Những Bức Tường Ḷng
Khi c̣n bị phân chia bởi bức tường Bá Linh, dân Đức hay kể câu chuyện giễu này:
“Có một con chó chui tường từ Đông sang Tây. Thấy khách lạ nên lũ chó bên Tây Đức xúm xít lại, tíu tít hỏi thăm:
- Bên ấy có hội bảo vệ súc vật
không?
- Có chứ.
- Có bác sĩ thú y không?
- Có luôn.
- Có thẩm mỹ viện và nghĩa trang
dành riêng cho chó không?
- Có tuốt.
- Thế th́ việc ǵ đằng ấy phải vất
vả chui tường sang đây?
- Tại v́ bên ấy chúng cấm không cho…
sủa!”
Tháng 11 năm 1989, bức tường Bá Linh bị đập đổ. Dân Đông Đức được giải phóng. Từ đây, người được quyền ăn nói tự do, và chó có quyền… được sủa.
Sự thống nhất nước Đức về thể chế, cũng như về nhân tâm, tuy không phải là một tiến tŕnh toàn hảo nhưng có thể được coi như là ổn thỏa – ngoại trừ đối với một số người. Họ là những di dân đến từ Việt Nam, theo như tường thuật của Alisa Roth – qua bài báo “Bức tường ô nhục vẫn ngăn chia người Việt,” như sau:
“Người Việt vẫn đang là nhóm Á Châu lớn nhất tại thành phố Bá Linh. Những người được mệnh danh là người Việt miền Tây là những người miền Nam Việt Nam, hầu hết là thuyền nhân mà trong những năm tiếp theo chiến thắng 1975 của cộng sản, họ đă đổ đến những vùng bây giờ là Tây Đức.
“C̣n nguời Việt miền Đông là những nguời đến Đông Đức vào thập niên 1960 và 1970 cùng với các công nhân xuất khẩu từ những quốc gia cộng sản đang phát triển tới làm việc trong các nhà máy…”
“… Cái cộng đồng nhỏ bé này hăy c̣n duy tŕ sự chia cắt với hai thế giới, hai phương trời cách biệt. Những ư thức hệ – từng xé nát nước Đức và nước Việt Nam ra làm đôi – hiện vẫn c̣n luân lưu mạnh mẽ tại nơi đây…”
Nó “mạnh mẽ” tới độ khiến một người dân bản xứ phải thốt lên rằng:”Bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Đông với người Việt miền Tây c̣n cao hơn cả bức tường của người dân Đức đối với người dân Đức.” (”Berlin’s Divide Lingers For Vietnamese Expatriates Capital’s East – West Gap Reflects Cold War Past,” San Jose Mercury News, 12 Jul. 2002:A1/ Việt Mercury 12 Jul. 2002: 1 + 69. Trans. Nguyễn Bá Trạc”).
Nói như thế, nghe đă phũ phàng nhưng (vẫn) chưa… hết ư! Trong cuốn Tổ quốc ăn năn của Nguyễn Gia Kiểng – ấn bản 2001, Paris, nơi trang 70 – tác giả c̣n trích dẫn nhận xét của một người ngoại quốc khác về dân Việt – như sau: “Ils ne s’aiment pas” (Chúng nó không ưa nhau đâu).
Cha nội Parisien nào đó nói bậy bạ vậy mà… trúng phóc. Những phương tiện truyền thông và giao thông của thời hiện đại quả có làm cho trái đất nhỏ lại, và khiến cho loài người gần gũi với nhau hơn. Nhưng riêng với với dân Việt th́ không. Nhất định là không.
Người ngoài có vẻ “hơi” ngạc nhiên về thái độ “rất kém thân thiện” của dân Việt đối với nhau, trên bước đường lưu lạc. Họ sẽ ngạc nhiên chết (mẹ) luôn nếu biết rằng những “bức tường ô nhục” tương tự hiển hiện khắp chốn, kể cả ở Việt Nam, chứ chả riêng chi ở Berlin.
Dù đất nước đă “thống nhất” hơn một phần tư thế kỷ, dân chúng giữa hai miền Nam/Bắc Việt Nam (rơ ràng) vẫn chưa gần nhau mấy. Đôi lúc, họ ăn ở cư xử với nhau cứ y như những kẻ phải sống trong một cuộc hôn nhân… cưỡng bách vậy.
Theo “truyền thống,” người Việt hay chia phe và họ thường nh́n nhau qua những “lỗ châu mai” từ những “pháo đài” của… phe ḿnh. Họ hay gọi nhau là “tụi này” hay “tụi nọ” (tụi Công giáo, tụi Phật giáo, tụi Nam Kỳ, tụi Bắc Kỳ, tụi Trung Kỳ…). Gần đây, có thêm một “tụi mới” nữa – tụi… Bắc Cộng!
Và đó mới chỉ là những chuyện nhỏ, ở miền xuôi. Ở miền ngược, miền núi, hay c̣n gọi là miền cao, miền sơn cước (hoặc cao nguyên) th́ c̣n nhiều chuyện… kỳ cục dữ nữa. Nơi đây, một phần dân tộc Việt vẫn chưa được nh́n nhận là người thường hay người Thượng. Họ bị coi là… “tụi mọi” và bị chính đồng bào ḿnh (toa rập với cường quyền) cướp đoạt hết đất đai canh tác.
Nghèo đói quá hoá “sảng” chăng? Khổ cực quá, cùng quẫn quá, bị chèn ép quá nên đâm ra gấu ó, cấu xé lẫn nhau chăng? Không hẳn đă thế đâu.
Tại nước Đức, ngay giữa một thành phố tự do và phú túc, “bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Đông với người Việt miền Tây (vẫn) c̣n cao hơn bức tường của người dân Đức đối với người dân Đức” mà. Hơn nữa, như đă thưa, những bức tường ḷng (ô nhục) tương tự hiển hiện ở khắp nơi chứ đâu có riêng chi ở Berlin.
Nơi đâu có người Việt quần tụ là tức khắc nẩy sinh những chuyện đố kỵ, chia cách, phân hoá, và đánh phá lẫn nhau túi bụi. Mỗi cộng đồng vẫn thường cần đến hơn một ban đại diện (dù tất cả những ban đại diện “dường như” không đại diện được cho bất cứ ai và cũng không mấy ai – thực sự – cần người đại diện).
Tương tự, mỗi hội đoàn đều có tới hai hay ba ông (bà) chủ tịch, dù cả hội đoàn đều không mấy ai biết rơ là họ hội họp lại với nhau để làm ǵ. Mọi tổ chức (không chóng th́ chầy) nếu không vỡ tan tành th́ cũng bể thành vài mảnh!
Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Đă thế, phần lớn, đều là… chó dại!
“Sự kiện vô vàn phi lư, cực độ vô nghĩa, và bất lợi không lường này, đang diễn tiến kết thành hiện tượng phân hoá hỗn loạn, phân liệt khắc nghiệt, chia rẽ trầm trọng giữa những cá nhân, nhóm cá nhân, cộng đồng người Việt ” (Phan Nhật Nam, “Lời khẩn thiết nhằm chấm dứt hiện tượng phân hoá”). Cũng theo tác giả bài báo vừa dẫn th́ Cục T́nh báo Hải ngoại, trực thuộc Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Hà Nội, là nguyên nhân gây ra những hiện tượng phân hoá tiêu cực kể trên.
Những nhân viên của Cục T́nh báo Hải ngoại e không tài ba đến thế. Chợ chiều rồi. Chúng nó (nếu có) cũng chỉ lo đánh quả mà thôi và chuẩn bị để chạy thôi.
Thủ phạm không đến từ bên ngoài. Chúng phục sẵn trong “thâm tâm” của tất cả chúng ta.
Khi c̣n nhỏ, tôi nhớ là đă đọc ở đâu đó – qua lời kể của Schopenhauer – một câu chuyện ngụ ngôn mà nội dung (đại khái) như sau:
Có một mùa Đông lạnh đến độ muốn tồn tại muôn loài đều phải xích lại thật gần nhau để truyền cho nhau hơi ấm. Chỉ riêng có loài nhím v́ lông quá nhiều, quá nhọn và không cách nào thu lại được nên đành… chờ chết!
Dân Việt đang trải qua một mùa Đông khắc nghiệt. Nếu chúng ta không vượt qua được những bức tường ḷng hiện hữu, không xếp lại được những lông nhọn tua tủa tự mỗi người, và mọi phe nhóm đều nhất định “tử thủ” trong pháo đài của riêng ḿnh th́ (e) khó mà qua khỏi đuợc cơn quốc nạn này. Vấn đề không phải là mùa Đông sẽ kéo dài vô tận mà v́ đất nước (cũng như ḷng người) sẽ bầm dập, te tua, và tan nát, tanh bành – sau đó.
Tưởng Năng Tiến