Nh́n Tây Tạng, thấy Việt Nam
Lê Minh Khôi
Rời Thành Đô trên chiếc phi cơ cánh quạt loại nhỏ chứa
khoảng sáu chục người, sau hơn một giờ bay chúng tôi đă thấy nhấp nhô
những đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng của xứ Tây Tạng. Bỏ lại sau lưng căn
nhà tranh di tích của Đỗ Phủ, bỏ lại mảnh đất dựng nghiệp của Lưu Bị
thời Tam Quốc, bỏ lại miếu thờ Khổng Minh, Quan Công, Trương Phi cùng
những thành lũy bằng đất xây dựng từ thời Tần-Hán nằm gần quận lỵ Đôn
Hoàng, khi chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường Lhasa th́ kim
đồng hồ chỉ 1 giờ 22 phút, giờ địa phương, buổi chiều.
Mỗi người được phát cho một túi nhỏ đựng dưỡng khí và được dặn ḍ phải
cẩn thận kẻo bị choáng váng hay té ngă v́ áp suất thay đổi. Trong số hơn
60 hành khách th́ gần ba chục là du khách Âu Mỹ, 5 hay 6 người mặc binh
phục, hơn hai chục là thường dân nói tiếng Hoa, và vỏn vẹn chỉ có 4
người Việt. Lúc rời Washington DC nhóm anh em chúng tôi có tới 12 người,
nhưng lúc đi Tây Tạng chỉ c̣n lại vợ chồng anh chị Trần Dương và vợ
chồng tôi. Trong lúc chuẩn bị rời máy bay, tôi bỗng chợt nhớ tới bài địa
lư thuở c̣n nhỏ:
Nước Tây Tạng rộng bằng hai nước Pháp, có dăy núi
Hymalaya (Hy Mă Lạp Sơn) là dăy núi cao nhất thế giới, có ngọn Everest
quanh năm tuyết phủ. Tuổi ấu thơ của tôi lại được kích thích khi nghe kể
chuyện những nhà tu trên đất Tây Tạng ngồi xếp bằng tṛn, bay vù vù từ
đỉnh núi này qua đỉnh núi khác, hoặc những chuyện rùng rợn về thiên
táng, xác người chết được đem lên đỉnh núi xẻ thịt ra từng mảnh quăng
cho chim ăn theo triết lư: vật nuôi người, người nuôi vật, trái ngược
với phong tục của chúng ta là địa táng, đào huyệt chôn dưới đất, hay hỏa
táng là đem thiêu xác, lấy cốt về thờ. Lớn lên, đọc sách, đọc báo, đọc
được những bức thư của nhà cách mạng Phan Bội Châu gữi cho nhà cách mạng
Phan Chu Trinh, trên đầu thư cứ một điều Hy Mă Tôn Ông nhă giám, hai
điều Hy Mă Tôn Ông nhă giám, th́ ḷng lại càng nao nức muốn biết Tây
Tạng và Hy Mă Lạp Sơn lắm. Tưởng rằng “nhưng chỉ là giấc mơ thôi”, không
ngờ có ngày tâm thành ư đạt.
Độ cao của nước Việt Nam ta trung b́nh so với mặt biển là khoảng 19 m
(63 feet), nhưng độ cao của Tây Tạng so với mặt biển là 3,658 m (12,000
feet) và đỉnh cao của ngọn Everest so với mặt biển tới 8,848 m (29,000
feet). Cho nên, trừ dân địa phương, c̣n du khách khi đă có ư định ṃ lên
thăm cái xứ sở nằm cao tít trên nóc nhà thế giới này th́ đều đă dự liệu
về chuyện áp suất không khí thay đổi. Tinh thần chuẩn bị kỹ càng như thế
nhưng lúc máy bay đáp xuống phi trường, cánh cửa mở ra, chân mới chạm
đất th́ gió thổi mạnh đến nỗi không thể tự chủ nổi, chỉ bước được mấy
bước th́ cái mủ lưởi trai đem từ D.C. đă bị gió thổi văng xuống và cuốn
đi như một chiếc lá. Một tay che đầu, một tay kéo cái túi hành lư nhỏ,
chạy lọt được vào tới pḥng chờ đợi th́ cổ họng khô cứng lại như đă ba
ngày không được một hớp nước.
Nhân viên hăng du lịch ra đón bốn người chúng tôi là một phụ nữ có tên
Mă Dung. Cái tên này làm tôi chợt nhớ đến mấy cái tên Mă Đằng, Mă Đại và
Mă Siêu trong bộ Tam Quốc Chí. Nghĩ vậy thôi, chứ cô Mă Dung không mang
một nét đặc thù nào của Hán tộc. Thân h́nh dong dỏng cao, khoảng hơn
thước rưỡi, tóc dài chấm lưng vai, da rám nâu, nói tiếng Anh đủ để chúng
tôi hiểu được. Sau một vài câu trao đổi ngắn gọn, cô đưa chúng tôi lại
chỗ lấy hành lư và ra ngay chiếc xe Van hiệu Toyota chờ sẵn. Trái với cô
Mă Dung, người lái xe rơ ràng là một chú người Hoa chính hiệu, hai mắt
ti hí, má phệ, tóc ngắn, nước da màu vàng tái, tương phản hẵn màu nước
da của những người Tây Tạng mà chúng tôi từng gặp trong chùa Tây Tạng
Labrang Monastery trên đất Sa Hẹ. Ra khỏi phi trường, xe chạy ṿng vèo,
một bên vách núi, một bên bờ sông, nước trong xanh ngắt. Độ chừng mười
cây số xe dừng lại tại một khúc quẹo và người tài xế ra hiệu cho chúng
tôi xuống để chụp h́nh. Đó là một cái hang thô sơ thờ h́nh Đức Phật ngồi
thiền, miệng hang treo vô số tấm phướn và cờ đuôi nheo cùng những miếng
vải to cỡ ba bốn bàn tay, màu sắc, xanh, trắng, đỏ, vàng, trông rất sặc
sỡ. Chụp h́nh xong, chúng tôi lên xe về thẳng khách sạn Holiday Inn trên
đường Beijing Lu.
Ở đâu quen đấy. Sau một buổi chiều và một đêm dài nghỉ ngơi chúng tôi đă
làm quen được với thời tiết. Sáng hôm sau chúng tôi ra ngồi nhâm nhi cà
phê trong pḥng khách để chờ xe đến đón. Phía bên kia đường là một dinh
thự lớn, bảng hiệu nền đỏ chữ vàng viết bằng chữ Hán, hai người lính
gác, súng gắn lưởi lê, quân phục màu xanh phân ngựa, thứ quân phục của
lính Trung Cộng mà chúng tôi từng gặp ở Bắc Kinh và Tây An. Tại tiền
đ́nh, trên đỉnh cao của cột cờ là lá cờ Trung Cộng, một ngôi sao lớn bốn
ngôi sao nhỏ phất phơ trước gió. Ngôi sao lớn tượng trưng cho Đại Hán,
bốn ngôi sao nhỏ tượng trưng cho bốn sắc dân chư hầu Măn, Mông, Hồi,
Tạng.
Mặt trời lúc này đă lên cao. Những tia nắng ban mai đă rọi xuyên qua
khung kính cửa sổ của pḥng khách dệt thành những sợi nắng đan chéo trên
tường nhưng không khí vẫn c̣n se se lành lạnh. Xe cộ qua lại thưa thớt,
lâu lắm mới thấy một chiếc xe tự chế, là chiếc xe có một bánh bằng gỗ do
một người đẩy hay kéo, chậm chạp đẩy qua. Theo lịch tŕnh, đúng 9 giờ cô
Mă Dung cùng người tài xế mới có mặt đưa chúng tôi tới đền Jokhang là
ngôi đền được Hoàng hậu Wengcheng, vợ thứ của vua Songtsen Gampo, xây
cất vào năm 647, và sau đó tới đền Lublinka. Hai ngôi đền thờ này khá
lớn nhưng chỉ có một tầng, tường xây bao bọc chung quanh, vôi tróc loang
lổ, thiếu người săn sóc, cũng hệt như quang cảnh sở thú ở Trùng Khánh,
cây cỏ th́ xơ xác, con người th́ nhếch nhác. Thỉnh thoảng một nhóm dân
Tây Tạng ngồi nhặt cỏ nh́n chúng tôi đi qua với ánh mắt vô cảm lạnh lùng
rồi sau đó họ lại ngồi chồm hổm tiếp tục dọn cỏ hay đứng lên uể oải cầm
chổi quét những chiếc lá rụng. Không khí ở đây ảm đạm buồn tênh chứ
chẳng thấy ǵ gơi cảm.
Đến bữa ăn trưa chúng tôi được đưa vào nhà hàng quốc doanh nằm cùng dăy
nhà với siêu thị do nhà nước quản lư. Tổ chức du lịch của Trung Quốc rất
chặt chẽ. Chuyên chở đưa đón th́ có China Travel Services, viết tắt là
CTS, và chúng tôi gọi đùa là Communist Total Shit. Bữa ăn th́ bị lùa vào
nhà hàng quốc doanh. Mua sắm th́ vào các thương xá Friendship của nhà
nước luôn luôn được xây cất kế ngay nhà hàng ăn, hoặc xe bus chở thẳng
vào các công ty sản xuất. Tiếng gọi là công ty nhưng thực chất là công
ty quốc doanh, nhân viên phục vụ đều là người của chế độ mặc thường
phục. Hầu hết đồng tiền của du khách đều lọt vào túi của nhà nước chớ
rất khó mà rớt đến tay người dân. Sau bữa cơm trưa, chúng tôi được đưa
đi chơi băng qua sông Lhasa bằng thuyền Yak-Skin. Thuyền này làm bằng da
con Yak, một loại ḅ đen to lớn, lông rất dài và rất dày để chống lạnh.
C̣n sống và khỏe mạnh th́ con Yak được dùng để kéo cày và lấy sữa. Lúc
chết th́ thịt dùng làm thực phẩm, mỡ dùng làm dầu nến thắp, da dùng làm
trống hoặc ghép lại làm thuyền. Con ḅ Yak mật thiết tới đời sống người
dân Tây Tạng nên ḅ Yak là biểu tượng của xứ Tây Tạng. Con đường Beijing
Lu kéo dài từ Bakhor tới Drapung Monastry chia thủ phủ Lhasa ra làm đôi,
đoạn dẫn vào khu thương mại trung tâm thành phố cũng có tượng Yak. Đi
xem tŕnh diễn văn hóa dân tộc cũng có vũ điệu muá với ḅ Yak. Ở Lhasa
thuyền Yak không đậu dưới sông mà được dựng ở các bến, mỗi bến có cả
chục chiếc thuyền làm bằng da con Yak xếp thành dăy dài chờ du khách.
Mỗi thuyền chở được sáu hay tám người và có thể chở thêm cả xe đạp hoặc
xe gắn máy . Nước sông Lhasa rất trong nhưng do tuyết tan từ các đỉnh
núi chung quanh đổ xuống nên tḥ tay xuống thấy lạnh buốt. Khi có du
khách, một người Tây Tạng đưa lưng ra cơng một chiếc thuyền bằng da con
Yak đến bến cho khách xuống và dùng sào chống con đ̣ qua sông như h́nh
ảnh người chèo đ̣ Trương Chi trong truyện cổ Việt Nam.
Hôm sau chúng tôi đựợc đưa đến thăm cung điện Potala là nơi ngày trước
các vị Phật sống Tây Tạng ngự trị. Cung điện này cao ba từng quét vôi
nửa trắng, nửa nâu xây trên triền núi gồm nhiều dăy nhà nối tiếp nhau.
Nửa trắng phía dưới là nhà khách, nhà ăn, nhà chứa vật cụ, phần trên màu
nâu được phân chia thành các pḥng thờ phượng. Phía trước, ở dưới thấp
làmột sân rộng phía trước chừng hơn hai mẫu tây để tín đồ tụ hội, từng
toán du khách đổ xuống từ những chiếc xe bus ḥa nhập với những người
dân địa phương chạy theo bán nhang đèn và các tu sĩ khoác áo choàng màu
huyết dụ hay màu vàng nghệ làm không khí ở đây thêm nhôn nhịp. Từ trên
cao, tôi nh́n khắp bốn phía để mong thấy những tín đồ đi hành hương, cứ
bước một bước lại nằm dài thẳng cẳng xuống đất, duỗi hai tay về phía
trước, miệng đọc kinh, sau đó lại dứng dậy bước thêm một bước khác, rồi
lại nằm dài người xuống đất, như những con sâu đo. Chúng tôi đến cung
điện Potala không nhằm vào ngày lễ nên ngoài du khách ra chỉ thấy những
người dân Tây Tạng dẫn vợ con đến cúng vái. Người chồng nét mặt khắc
khổ, quần áo nhiều mảnh, có khi khoác áo nhà binh sờn rách, người vợ mặc
váy, cổ đeo nhiều chiếc ṿng bằng đồng, đầu quấn khăn tua sặc sỡ, chân
bước, tay cầm chiếc “ṿng luân hồi” vừa đi vừa quay, miêng lẩm bẩm đọc
kinh một cách thành kính.
Con đường đi lên điện Potala là những phiến đá lát bậc thang, không dốc
lắm nhưng rất hẹp khiến người lên người xuống phải chen chúc len lách.
Càng lên cao càng ngộp thở. Hơi người, hơi khói, và nhất là hơi bốc ra
từ những ngọn nến và những b́nh dầu đốt bằng mỡ Yak khiến không khí thật
ngột ngạt. Qua tầng một, tầng hai, là lên đến khu chánh điện, được chia
làm nhiều gian nhỏ, cờ quạt, lọng phướn treo kín mít. Tại mỗi pḥng đều
có bàn thờ Phật hoặc bàn thờ linh vị các Đạt Lai Lạt Ma đă hóa kiếp. Mỗi
pḥng đều có một nhà sư lo việc đèn dầu và ngay gần cửa ra vào của mỗi
pḥng là một thùng kiếng để thập phương bỏ tiền dâng cúng. Một lần vừa
lấy máy ảnh định chụp một tấm h́nh th́ vị sư già khẳng khiu ngồi gần
chánh điện xua tay ra hiệu chỉ thẳng vào một người to béo mặc thường
phục ngồi ở góc cửa ra vào. Người đó mới thực sự quyền hành c̣n vi sư
già chỉ là cây cảnh.
Rời tu viện Potala chúng tôi được đưa đi xem một khu sản xuất thủ công
nghệ gồm nhà đan lát, nhà dệt thảm, nhà chạm khắc đồ gỗ. Mỗi nhà đều có
khu sản xuất và khu bán hàng. Tại những khu sản xuất, nhân công là người
Tạng, nét mặt khắc khổ chịu đựng, ngồi từng dăy im thin thít, quấn sợi,
kéo chỉ. Ở khu dệt thảm đa số thợ là trẻ nhỏ, thấy du khách đến chúng
lấm lét ra hiệu cho du khách lại gần rồi hai mắt dáo dác, đưa tay xin
tiền. Không biết là chúng sợ bị bắt, bị trừng phạt, hay sợ bị thu lại số
tiền xin được. Đến khu bán hàng th́ chỉ thấy người Hoa, líu lo nói tiếng
Hoa, nét mặt sung măn. Buổi chiều chúng tôi được đưa đi mua sắm ở khu
thương mại nằm phía đông thành phố, trong ḷng bốn con đường chính có
tên Wengduixinca, Dongzisu Road, Hebalinlu và Zinzudong Lu. Ở mấy dăy
phố này không có nhà cao từng. Bảng hiệu hoặc viết bằng Anh Ngữ hoặc
bằng chữ Hán. Bước vào đây không khác ǵ bước vào các khu phố Tàu ở
Philadelphia hay phố Tàu ở Los Angeles. Có lẽ người dân Tây Tạng đă “tự
nguyện xin đi các vùng kinh tế mới”, hệt như người Sàig̣n tự nguyện dâng
nhà dâng cửa cho Đảng cho Bác để đi lao động vinh quang tại các vùng đèo
heo hút gió khỉ ho c̣ gáy Bù Đăng, Bù Đóp, Bù Gia Mập. Bữa ăn cuối cùng
tại Lhasa chúng tôi được đưa vào nhà hàng uống sữa Yak, ăn cháo ḷng
Yak, có tiếp viên và nhạc công mặc xiêm y Tây Tạng, nhưng viên quản lư
lại cũng là người Tàu. Khi sắp ra về cô Mă Dung choàng lên cổ chúng tôi
mỗi người một khăn vải mỏng màu trắng, biểu lộ t́nh hữu nghị và sự hiếu
khách của người Tạng.
Ở Tây Tạng bốn ngày, đi đâu cũng chỉ thấy người Hoa làm chủ. Trước đây
Tây Tạng là một quốc gia độc lập cho đến năm 1959 th́ bị Trung Cộng sát
nhập. Trước năm 1950 dân số Tây Tạng gần một triệu nhưng năm 2000, theo
thống kê, dân số lên đến hơn 2 triệu. Một triệu người thêm sau này chắc
chắn có đến 80% là người Hoa v́ dân Tây Tạng rất ít sinh đẻ. Giờ đây có
lẽ dân số trên đất Tạng đă cao hơn nhiều, nhưng người Tây Tạng đích thực
đă trở thành nô lệ của người Trung Hoa Hán Tộc. Lũ Tạng Gian trở thành
cai nô c̣n người dân Tây Tạng th́ làm thợ trong các xưởng máy hoặc làm
nông nô tại các nông trường. Đức Đạt Lai Lạt Ma đă nhân danh Tây Tạng
vận động khắp thế giới xin cho Tây Tạng là một xứ tự trị Tibet Autonomy
Region (TAR) cũng không được. Trung Cộng đă dựng lên một Ban Thiền Lạt
Ma làm bù nh́n. Trước đây đến Tây Tạng phải bằng máy bay. Năm 2000, du
khách từ Thành Đô tới Tây Tạng cũng phải đi bằng máy bay. Năm 2004 Trung
Cộng xây dựng một thiết lộ nối liền Trung Quốc đến Tây Tạng. Có con
đường này th́ lên Tây Tạng sẽ dễ dàng và người Hán sẽ lên Tây Tạng thoải
mái. Con đường này làm tôi liên tưởng đến con đường Trường Sơn được Hà
Nội cho làm xuyên suốt từ biên giới Trung Cộng vô Nam.
Ôi! Dân Tạng chỉ có hơn một triệu nên phải chịu cảnh mất nước đă đành,
c̣n dân Việt chúng ta có hơn tám chục triệu cũng đành chịu trở thành dân
mất nước? Chẵng lẽ ngay trong cuộc đời trước mắt, chúng ta đứng yên để
thấy những đảng viên cộng sản trở thành cai nô, người dân Việt Nam trở
thành nông nô, tổ quốc Việt Nam là một ngôi sao nhỏ nằm chung với bốn
ngôi sao nhỏ khác. Lá cờ Trung Cộng sẽ là lá cờ có một ngôi sao nhỏ lớn
tượng trưng cho Đại Hán và năm ngôi sao nhỏ tượng trưng cho năm sắc dân
bị mất nước là Măn, Mông, Hồi, Tạng, Việt?
Lê Minh Khôi