghĩa này sẽ được phát huy nhiều hơn 
											nữa.
											
											
											Đừng bao giờ trông mong vào bọn 
											ngoại quốc mắt xanh mũi lơ can 
											thiệp, chận đứng sự đàn áp bắt bớ 
											của Cộng sản đối với những người đấu 
											tranh cho dân chủ. Bọn tư bản ngoại 
											quốc luôn suốt ngày bận rộn đầu tư 
											và làm ăn với Cộng sản Việt Nam và 
											chỉ lên tiếng lấy lệ khi thấy Cộng 
											sản Việt Nam trắng trợn vi phạm nhân 
											quyền này nọ. Chính người Việt Nam 
											phải cứu lấy quê hương giống ṇi 
											chúng ta chứ không thể trông cậy 
											vào người khác. ‘Vọng ngoâi tắc tử‘ là câu nói ông cha ta đă cảnh cáo 
											chúng ta từ nhiều năm trước.
											
											
											Quê hương Việt Nam đang ṃn mỏi đau 
											khổ và mất máu từng ngày. Phải mạnh 
											dạn cương quyết lên đường giải cứu 
											quê hương trước khi quá trễ.
											
											
											
											Los Angeles, một ngày mùa Đông khô 
											lạnh, đ́u hiu cuối tháng 2 năm 2010
											
											
											TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
											
											
											Email :
 											
											
 											
											dalatogo@yahoo.com