Nguyễn Văn Lục
– Tạp ghi
Bài viết này riêng tặng các luật sư trẻ như Lê Công
Định, Lê Trần Luật
Tôi có hai đứa cháu nội. Chẳng nhiều nhặn ǵ so
với người khác. Dầu vậy, chúng là điểm chuẩn
(point de repère) cho tôi nh́n và so sánh
với thế giới bên ngoài. Từ hồi chúng bắt đầu
“cắp sách đi học”, tôi cũng bắt đầu học được
nhiều thứ lắm.
Thật ra, tôi xin sửa lại cho đúng kẻo oan
cho các cháu. Chúng nó chỉ có cái “bề ngoài” đi
học. Đứa nào cũng đeo lủng lẳng một cái cặp
nặng sau lưng, to bằng một phần tư thân
h́nh.Thằng nhỏ đi đứng khệnh khạng làm ra
quan trọng lắm. Kỳ thực trong đó chỉ có bánh
ḿ, trái cây và nước trái cây.
Mang tiếng là nó đi học mà như thể đi chơi.
Đến trường th́ cô giáo phát cho dụng cụ như
các loại bút ch́ mầu, tha hồ “vẽ bậy vẽ bạ”
cái ǵ nó nghĩ ra được.
Vậy mà chúng “tiến bộ” từng ngày. Cả hai làm
bố mẹ chúng ngạc nhiên. Trường học đă làm
thay đổi ngay cả từ cử chỉ chào hỏi, cách
đối đáp, biết mừng ngày lễ của mẹ, mừng sinh
nhật, v.v... Trường xem ra không dạy ǵ cả
mà dạy rất nhiều. Chưa kể chúng nói “sành
sơi” đúng giọng tiếng Pháp không giống cái
giọng cứng cỏi như ông nội nó. Điều ngạc
nhiên là đến trường, chúng phân biệt chữ nào
là tiếng Pháp cô giáo nói và chữ nào là
tiếng Việt, bố mẹ nó nói. Có lần, tôi lười,
uống xong lon bia, tiện tay quẳng cái vỏ lon
bia vào thùng rác. Nó thấy được, “bắt quả
tang” ông nội làm bậy. Nó nói, ông nội, ra
dấu không bằng ḷng rồi nắm tay tôi lôi ra
phía thùng rác, bắt lấy lon bia vứt vào một
thùng nhựa đề Recyclage (Recycle) gần đó.
Xấu hổ quá. Tôi muốn nhờ họa sĩ Ba Bụi giúp
vẽ cái cảnh cháu tôi, nó bắt tôi lượm vỏ lon
bia để vào thùng Recyclage gửi cho thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng.
Chẳng bao lâu sau th́ tôi đâm nghi ngờ h́nh
như chúng nó biết nhiều thứ lắm. Nhất là
cháu gái lớn 6 tuổi. Nó biết cả những vấn đề
mà Nguyễn Tấn Dũng cũng “mù” không biết, như
vấn đề môi sinh, môi trường. Thật ra chẳng
dám so sánh, nhưng cực chẳng đă phải nói
thẳng vậy thôi. Nhưng tương lai Việt Nam mà
rơi vào tay một người lănh đạo vô học th́
chỉ có chết. Nay ông Thủ tướng lại phát động
thành lập những tổng công ty trọng điểm do
nhà nước quản lư là thêm một bước lùi nữa.
Chẳng bao lâu nữa, những công ty như đóng
tầu thủy, Hàng không Việt Nam, dầu hỏa, điện
lực, các ngân hàng sẽ là những ổ thụt két, ổ
tham nhũng, làm ăn lỗ lă thất thoát vốn nhà
nước.
Đất nước không khá được khi trao vào tay
những kẻ cầm quyền ít học.
Hiện nay, 8 triêu dân Sài G̣n đang sắp sửa
đua nhau mua áo tắm và học bơi trên một hồ
tắm thiên nhiên trải dài trên khắp các quận
huyện. Lănh đạo thành phố Hồ Chí Minh báo
động Sài G̣n sẽ bị ngập lụt khi có mưa lớn
và khuyên nên chuẩn bị đối phó bằng cách tập
bơi để tránh khỏi chết đuối. Có lẽ hơn ba
chục năm nay, không có lănh đạo nào tồi tệ,
bất nhân, ĺ lợm như nhóm lănh đạo hiện nay
từ Trung Ương tới địa phương.
Đất nước có nguy cơ bị kéo sụp đổ.
Tuy con cháu tôi đă có chút hiểu biết về môi
sinh, môi trường, nhưng vẫn chưa nói được
hai chữ bô xít...
C̣n computer th́ khỏi nói. Chẳng ai dậy
nó mà mới tư tuổi đầu, tự nó vào “gơ loạn
lên.” Xem ra nó nắm được nguyên tắc, những
“nguyên lư” của computer mà sau này
nó sẽ qua mặt tôi dễ dàng.
Chúng đúng là những đứa trẻ. Chúng có tuổi
trẻ của nó.
Có nghĩa là sống hồn nhiên, vô tư. Ai cũng
phải nh́n nhận trẻ con Việt Nam sống ở nước
ngoài sướng thật. Chúng là niềm hy vọng
trước cả niềm hy vọng.
Nhưng cái vương vấn của tôi là cứ nh́n đến
các cháu bên này hay đọc tài liệu phía Việt
Nam và Trung Quốc liền nghĩ đến các trẻ bên
Việt Nam.
Chúng không được cái cơ may sống như một đứa
trẻ hải ngoại và nói một cách nghiệt
ngă như nhà văn Lu Xun, nhà văn lớn Trung
Hoa của thế kỷ 20, đă dự đoán tương lai
những đứa trẻ Trung Hoa rằng: “Trước khi
đứa trẻ mở miệng nói, người ta đă cho là nó
lầm lỗi rồi.” Điều đó, áp dụng cho cả
những đứa trẻ đă trưởng thành như các anh
luật sư Luật, Định. Họ đă dùng cả bộ máy
công an khổng lồ của nhà nước để trấn áp một
thanh niên trẻ tuổi bắt nhận tội trước cả
khi ṭa xét xử. Cái nỗi nhục không phải từ
phía luật sư Lê Công Định mà từ phía những
kẻ man rợ trấn áp anh.
Khi các anh ra ṭa th́ xin các anh nhận
thêm một tội này, tội lớn nhất: Đó là tội đă
trót sinh ra làm người Việt Nam sống dưới
chế độ xă hội chủ nghĩa... Các anh đang
sống ở một nơi mà bộ máy quản lư con người
(La machine humaine) thuộc loại tàn độc và
bạo hành khủng khiếp nhất với hơn 3 triệu
cán bộ. Các anh chỉ có thể hiểu được tại sao
tôi nói thế, khi các anh đă sống ở các nước
thế giới tự do.
Cứ mỗi lần nghĩ tới cháu tôi hoặc các
trẻ em bên này, tôi không thể không chạnh
ḷng, than thở với vợ. Cô ấy gạt đi và nói,
“thây kệ họ, ḿnh ở đây hơn 30 năm rồi, ḿnh
làm ǵ được?”
Đúng vậy, nhưng chỉ v́ một lẽ là ḿnh c̣n có
một trái tim.
Trẻ em Việt Nam chúng không có cơ may làm
người. Ngay dù hiện tại chúng là một đứa
trẻ th́ đă gánh trên vai trách nhiệm nặng
nề của một tương lai nghiệt ngă sắp tới.
Bỏ ra ngoài lề những đứa trẻ chẳng may
số phận bất hạnh như mồ côi, lạc loài sống
chung giữa những đống rác hay mới 5 tuổi đầu
mà mẹ đă bắt đi ăn mày, hoặc 13, 14 tuổi đă
bị gả bán cho ngọai kiều. Những sự bất hạnh
ấy giống như những hạt cát trong hằng hà
những hạt cát trên băi biển, bị sóng xô đẩy,
vùi dập rồi c̣n bị những bước chân con người
vô t́nh thản nhiên dẫm lên.
Nhưng ngay cả đa số những đứa trẻ được ăn
học th́ số phận chúng cũng bị dập vùi đủ
thứ bất hạnh. Chúng đang sống ở một nơi mà
quyền sống, quyền làm người không có ǵ bảo
đảm. 83 triệu người cúi đầu khiếp sợ trước
hơn 3 triệu đảng viên. Luật lệ là do họ, bắt
bớ tù đầy là do họ. Kết quả đó là một xă hội
c̣n ở t́nh trạng thô thiển (simple), khép
kín như một trại súc vật hay một thứ trại
lính (système encaserné). Ở bên Tầu, một tỉ
300 triệu người cũng cúi đầu khuất phục
trước 64 triệu đảng viên đang làm mưa làm
gió như vậy.
Ở Việt Nam cũng như bên Tầu, chính trị có
mặt khắp nơi. Nó có mặt trên những tấm biểu
ngữ người ta đọc được như: Mừng Xuân,
mừng Đảng. Tôi đă đọc được những biểu
ngữ như thế trên đường phố Sài G̣n và Huế.
Tôi buồn cười mà chua chát. Khắp nơi đều có
các phường Văn hóa mà vô Văn hóa. Loa phóng
thanh c̣n tồn tại khắp nơi, ngay cả thành
phố Hà Nội và cộng vào đó hơn 600 tờ báo đủ
loại, chưa kể đài phát thanh, vô tuyến
truyền h́nh.
Chỉ cần có một biến cố ǵ đó như vụ Thái
Hà là vang vang khắp nơi như bầy chó sủa.
Họ át tiếng người.
Họ như những sợi dây trời. Có những sợi vu
oan, sợi dối trá, sợi trói tay người, sợi
tra tấn, sợi hù dọa. Chỉ thiếu sợi t́nh
người, sợi chia sẻ.
Họ gần như mỗi ngày đi xa khỏi giống người.
Trong tinh thần đó, hy vọng ǵ có một Thiên
An Môn thứ hai xảy ra trên đất nước Tàu, Và
dĩ nhiên cả ở trên đất nước Việt Nam nữa.
Một ngày mùa đông trên quảng trường Thiên An
Môn. Hôm đó vào một ngày có trời tuyết. Một
người cha dắt con đến đó và đắp một tượng
người bằng tuyết cho con chơi. Một người
lính đến và dùng chân đạp sập tượng người
tuyết và nói rằng: Ở quảng trường này không
có chỗ cho người tuyết. Đứa trẻ khóc thút
thít.
Người tuyết không có quyền được có mặt trên
quảng trường, trẻ con cũng vậy và ngay cả
một chút mơ mộng của một đứa trẻ cũng không
có nốt.
Cứ nh́n cây th́ biết rừng như thế nào.
V́ thế cây không thể nào che dấu được rừng.
Ngay từ tuổi thơ, trẻ em Việt Nam đă bị dập
vùi học với thi cử. Chưa kể chẳng may bụng
dạ không tốt, muốn đi ị cũng không xong, v́
trường học không có cầu tiêu, hay cầu tiêu
quá dơ bẩn. Sao mà khốn khổ thế.
Một nhà báo Pháp, ông Éric Meyer trong cuốn
sách nhan đề: Sois riche et tais-toi!
Portrait de la Chine d’aujourd’hui. (Cứ
làm giàu đi và câm cái miệng của anh lại).
Cuốn sách viết về nước Tàu mà giống y hệt
Việt Nam. Chỉ cần bỏ chữ Chine và thay vào
đó chữ Việt Nam là xong. Ông Meyer lập
nghiệp và lấy vợ Tàu, sống ở Bắc Kinh từ năm
1987 đă viết vỏn vẹn như thế này về việc học
bên Trung Quốc: “En Chine, les études se
conjuguent avec les larmes.”
Ở bên Tàu, việc học đi đôi với nước mắt.
Sao nó giống Việt Nam thế. Cha mẹ cứ ŕnh,
hễ đứa trẻ hở ra một phút nào là bắt đi học
thêm. Và đây là thời khóa biểu của một bé
gái con nhà có cuộc sống tương đối khá. 7giờ
30 tới trường. Chiều về, tuần ba buổi tới
nhà cô giáo học thêm. Những buổi c̣n lại
dành cho một buổi học đàn Piano, một buổi
học Anh Văn. Đặc biệt thứ bảy có học thêm
hai giờ toán. Chưa kể chiều thứ năm, công
tác đoàn đội. Ngày thứ bảy kể từ 11 giờ là
vui nhất v́ đến nhà thờ, sau đó sinh hoạt
vui chơi như hát hay múa. Chính quyền cũng
không phải là không nh́n thấy cái “lợi ích”
của sinh hoạt nhà thờ. Họ muốn giao trách
nhiệm cho nhà thờ lắm. Nhưng họ c̣n ngại.
Ngay từ lúc 4 tuổi, Zhou Jaying đă được cha
mẹ ghi tên học thêm cours nói tiếng
Mỹ và một cours đàm thọai tiếng Anh. Cha
mẹ em hy vọng sau này có thể gửi con sang
học đại học ở Hoa Kỳ. (Trích bài của De
Leslie T. Chang trong số National
Géographic, tháng 5, 2008) Xin nói thêm về
tác giả. Leslie T. Chang đă sống ở bên Tàu
10 năm. Cuốn sách của tác giả có tựa đề thật
“bức xúc”: Factory girls.
Theo Nguyễn Đức Tuyên, học thêm không
có nghĩa là dốt. V́ thế học thêm là một
nhu cầu giả.
Tôi nghĩ việc học thêm này là một nhu cầu
xă hội cạnh tranh, nhu cầu kinh tế để sinh
tồn, nhu cầu có chỗ đứng trong xă hội, một
truyền thống giáo dục trong các gia đ́nh
Á Châu như Đại Hàn, Nhật, Trung Quốc. Nhưng
trong việc đi t́m một sự phát triển đổi mới
do bản thân các cha mẹ đă trải nghiệm những
lo toan sinh tồn trong cái đi t́m (Quête)
một đời sống b́nh ổn nhờ vào học vấn. Kinh
nghiệm đau xót ấy được chuyển giao, đặt trên
vai thế hệ con cháu thêm một tầng áp lực thứ
hai nữa tạo thêm một tầng áp lực “quá tải”.
V́ thế, việc học thêm trở thành một ám ảnh
tương lai tuyệt đối mà bất cứ ai khi nghĩ
đến tương lai, đến thành công đều hy sinh
tốn kém, thực hiện cho bằng được.
Dĩ nhiên, những bậc cha mẹ đă không có chút
hiểu biết ǵ về phương pháp đào tạo và giáo
dục cả. Nước Tàu cũng rơi vào căn bệnh y như
Việt Nam để rồi những đứa trẻ nào nhẫn nại
nhất, chịu khó nhất, tự kỷ (autistes) nhất
sẽ có chỗ đứng trong đại học. Nhưng ít ra
người Tàu c̣n có 20 thế kỷ ngự trị của Hán
tộc làm đuốc soi đường mà dấu vết văn minh
c̣n sót lại như những dấu tích và truyền
thống không quên. Nó chẳng khác ǵ đế quốc
La Mă thời xưa: Hai thế giới, hai siêu cường
trong quá khứ lịch sử. Mặc dầu vậy, cả hai
nền văn minh ấy đều dựa trên những căn bản
dị biệt: Sự thịnh vượng của triều đại Hán
tộc là dựa trên những người nông dân tự do,
c̣n sự thịnh vượng của La Mă rơ ràng là dựa
trên lưng của người nô lệ.
Con cháu họ sau này mải mê việc học có cái
truyền thống của họ.
C̣n chúng ta đă phải trả giá một giá quá cao
đến cái giới hạn cuối cùng của sức người.
Nhất là chúng ta đă hoàn toàn hy sinh tuổI
trẻ.
C̣n đâu là cuộc đời đứa trẻ với tuổi
thơ. Đến năm 12 tuổi, gánh nặng tương lai
đă đè nặng trên vai bởi v́ những nỗi lo âu
của cha mẹ bắt đầu trút xuống trên đôi vai
tuổi trẻ. Không học th́ tiêu đời. V́ vậy,
theo thống kê của người Trung Quốc 30% trẻ
em Trung Quốc bị stress trong đó nhiều em có
xu hướng muốn tự tử. Nhiều trẻ đă thất bại
trong việc học, Con số lên đến 70%. Thất bại
việc học một cách tự động kéo theo đi t́m
sex như một chỗ trú ẩn trong ṃ mẫm “tự học”
hoặc “tự dẹp” (autorépression), không có sự
hướng dẫn của cha mẹ và trường học. Kết quả
là 50% các vụ phá thai ở các nhà thương ở
Bắc Kinh là những cô gái độc thân và trong
đó có 17% là gái vị thành niên.
Ở Việt Nam cũng không khác ǵ, nhiều học
sinh chán nản việc học quay ra t́m thú vui
nhục dục. Rượu gọi rượu đưa tới những tệ nạn
dây chuyền như du đăng, măi dâm, nghiện
ngập, bệnh Aids, nạn phá thai và cuối cùng
tự tử. (Xin xem thêm bài viết Giáo dục và
tuổi trẻ, Diễm Uyên và bài Một cái
nh́n về thực trạng giáo dục Việt Nam,
Nguyễn Đức Tuyên, tập san Truyền Thông, số
17, mùa thu 2005).
Những con số ấy có thể nào giúp một cái nh́n
quy chiếu về tương lai giáo dục Việt Nam
không?
Cho nên, việc học lấy được chỉ cốt đào tạo
những cái đầu cho đầy và để đến cuối năm thi
cử, trả bài. Người ta kiểm tra cái vốn học
thay v́ cái tính luận lư, suy luận.
Đó là cái học theo tinh thần: Thầy đọc, tṛ
ghi. Nó như mưa th́ từ trên trời rơi xuống.
Đă đến lúc cần có mưa rơi ngược. Mưa từ dưới
đất lên trời? Để cho mưa làm ướt trời thay
v́ ướt đất.
Trường học Việt Nam, một thứ Chinese model
cũng như bên Tàu là nơi đến đó để buồn, để
chán nản. (L’école chinoise rest un endroit
̣u l’on s’ennuie).
Kết quả chất lượng học tập là học sinh Việt
Nam có tỷ lệ thấp nhất trong vùng. So với
Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Đài Loan,
Trung Quốc, Malaysia, Philippines, chỉ số
chất lượng giáo dục Việt Nam đạt 3.79 trên
thang điểm 10, áp chót, chỉ hơn Indonesia.
Tôi nói có người làm chứng. Em Nguyễn Phi
Thanh, lớp 11 A18 trường Trung Học phổ thông
Việt Đức, Hà Nội trong kỳ thi giỏi các lớp
không chuyên Hà Nội, ngày 18/03/2005 đă viết
trong bài thi như sau:
Em nghĩ, đứng trước một tác phẩm
văn học, bao giờ cũng có ư kiến
trái ngược khen-chê, hay-dở,
nhưng dường như học sinh bọn em
chỉ có quyền thích, chỉ có quyền
khen hay mà không có quyền nói
lên chính kiến của ḿnh, và việc
phê b́nh văn học h́nh như chỉ là
việc của các nhà phê b́nh như
Hoài Thanh, Hoài Chân. Nh́n ra,
chỉ ra cái hay của một tác phẩm
văn học đă khó, nhưng chỉ ra cái
hạn chế, thiếu sót của tác phẩm
ấy c̣n khó nữa, vậy mà chưa bao
giờ bọn em được tỏ rơ chính kiến
của ḿnh trong một bài thi, tất
cả chỉ v́ áp lực của điểm số.
Phản ứng của em Thanh không thể coi
nhẹ. Nó sẽ tiếp nối những tư tưởng
đối kháng và tiến bộ của những Lê
Trần Luật, Lê Công Định bây giờ.
Ở bên Tàu, các bài học về chính trị
dùng cho các trường học từ thập niên
1950 đă được cải sửa vào năm 1998.
Người ta đă tạm quên, tạm gác bỏ (en
sourdine) môn học đó. Và thay vào đó
cho thêm những vấn đề như kinh tế
thị trường, thị trường chứng khoán
và quản trị xí nghiệp. Tuy nhiên,
những điểm “cốt lơi” như quyền và
vai tṛ của đảng trong nhà trường
cũng như những nhiệm vụ của học sinh
đối với nhà nước vẫn giữ nguyên.
Chẳng hạn có những giờ được quy định
từ sáng sớm, mất giấc ngủ sáng, học
sinh phải đến sân vận động tập
thể dục tập thể. Trên tay mỗi học
sinh cầm hai lá cờ đỏ, hoặc tấm biểu
ngữ rồi múa theo nhịp của vận động
viên. Hàng ngàn ngàn học sinh sinh
cứ tập đi, tập lại như thế trong cả
năm để chờ đến các dịp lễ th́ ra múa
như dịp Thế vận Olympic vừa rồi
chẳng hạn.
Trông th́ đẹp mắt lắm, nhưng chẳng
ai tự hỏi xem cái giá mà tuổi trẻ
phải trả là bao nhiêu? Người ta gọi
môn thể dục đó là múa Callisthénie.
Có thể nó phần nào như lối múa thi
sắc đẹp thời cổ Hy Lạp vậy?
Việt Nam không quen múa may th́ may
ra có thể miễn trừ được môn học này.
Cái bất ngờ đến sửng sốt là có khóa
hội thảo trên toàn nước Tàu vào năm
2000 về sư phạm, người ta mới kịp
khám phá ra rằng chương tŕnh giáo
dục khoa luân lư học của Tàu đă biến
mất.
Nền giáo dục của Tàu không nói
tới đạo lư nữa. Và v́ vậy những
kẻ yếu đuối, thấp hèn không được
pháp luật bảo vệ. Bên Việt Nam th́
vấn đề đă rất rơ ràng: Chỉ học theo
gương bác Hồ.
Đă thế việc đầu tư vào giáo dục ở
Việt Nam là quá thấp so với các nước
khác. Mă Lai đầu tư cho giáo dục 720
đô la đầu người. Thái Lan 350, Trung
Quốc 105, và Việt Nam vỏn vẹn 35.
Nếu tính trên cả nước, nước Tàu dành
2.66 tỷ cho giáo dục trong khi đó
dành đến 45 tỉ đô la cho Quốc
Pḥng...
Giữa Mă Lai vă Việt Nam, tương lai
tốt đẹp sẽ dành cho nước nào?
V́ thế, một nhà giáo dục ông Qian
Liqun đă cho xuất bản vào tháng tư
năm 1999, đại học Shantou, Canton
cuốn sách nhan đề: L’enseignement
littéraire à l’école intermédiaire,
trong đó có ư tưởng chủ đạo là:
Không thể có bất cứ cuộc cải cách
giáo dục nào nếu không đặt lại vấn
đề vai tṛ trung tâm của chủ thuyết
Mác Xít trong giáo dục.Từ năm 1942,
tư tưởng chủ đạo của Mao Trạch Đông
cho rằng mọi thứ nghệ thuật th́ đều
phải dựa vào Đảng, phải lấy Đảng làm
gốc và Đảng sẽ là cái loa tuyên
truyền của ư thức hệ.
Cũng như mọi chế độ cộng sản, Môn
chính trị ở bên Tàu cũng như ở bên
Việt Nam. Chủ nghĩa Mác Xít đă
ngênh ngang ùa vào lớp học một cách
ép buộc. Cho đến ngày 22/12/2004,
các môn Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn là phương án cho các kỳ thi tốt
nghiệp của các trường đại học ở Việt
Nam. Người đi học vẫn tiếp tục cắm
cúi tụng niệm một môn học mà chính
thầy không muốn dạy và tṛ không
muốn học.
Môn sử học lớp 12 vẫn học về những
năm chiến thắng Điện Biên
Phủ và những năm chống Mỹ cứu nước.
Đó là một thứ sử phi sử v́ nhằm mục
đích tuyên truyền thay v́ giúp cho
học sinh hiểu lịch sử đất nước ḿnh.
Tôi chỉ không hiểu là về môn địa lư,
chính quyền đă làm lễ hỏa thiêu
bản đồ cũ Atlas Việt Nam chưa? Và đă
xây dựng được một nghĩa trang để
chôn bản đồ atlas cũ với tấm bia kỷ
niệm với hàng chữ: Nơi đây chôn
cất 5 triệu người đă hy sinh để bảo
vệ tấm bản “dư đồ” này.
Và kể từ nay, chúng ta đă vẽ xong
tấm bản đồ mới với Trung Quốc
về biên giới đất và biên giới biển
mà đă không phải tốn kém một giọt
máu nào.
Cho nên, đă đến lúc phải coi
chủ nghĩa Mác với những lănh tụ
như Lenin, Trostsky, Sokolnikov,
Staline, Zinoviev không c̣n chỗ đứng
nữa trong lịch sử. Lịch sử quả
có một hướng đi lên, nhưng không
nhất thiết không chỉ đi theo một
hướng duy nhất. Không thể măi măi có
những con đường một chiều, không có
lối quay nh́n trở lại.
Phải hạ ảnh của họ xuống.
Con gấu cách mạng Stalin vào năm
1932, trong kế hoạch ngũ niên đă hứa
hẹn như thế này:
– Trước đây, ta không có kỹ nghệ
thép (Staline bị ám ánh vào kỹ nghệ
thép, luyện kim). Bây giờ chúng ta
có rồi.
– Trước đây ta không có kỹ nghệ
trắc-tơ. Bây giờ chúng ta có rồi.
– Trước đây, ta không có kỹ nghệ xe
hơi . Bây giờ chúng ta có rồi.
– Trước đây chúng ta không có kỹ
nghệ cơ khí. Bây giờ chúng ta có
rồi.
– Trước đây chúng ta không có kỹ
nghệ hóa học. Bây giờ chúng ta có
rồi.
Để thực hiện được những điều đó,
chúng ta cần ăn đói mặc rách để biến
mồ hôi thành nhà máy.
Để thực hiện những điều đó, 30 năm
chúng ta không thấy ánh sáng mặt
trời, v́ một người đă biến thành
“mặt trời của nhân loại.”
Để thực hiện những điều đó, chúng ta
cần chịu đựng một bản án khai trừ,
lưu đầy, xử tử, ngay cả thủ tiêu để
thực hiện được thiên đàng xă hội chủ
nghĩa trên đỉnh núi Sinai-Kremlin...
Nhân loại đă phải trải qua những
thời của một triều đại tàn độc phi
nhân như Staline, Mao Trạch Đông, Lê
Duẩn như một thứ Tần Thủy Hoàng của
thời đại bấy giờ.
Xem ra th́ cái mô h́nh, kiểu mẫu
thử nghiệm đầu tiên bao giờ cũng
phải trả một giá quá đắt.
Kết thúc bài này
Đây chỉ là một bài tạp luận trong đó
hệ số bản thân người viết là chủ
yếu. Giáo dục là tương lai của một
dân tộc. Nh́n vào nền giáo dục Việt
Nam, tôi không c̣n thấy tương lai
cho Việt Nam nữa. Nó đang đi trên đà
phá sản với tập đoàn đảng cộng sản
cầm quyền.
Ai trong lúc này có thể thắp lên
một ngọn nến hy vọng ngoài giới trẻ?
Ngay nước Tàu được coi như tiêu biểu
của ngọn đuốc phát triển kinh tế. Đó
chỉ là cái bề mặt. Họ đă hy sinh tất
cả cho phát triển mà bỏ rơi các vấn
đề xă hội. Chỉ nội Bắc Kinh thôi. Có
khoảng 250.000 trẻ em bỏ học, đi
lang thang đầu đường xó chợ. Theo
Daniel Stocecklin, (lấy lại trong
Sois riche et tais-toi, Éric
Meyer, trang 215) một nhà xă hội học
với một luận án tiến sĩ về trẻ em
lêu lỏng ở Thượng Hải. Ông cho rằng
từ năm 1993 đến 1996, có khoảng 44%
trẻ em sinh ra một cách dấu diếm và
bất hợp pháp”, v́ không có giấy tờ
khai sinh. Và rằng cứ mỗi năm, nước
Tàu có thêm 2 triệu trẻ em “sinh
lậu” như thế. Và tổng cộng lại có
25% số đó bị chính cha mẹ bỏ rơi v́
không có tiền bạc để nuôi dưỡng. Và
theo UNESCO, người ta tính ra có 10
triệu trẻ em đi hoang trong ṿng 20
năm nay.
Không ai có những con số chính thức
như thế về t́nh trạng trẻ em Việt
Nam. Nhưng một cách dự đoán khiêm
tốn, con số trẻ em đi hoang
có thể lên tới nửa triệu trẻ em trên
toàn quốc.
Đấy là những con số làm đau ḷng
nhiều người. Đi bất cứ đâu, đến bất
cứ chỗ nào, khách du lịch cũng bị
một bầy trẻ em bao quanh làm phiền,
quấy nhiễu mà không nhẽ chối từ? Có
ai đă gặp những cảnh đó chưa? Nhưng
chính quyền hiện này cũng phủi tay.
Và theo phúc tŕnh của Liên Hiệp
Quốc vào năm 1987, Việt Nam là một
trong 12 nước dốt và lạc hậu nhất
thế giới.
Nh́n cây th́ thấy rừng, nh́n trẻ em
Việt Nam ngày hôm nay để sẽ
thấy được cái bảng chỉ đường đất
nước đi về đâu? Hỏi là đă trả lời.