Nguy cơ về một cuộc xâm lăng quân sự của TQ ở Trường Sa
Trần Vinh Dự
Dư luận ở Việt Nam thời gian gần
đây lo ngại về khả năng Trung
Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm
các đảo ở Trường Sa từ tay Việt
Nam. Hồi giữa tháng 4 vừa rồi,
báo Times cũng phản ánh vấn đề
này qua bài
“Ở Việt Nam: Những mối lo mới về
sự xâm lược của Trung Quốc”.
Những mối lo này là có thật,
nhưng liệu chúng có cơ sở thực
tế hay không? Và nếu có th́ đến
mức nào?
Mối lo ngại này bắt nguồn từ các
động thái khiêu khích ngày càng
rơ ràng của Trung Quốc trên Biển
Đông. Kèm theo đó là các áp lực
khác về kinh tế như sự xâm lăng
và tràn ngập của hàng hóa giá rẻ
từ Trung Quốc.
Gần đây nhất là chuyện người
Trung Quốc khai thác quặng nhôm
ở Tây Nguyên. Từ các áp lực này,
người Việt cảm thấy đang bị lấn
át và đe dọa.
Thế nhưng nh́n một cách khách
quan th́ Trung Quốc được lợi ǵ
và mất ǵ nếu họ đánh chiếm các
đảo Trường Sa của Việt Nam? Và
v́ thế, liệu Trung Quốc có muốn
tiến hành một cuộc chiến tranh ở
Trường Sa trong tương lai gần?
Với cán cân sức mạnh quân sự,
đặc biệt là sức mạnh trên biển,
quá trênh lệch như hiện nay,
không ai có thể phủ nhận rằng
nếu Trung Quốc đánh, họ sẽ chiếm
được các đảo và băi đá này. V́
thế, thôn tính và chiếm hữu là
lợi ích đầu tiên.
Một chiến dịch quân sự trên biển
chớp nhoáng và đạt được thành
công toàn diện sẽ giúp thỏa măn
tinh thần dân tộc và khát vọng
bành trướng lănh thổ của Trung
Quốc. V́ thế, có thể củng cố
tính chính danh của lănh đạo
Trung Quốc cũng như ḷng tin của
dân chúng vào nhóm này. Đây là
lợi ích thứ hai.
Trong những trường hợp Trung
Quốc cần củng cố ḷng tin của
dân chúng hoặc cần sử dụng chủ
nghĩa dân tộc để thay đổi sự
quan tâm tức thời của dư luận
nội bộ th́ đây là một lợi ích
hết sức quan trọng.
Lợi ích thứ ba là thông qua việc
kiểm soát các đảo và băi đá ở
Trường Sa, Trung Quốc có thêm
bàn đạp vững chắc trong nỗ lực
kiểm soát hoàn toàn Biển Đông
bằng quân sự. Điều này đặc biệt
quan trọng nếu Trung Quốc muốn
đơn phương khai thác các nguồn
tài nguyên dầu khí dưới đáy biển
và không muốn các nước láng
giềng tranh phần.
V́ thế, khi giá trị các nguồn
tài nguyên này càng lớn (thí dụ
do giá dầu thế giới tăng quá cao,
hoặc phát hiện ra các trữ lượng
lớn dầu trong khu vực này), th́
lợi ích này càng nổi bật.
Thứ tư là một thắng lợi chóng
vánh sẽ đưa uy tín về quân sự
của Trung Quốc lên cao hơn, giúp
xây dựng vị thế bá chủ về quân
sự của nước này trên thế giới.
Đồng thời, nó cũng mang tính răn
đe đối với các nước láng giềng
khác đang có tranh chấp lănh thổ
với Trung Quốc.
Tuy nhiên, thiệt hại đối với
Trung Quốc cũng không nhỏ.
Thứ nhất là về dài hạn, cuộc xâm
lược này không thể giúp Trung
Quốc chiếm giữ hợp pháp Biển
Đông. Lư do là nếu Việt Nam vẫn
c̣n tồn tại với tư cách là một
nước th́ Việt Nam vẫn sẽ tiếp
tục đấu tranh và v́ thế vùng
biển này vẫn luôn trong t́nh
trạng bị tranh chấp.
Mặt khác, ngay cả khi các đảo và
băi đá này được công nhận về mặt
pháp lư là thuộc về Trung Quốc
th́ việc có thể sử dụng chúng để
đ̣i các vùng đặc quyền kinh tế
hay thềm lục địa mở rộng hay
không cũng vẫn là một vấn đề gây
tranh căi.
Thứ hai là nguy cơ phát triển
thành chiến tranh toàn diện (trên
biển và trên bộ). Nguy cơ về một
cuộc chiến tranh biên giới trên
bộ với Việt Nam là có. Việc Việt
Nam không trả đũa Trung Quốc
trên bộ hồi năm 1988 có lẽ sẽ là
bằng chứng rằng nguy cơ nổ ra
chiến tranh toàn diện sẽ không
cao.
Tuy nhiên, nếu như vào năm 1988
rất ít người Việt biết về cuộc
xâm lăng này th́ hiện nay với
khả năng thông tin nhanh nhạy,
dư luận trong nước chắc chắn sẽ
gây sức ép lớn đối với lănh đạo
Việt Nam theo hướng phát động
một cuộc chiến trả đũa trên bộ.
Một cuộc chiến tranh biên giới
có lẽ sẽ không dẫn tới bất kỳ
thắng lợi quân sự đáng kể nào
cho Việt Nam. Tuy thế, nó sẽ gây
bất ổn và làm tê liệt các hoạt
động kinh tế của các tỉnh phía
nam của Trung Quốc giáp danh với
Việt Nam. Đồng thời nó cũng buộc
Trung Quốc phải tiêu tốn một
nguồn lực đáng kể về sinh mạng,
khí tài và của cải vào một cuộc
chiến như vậy. Đây có lẽ là điều
Trung Quốc chưa muốn trong ngắn
hạn.
Thứ ba là nó không giải quyết
triệt để vấn đề đảo và băi đá
trên Biển Đông trừ khi Trung
Quốc tiếp tục đánh chiếm các đảo
và băi đá của Phillipines và
Malaysia trong khu vực này. Nguy
cơ về khả năng Trung Quốc đánh
chiếm nốt các đảo c̣n lại ở
Trường Sa sẽ đẩy các nước này
vào thế cụm lại với nhau để
chống lại Trung Quốc.
Thứ tư là nó làm nóng lên mối lo
ngại của tất cả các nước láng
giềng của Trung Quốc, kể cả Đài
Loan. Trung Quốc không chỉ có
tranh chấp lănh thổ và lănh hải
với Việt Nam, mà c̣n với hàng
loạt các quốc gia khác như
Phillipines, Malaysia, Đài Loan,
Nhật Bản, Ấn Độ. Nguy cơ về một
cuộc chiến tiềm tàng với Trung
Quốc hiếu chiến có thể châm ng̣i
cho một cuộc chạy đua vũ trang
mới giữa Trung Quốc với các nước
láng giềng.
Thứ năm là nó làm gián đoạn hoạt
động thương mại quốc tế. Tàu bè
khoa lại trong khu vực này sẽ
phải t́m các tuyến đường khác an
toàn hơn, và v́ thế tốn kém hơn
về cả tiền bạc và thời gian. Ảnh
hưởng của sự gián đoạn này tới
kinh tế thế giới như thế nào là
một dấu hỏi lớn. Trong ngắn hạn,
nó sẽ làm sâu sắc thêm cuộc
khủng hoảng kinh tế tồi tệ đang
chỉ mới có một số chỉ dấu hồi
phục mong manh.
Cuối cùng, việc duy tŕ quyền
kiểm soát liên tục đối với lănh
hải trong đường chữ U bằng biện
pháp quân sự là hết sức tốn kém.
Mặc dù Việt Nam mất đảo, nhưng
không có nghĩa là Việt Nam không
thể tiến hành các cuộc tấn công
mang tính quấy rối và làm gián
đoạn các hoạt động kinh tế trên
biển của Trung Quốc trong khu
vực này.
Tóm lại, nếu Trung Quốc đánh, họ
sẽ chiếm được các đảo và băi đá
ở Trường Sa từ tay Việt Nam.
Trung Quốc sẽ đạt được một số
lợi ích nhất định từ một cuộc
xâm lược như vậy. Tuy nhiên, các
tổn thất mà họ phải gánh chịu là
không nhỏ. Tựu trung lại, nguy
cơ về một cuộc xâm lăng quân sự
trên biển là có, nhưng không lớn,
đối với Việt Nam.
V́ vậy, có lẽ Việt Nam không nên
thổi phồng nguy cơ này khi định
hướng chính sách quốc pḥng và
ngoại giao. Đương nhiên điều này
không có nghĩa Việt Nam không
nên từng bước xây dựng khả năng
pḥng vệ trên biển để đón đầu
một cuộc chiến tranh có thể có
trên biển.